Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu viglacera

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.59 KB, 125 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước và đang trong giai đoạn công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từ thực tế cho thấy chưa bao giờ hoạt
động thương mại quốc tế (TMQT) lại diễn ra sôi động như ngày nay. Việc
giao lưu buôn bán giữa các quốc gia đã trở thành một yếu tố khách quan. Để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh quốc tế được thực hiện một cách thuận lợi
an toàn thì một nghiệp vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là quy trình
xây dựng và thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên đây là một vấn đề khó khăn và lại
ảnh hưởng đến sự thành bại của một doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển tốt thì vấn đề đặt ra là phải thực hiện tốt quy trình
tổ chức thực hiện hợp đồng, bởi đây là cơ sở pháp lý để xác định quyền và
nghĩa vụ giữa các bên, là căn cứ giải quyết tranh chấp khiếu nại - một vấn đề
mà trong hoạt động TMQT khó tránh khỏi.
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera là một doanh nghiệp trực
thuộc Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng - một đơn vị chủ đạo của
ngành thuỷ tinh và gốm xây dựng tại Việt Nam, vừa hoàn tất thủ tục cổ phần
hoá từ hình thức ban đầu là doanh nghiệp nhà nước vào tháng 3 năm 2006. Là
trung tâm xuất nhập khẩu (XNK) của Tổng công ty nên Công ty cổ phần xuất
nhập khẩu Viglacera rất quan tâm đến công tác XNK, coi đây là một trong
những hoạt động chủ đạo liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại và phát triển của
mình. Gần đây, khi công tác tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa còn nhiều
khó khăn thì việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ
mới cũng như tìm kiếm nguồn hàng nhập khẩu phục vụ cho công tác xuất
khẩu chính là lối thoát và là hướng phát triển lâu dài của Công ty.
1
Trong quá trình thực tập tại Phòng xuất nhập khẩu của Công ty cổ phần
xuất nhập khẩu Viglacera, nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức
thực hiện hợp đồng cùng với những kiến thức đã được trang bị trong nhà
trường, em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp


đồng nhập khẩu ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera” cho khoá
luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở xem xét thực trạng của quy trình tổ
chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty để đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao công tác này ở Công ty.
Đối tượng nghiên cứu: là toàn bộ hoạt động tổ chức thực hiện hợp
đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát hoá trên cơ sở các số liệu và tình hình thực tế tại Công ty.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài được
trình bày thành 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và quy
trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập
khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực
hiện hợp đồng nhập khẩu tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo rất tận tình của
thầy giáo hướng dẫn TS. Đàm Quang Vinh và sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn
thể ban lãnh đạo, các cô chú và anh chị ở Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Viglacera đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
2
CHƯƠNG 1
Những vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và quy
trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu
1.1.Khái quát về hoạt động nhập khẩu
1.1.1.Khái niệm về nhập khẩu
Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng
cửa với bên ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn
phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà

phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế khoa học kĩ
thuật mà loài người đã đạt được. Điều này không phải đến ngày nay các quốc
gia mới đúc kết được mà ngay từ thế kỷ thứ 18, các nhà kinh tế học như
Adam Smith, D.Ricardo đã đưa ra các học thuyết như “lợi thế tuyệt đối”,
“lợi thế tương đối” nhằm giải thích TMQT. Các học thuyết này chỉ ra rằng
mỗi nước đều có lợi thế nếu chuyên môn hoá sản xuất một mặt hàng nào đó
mà nước kia sản xuất kém hiệu quả hơn. Các lý thuyết đó đã trở thành nền
tảng cho các học thuyết sau này và được áp dụng rộng rãi trong hoạt động
ngoại thương. Để nền kinh tế đạt được hiệu quả cao nhất thì mỗi quốc gia
phải tìm cho mình một cơ cấu kinh tế thích hợp sao cho việc sử dụng nguồn
lực là tối ưu nhất, khai thác được mọi tiềm năng sẵn có, đồng thời hạn chế,
khắc phục các điểm yếu của mình. Như vậy, có thể kết luận TMQT mang tính
tất yếu đối với các nền kinh tế và trở thành quy luật phát triển khách quan
buộc tất cả các quốc gia phải tham gia buôn bán trao đổi hàng hoá với nhau và
chịu sự chi phối của quy luật chung này. Trong đó, nhập khẩu là một trong hai
hoạt động cấu thành của nghiệp vụ ngoại thương, là một mặt không thể tách
rời của hoạt động TMQT.
Hiện nay, có khá nhiều cách hiểu khác nhau xoay quanh khái niệm về
nhập khẩu. Trong cuốn kinh tế học, Paul A Samuelson định nghĩa: “xuất
3
nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn
bán ở phạm vi quốc tế”. Định nghĩa này mặc dù chỉ rõ phạm vi của hoạt động
nhập khẩu là phạm vi một nền TMQT, tức là nhập khẩu là hoạt động kinh
doanh buôn bán không chỉ giới hạn ở phạm vi một nước, tuy nhiên lại không
chỉ ra được đối tượng của hoạt động nhập khẩu.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của các nhà quản trị kinh doanh quốc tế
thì “nhập khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài
phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm phục vụ mục đích lợi
nhuận”.Quan điểm này không chỉ nói lên được phạm vi của hoạt động nhập
khẩu mà còn chỉ rõ đối tượng của hoạt động nhập khẩu có thể là hàng hoá

hoặc dịch vụ.
Ngoài ra, còn có quan niệm cho rằng: “nhập khẩu là hoạt động đưa
hàng hoá, tư bản từ nước ngoài vào trong nước”. Khái niệm này đã mở rộng
phạm vi đối tượng của hoạt động nhập khẩu không chỉ giới hạn ở hàng hoá,
dịch vụ mà còn bao gồm cả tư bản.
Tóm lại, có thể hiểu một cách chung nhất: Nhập khẩu là sự mua hàng
hoá và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc
tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích kinh tế - lợi nhuận”.
1.1.2. Vai trò của nhập khẩu
Ngày nay, sản xuất đã được quốc tế hoá. Để có thể tồn tại và phát triển
kinh tế các quốc gia đều tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế và
trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Trong đó hoạt động nhập khẩu ngày càng có
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia,
đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển còn nghèo đói và lạc hậu như
Việt Nam. Có thể thấy tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu qua những
vai trò sau:
4
1.1.2.1. Đối với quốc gia nhập khẩu
Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và
đời sống trong nước. Bởi vì, không một quốc gia nào có khả năng sản xuất
hiệu quả đối với tất cả các loại hàng hoá. Theo thuyết lợi thế so sánh, các
quốc gia đều muốn đạt tới lợi ích tối đa, do đó hoạt động nhập khẩu là một
hoạt động tất yếu. Nó cho phép các quốc gia có thể sử dụng được tất cả các
loại hàng hoá với chất lượng tốt nhất và mức giá rẻ nhất.
Nhập khẩu góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tiên
tiến, hiện đại cho sản xuất các hàng hoá, cho tiêu dùng mà trong nước không
sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được đủ nhu cầu.
Nhập khẩu còn là để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản
xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu, làm được như vậy sẽ tác
động đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh

tế quốc dân về sức lao động, vốn, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Đặc biệt là
đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ khoa học
công nghệ còn thấp, lực lượng sản xuất chưa phát triển. Hướng đi tốt cho các
quốc gia này là nhập khẩu các trang thiết bị máy móc, công nghệ phục vụ
cho xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để theo kịp sự phát triển của thế giới mà
không mất thời gian, nguồn lực để nghiên cứu tạo ra công nghệ đó.
Như vậy, nhập khẩu đã và đang tác động một cách trực tiếp và quyết
định đến sản xuất và đời sống các quốc gia. Bản thân nhập khẩu tự nó đã có
vai trò to lớn, nó là một tiến trình giao tiếp và hoà nhập nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới. Với những lý do đó, nhập khẩu có vai trò lớn trong
quá trình phát triển của Việt Nam, được thể hiện thông qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động nhập khẩu chúng ta đã được tiếp
5
xúc với những trang thiết bị hiện đại, tiên tiến, dần từng bước theo kịp các
nước phát triển. Đồng thời với những trang thiết bị đó, chúng ta thực sự làm
quen với nhịp độ công nghệ mới, lao động trong môi trường mới - tự động.
Do đó trong sản xuất có sự thay đổi lớn.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối
của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định, khai thác đến
mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân. Bên cạnh việc thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu
dùng, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm
ổn định cho người lao động.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần
nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho
việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài.
1.1.2.2. Đối với các doanh nghiệp

Cũng như đối với nền kinh tế, hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
kinh doanh XNK nói riêng. Bởi vì đây là một trong những nghiệp vụ đảm bảo
cho quá trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp diễn ra một cách
thường xuyên, liên tục, là chìa khoá mở ra cánh cửa cho hoạt động kinh
doanh quốc tế của các doanh nghiệp đồng thời là nguồn thu lớn đóng góp vào
lợi nhuận cho toàn doanh nghiệp và đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ
công nhân viên của doanh nghiệp. Có thể kháí quát vai trò của hoạt động
nhập khẩu đối với các doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, nhập khẩu góp phần đổi mới máy móc thiết bị, thay đổi
phương thức quản lý, sản xuất nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
6
Thứ hai, nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ của doanh nghiệp với
các bạn hàng trong nước và quốc tế. Tạo ra những cơ hội làm ăn mới cho
doanh nghiệp.
Thứ ba, nhập khẩu cũng có vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh cho
các sản phẩm của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của nghành trên bình
diện quốc gia cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, ngành,
quốc gia trên bình diện quốc tế. Điều này có vai trò rất quan trọng trong quá
trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế mà trong đó các doanh nghiệp Việt
Nam là một chủ thể không thể tách rời đối với tiến trình này.
Thứ tư, nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh, do vậy nhập khẩu cũng
góp phần vào việc đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp.
Tóm lại, vai trò của nhập khẩu là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nhập
khẩu như thế nào lại là vấn đề nan giải. Nếu nhập khẩu một cách ồ ạt các thiết
bị cũ kĩ lạc hậu hoặc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được sẽ
bóp chết nền sản xuất trong nước gây thiệt hại đến lợi ích của quốc gia. Vì
vậy cần phải có chính sách nhập khẩu hợp lý để khai thác triệt để lợi ích của
nhập khẩu cũng như mỗi bản thân doanh nghiệp phải nhận thức được hoạt

động nhập khẩu mà doanh nghiệp đang tiến hành trên nhiều mặt, không chạy
theo mụch đích lợi nhuận mà bỏ qua lợi ích xã hội.
1.1.3. Các hình thức nhập khẩu hàng hoá
Do điều kiện kinh doanh và sự sáng tạo, năng động của các doanh nhân
nên trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều hình thức nhập khẩu.Tuỳ theo các tiêu
chí khác nhau mà ta có thể phân chia các hình thức nhập khẩu thành các nhóm
khác nhau. Một số cách phân loại chủ yếu đó là:
• Theo chủ thể của hoạt động nhập khẩu:
+ Nhập khẩu tự doanh (Nhập khẩu trực tiếp).
+ Nhập khẩu uỷ thác.
7
• Theo mục đích nhập khẩu:
+ Nhập khẩu hàng mậu dịch.
+ Nhập khẩu hàng phi mậu dịch.
• Theo phương thức nhập khẩu:
+ Nhập khẩu theo phương thức mua bán thông thường.
+ Nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng.
• Theo nguồn gốc và hình thức giao hàng:
+ Nhập khẩu trực tiếp.
+ Nhập khẩu uỷ thác.
+ Tạm nhập tái xuất.
Trong đó, cách phân loại dựa theo tiêu chí chủ thể của hoạt động nhập
khẩu là cách phân loại phổ biến nhất, được nhiều người sử dụng. Sau đây em
xin đi sâu trình bày về các hình thức nhập khẩu dựa theo cách phân loại này:
1.1.3.1. Nhập khẩu tự doanh
Đây là hình thức nhập khẩu trực tiếp. Trong đó, bên mua và bên bán
trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hoá được mua trực tiếp từ nước ngoài mà
không thông qua trung gian. Bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập
khẩu.
Theo hình thức này có những bước giao dịch là hỏi giá, phát giá, đặt

hàng, hoàn giá, chấp nhận, xác nhận. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
phải trực tiếp làm các hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước,
tìm kiếm đối tác, giao dịch, đàm phán kí kết hợp đồng và tự bỏ vốn để tổ
chức kinh doanh hàng nhập khẩu, phải chịu mọi chi phí như: nghiên cứu thị
trường, giao dịch, kí kết hợp đồng, giao nhận, lưu kho, tiêu thụ hàng hoá
Khi nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp XNK được tính kim ngạch và khi
tiêu thụ thì phải chịu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp. Các
8
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu theo hình thức này phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình từ thu thập thông tin thị
trường cho đến kí kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Độ rủi ro của hình
thức nhập khẩu trực tiếp cao hơn so với hình thức nhập khẩu qua trung gian
nhưng lại mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Hình thức nhập khẩu này được sử dụng phổ biến ở nước ta hiện nay. Vì
xu hướng giảm dần các doanh nghiệp nhà nước và thay vào đó là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nên các doanh nghiệp có điều kiện cũng như mong muốn
được nhập khẩu trực tiếp để tăng thu. Hơn nữa, loại hình này áp dụng trong
nhập khẩu những hàng hoá thông thường nên khối lượng lớn và liên tục.
1.1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước
có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu cần nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng
không có quyền tham gia hoặc không có điều kiện nhập khẩu trực tiếp đã uỷ
thác cho doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp tham gia giao dịch ngoại
thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình.
Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và
làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ
thác sẽ nhận được một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động này, doanh nghiệp XNK (bên nhận uỷ thác) sẽ không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị
trường tiêu thụ cho hàng hoá mà chỉ đứng ra đại diện bên uỷ thác tiến hành

giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng, làm thủ tục nhập hàng cũng như thay
mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với đối tác nước ngoài khi có tổn
thất. Hình thức này giúp cho doanh nghiệp nhận uỷ thác không mất nhiều chi
phí, độ rủi ro thấp nhưng lợi nhuận từ hoạt động này không cao.
9
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu
uỷ thác sẽ phải lập hai hợp đồng là hợp đồng nhập khẩu ký với đối tác nước
ngoài và một hợp đồng nhận uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác.
Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ chỉ tính
kim nghạch nhập khẩu chứ không tính vào doanh số. Hợp đồng nhập khẩu uỷ
thác thường áp dụng cho những hàng hoá chuyên dùng, máy móc thiết bị kĩ
thuật.
1.1.4. Quy trình hoạt động nhập khẩu
1.1.4.1. Nghiên cứu thị trường
Đây là công việc đầu tiên mà bất kì một doanh nghiệp kinh doanh XNK
nào cũng cần phải thực hiện và phải trở thành công việc thường xuyên trong
hoạt động XNK của doanh nghiệp.
 Nghiên cứu thị trường trong nước.
Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu luôn phải tự quyết định: mua cái
gì, bán cho ai, theo hình thức nào và với giá là bao nhiêu mà vẫn thu được lợi
nhuận? và để giải quyết những vấn đề này thì việc nghiên cứu thị trường
trong nước là vô cùng quan trọng, là tiền đề để có được những quyết định
đúng đắn. Khi nghiên cứu thị trường trong nước, doanh nghiệp cần phải quan
tâm đến những thông tin như:
− Tình hình kinh tế và các số liệu thống kê về kinh tế và ngoại thương,
các yếu tố kinh tế, tài chính và thị trường vào thời điểm hiện tại có ảnh hưởng
đến nhu cầu nhập khẩu hay không?
− Tìm hiểu các thông tin về sản phẩm thông qua các cơ hội bán hàng, số
lượng khách hàng có nhu cầu mua hàng, sức mua của thị trường, nhịp độ mua
mặt hàng đó trên thị trường (chu kì mua lặp lại).

− Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh trên thị trường về năng lực, thị phần,
khách hàng, kỹ thuật xúc tiến thương mại.
10
− Tìm hiểu các chính sách và pháp luật thương mại, các kế hoạch phát
triển kinh tế và ngoại thương, các thủ tục hành chính hải quan và yêu cầu về
chứng từ XNK.
 Nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Thông tin về thị trường quốc tế là những thông tin cần thiết và rất quan
trọng đối với hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp
lập chiến lược, kế hoạch kinh doanh và thực hiện hoạt động thương mại và
đặc biệt là xúc tiến thương mại nhằm lựa chọn được bạn hàng đáng tin cậy,
nguồn hàng ổn định và có chất lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường
trong nước.
Nghiên cứu thị trường quốc tế là công việc rất khó khăn và phức tạp do
sự khác biệt lớn về chính trị, địa lý, văn hoá, phong tục tập quán. Mục đích
của công việc này là nhằm tìm hiểu thông tin về khả năng sản xuất, giá cả và
sự biến động của thị trường, môi trường kinh tế chính trị, luật pháp và tập
quán kinh doanh của các bạn hàng quốc tế.
Khi nghiên cứu thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần nắm vững được
tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp có khả
năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu đặc điểm các nước cung cấp trên các
phương diện:
− Phân tích tình hình cung - cầu của hàng hoá mà doanh nghiệp dự định
nhập khẩu.
− Tìm hiểu những thông tin về thị trường như: các thông tin đại cương
về đất nước con người, tình hình về chính trị xã hội, những thông tin kinh tế
cơ bản, cơ sở hạ tầng, các chính sách kinh tế ngoại thương, tìm hiểu hệ thống
ngân hàng, tín dụng, điều kiện vận tải và tình hình giá cước.
− Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
11

Doanh nghiệp cần chú ý thu thập thông tin trên thị trường quốc tế thông
qua các nguồn như: sách, báo, tạp chí, bản tin, internet, hội chợ triển lãm, hội
thảo, các tổ chức xúc tiến thương mại, đại diện thương mại, tổ chức dịch vụ
thông tin chuyên nghiệp, các tổ chức liên quan đến hoạt động XNK như ngân
hàng, hải quan, hãng vận tải
1.1.4.2. Lập phương án kinh doanh.
Phương án kinh doanh là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến
những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Sau khi đã hoàn tất việc nghiên
cứu thị trường, doanh nghiệp phải lập ra được một phương án kinh doanh.
Một phương án kinh doanh thường gồm những nội dung cơ bản như:
tình hình hàng hoá, thị trường và khách hàng, dự đoán hướng biến động của
thị trường, xác định thời cơ mua bán, phương hướng thị trường và thương
nhân, đặt ra mục tiêu (tối đa và tối thiểu), biện pháp hành động cụ thể, sơ bộ
đánh giá hiệu quả.
Dựa trên những thông tin đã thu thập được thông qua nghiệp vụ nghiên
cứu thị trường trong và ngoài nước, doanh nghiệp phải đưa ra được phương
án kinh doanh tối ưu của mình.
Để lập một phương án kinh doanh, doanh nghiệp cần tiến hành các
bước sau:
• Bước 1: Đánh giá tổng quát tình hình thị trường và thương nhân. Phân
tích những khó khăn, thuận lợi trong kinh doanh.
• Bước 2: Lựa chọn các mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức
kinh doanh (phải chứng minh được sự lựa chọn của mình là đúng trên cơ sở
phân tích tình hình thực tế).
• Bước 3: Đề ra mục tiêu: phải là những mục tiêu cụ thể, bằng số liệu rõ
ràng: sẽ bán (mua) bao nhiêu hàng? với giá cả bao nhiêu? sẽ thâm nhập vào
thị trường nào? mua (bán) với ai?
12
• Bước 4: Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này là những
công cụ để đạt tới những mục tiêu đề ra. Bao gồm cả những biện pháp ở trong

nước và những biện pháp ở nước ngoài.
• Bước 5: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông
qua việc tính một loạt các chỉ tiêu như: tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu, thời
gian hoàn vốn, điểm hoà vốn…
1.1.4.3. Giao dịch và đàm phán.
 Giao dịch.
Sau khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tiến
hành giao dịch, thương lượng để đi đến kí kết hợp đồng mua bán với đối tác
mà mình đã lựa chọn. Trong kinh doanh TMQT hiện nay có rất nhiều phương
thức giao dịch. Mỗi phương thức giao dịch lại có những đặc điểm riêng khác
nhau. Đối với nhà nhập khẩu, quá trình giao dịch thường gồm những công
việc sau:
• Hỏi giá hoặc đặt hàng.
Hỏi giá là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả
và các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá thường bao gồm: tên
hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả
mà người mua có thể trả cho mặt hàng đó thường được người mua giữ kín,
nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nêu rõ những điều kiện
mà mình mong muốn để làm cơ sở giao hàng. Hỏi giá không ràng buộc trách
nhiệm của người hỏi giá, cho nên người hỏi giá có thể hỏi nhiều nơi nhằm
nhận được nhiều bản chào hàng cạnh tranh nhau để so sánh lựa chọn bản chào
hàng thích hợp nhất. Tuy nhiên, nếu người mua hỏi giá nhiều nơi quá sẽ gây
nên thị trường ảo tưởng là nhu cầu quá căng thẳng. Đó là điều không có lợi
cho người mua.
13
Đặt hàng là việc người nhập khẩu đề nghị kí kết hợp đồng mua bán
hàng hoá. Trong đơn đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua
và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng.
• Xử lý chào hàng của người bán gửi đến.
Chào hàng là lời đề nghị ký kết hợp đồng của người bán về việc mua

bán hàng hoá. Có hai loại chào hàng chính là chào hàng cố định và chào hàng
tự do. Khi nhận được chào hàng từ phía người bán gửi đến, doanh nghiệp
nhập khẩu sẽ xử lý theo một trong hai cách sau:
Nếu không đồng ý hoàn toàn với chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị
mới thì doanh nghiệp gửi cho người chào hàng đề nghị mới này (còn gọi là
hoàn giá). Khi đó, chào hàng trước coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế,
mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết quả.
Nếu doanh nghiệp nhập khẩu chấp nhận hoàn toàn mọi điều kiện của
chào hàng thì gửi cho người chào hàng bản chấp nhận chào hàng trong thời
hạn hiệu lực của chào hàng.
• Xác nhận.
Sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về mọi điều kiện giao dịch,
hai bên tiến hành ghi lại và xác nhận những điều khoản đã được thoả thuận
đó. Về phía người nhập khẩu, công việc xác nhận bao gồm ký vào giấy xác
nhận mua hàng, gửi giấy này cho người bán đồng thời nhận giấy xác nhận bán
hàng do phía bên kia gửi đến.
 Đàm phán.
Đàm phán là một công đoạn quan trọng trong toàn bộ quá trình nhập
khẩu của một doanh nghiệp. Đàm phán có thể diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau, ngoài hình thức gặp mặt trực tiếp còn có các hình thức khác như
qua thư từ, điện tín, fax hoặc điện thoại Mỗi hình thức đều có những ưu
14
nhược điểm riêng, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức
đàm phán cho phù hợp.
Để thực hiện đàm phán thắng lợi, hướng đối phương theo mục đích của
doanh nghiệp là cả một nghệ thuật. Do đó doanh nghiệp phải hết sức lưu ý
đến mọi yếu tố của cuộc đàm phán từ khâu tổ chức đàm phán, lựa chọn hình
thức đàm phán, địa điểm đàm phán, thời gian đàm phán, bối cảnh đàm phán,
các chiến thuật và thủ thuật mà doanh nghiệp sẽ sử dụng trong quá trình đàm
phán. Mục đích cuối cùng là ký được hợp đồng mua bán hàng hoá sao cho có

lợi nhất cho doanh nghiệp.
1.1.4.4. Kí kết hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi đàm phán kết thúc thành công, các bên sẽ tiến hành ký kết hợp
đồng mua bán ngoại thương. Đối với người kinh doanh TMQT nói chung đều
cần phải tiến hành ký kết hợp đồng kịp thời ngay khi điều kiện ký kết đã chín
muồi. Hợp đồng đơn thuần là sản phẩm cuối cùng của sự thương lượng giữa
người mua và người bán. Hợp đồng là một cam kết bằng văn bản quy định
những quyền lợi và trách nhiệm của các bên trong việc trao đổi mua bán hàng
hoá - dịch vụ.
Người đại diện hợp pháp có đủ tư cách pháp nhân của doanh nghiệp sẽ
là người trực tiếp kí vào các văn bản này sau khi đã kiểm tra kỹ lưỡng nội
dung cũng như hình thức của hợp đồng được soạn thảo ra. Việc kí kết các hợp
đồng kinh doanh quốc tế có thể diễn ra theo hai phương thức:
• Ký kết hợp đồng trực tiếp.
• Ký kết hợp đồng gián tiếp.
Khi kí kết hợp đồng, các bên cần lưu ý một số đặc điểm như sau:
+ Cần thoả thuận thống nhất với nhau tất cả những điều khoản cần thiết
trước khi ký hợp đồng.
15
+ Cần đề cập đến cơ sở pháp lý và mọi vấn đề liên quan, tránh phải dùng
tập quán thương mại địa phương để giải quyết những tranh chấp phát sinh sau
này.
+ Hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật hiện hành.
+ Khi soạn thảo hợp đồng cần trình bày rõ ràng, chính xác, tránh dùng
những từ mập mờ có thể suy luận ra nhiều cách.
+ Hợp đồng thường do một bên soạn thảo, trước khi ký kết bên kia cần
kiểm tra thật kỹ lưỡng, đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm
phán.
+ Người đứng ra ký hợp đồng phải là người có thẩm quyền.
+ Ngôn ngữ dùng để xây dựng hợp đồng phải là ngôn ngữ các bên dùng

thông thạo.
1.1.4.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh
doanh XNK với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng
đó. Đây là một công việc rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật quốc
gia và quốc tế, đảm bảo được quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi bên.
Đồng thời các bên phải thể hiện được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối
với các điều khoản mà hai bên đã thống nhất và ký kết. Về mặt kinh doanh,
trong quá trình thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh XNK phải cố gắng tiết
kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ
nghiệp vụ giao dịch.
1.2. Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Như đã trình bày ở trên, tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một
công việc rất khó khăn, phức tạp. Chính vì vậy nên khi tổ chức thực hiện một
hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quy trình nhất định, rõ
16
ràng. Chính điều này giúp cho doanh nghiệp tránh được các rủi ro không đáng
có.
Sau đây là quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu thường
được các doanh nghiệp kinh doanh XNK sử dụng để tiến hành hoạt động kinh
doanh nhập khẩu của mình:
Sơ đồ1.1: Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
17
Xin giấy phép nhập khẩu (nếu có)
Làm thủ tục mở L/C (nếu
thanh toán bằng L/C)
Người mua đôn đốc người bán
giao hàng
Thuê phương tiện vận tải
Mua bảo hiểm

Làm thủ tục hải quan
Nhận hàng nhập khẩu
Kiểm tra hàng hoá nhập khẩu
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết các tranh chấp,
khiếu nại (nếu có)
Bước 1: Xin giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý
hoạt động nhập khẩu. Vì thế khi ký kết hợp đồng nhập khẩu doanh nghiệp
phải xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó.
Theo nghị định số 12/2006/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/05/2006 quy
định thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành
lập theo quy định của pháp luật được phép XNK hàng hoá theo những ngành
nghề đã đăng ký theo giấy chứng nhận kinh doanh.
Như vậy thì tất cả các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân đều được
phép tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký và doanh
nghiệp chỉ cần đăng ký mã số kinh doanh XNK của mình với hải quan địa bàn
mình có trụ sở chính. Tuy nhiên thì đối với những mặt hàng thuộc danh mục
hàng hoá cấm nhập khẩu, nhập khẩu có điều kiện hay tạm ngừng nhập khẩu
thì doanh nghiệp cần phải xin giấy phép nhập khẩu.
Để xin giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình bộ hồ sơ xin
giấy phép bao gồm:
 Hợp đồng nhập khẩu.
 Phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch).
 Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu đó là trường hợp nhập khẩu uỷ
thác)…
Việc cấp giấy phép nhập khẩu được phân công như sau:
 Bộ Thương Mại (các phòng cấp giấy phép) cấp những giấy phép nhập
khẩu hàng mậu dịch nếu hàng đó thuộc danh mục quản lý của Nhà nước.
 Tổng cục hải quan cấp giấy phép nhập khẩu hàng phi mậu dịch (hàng

mẫu, quà biếu, hàng triển lãm).
18
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để nhập khẩu một
hoặc một số mặt hàng với một số nước nhất định, chuyên chở bằng một
phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định.
Bước 2: Mở L/C (nếu thanh toán bằng L/C).
Thư tín dụng (Letter of credit – L/C) là một văn bản pháp lý trong đó
ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình đầy
đủ bộ chứng từ thanh toán hợp lệ và phù hợp với nội dung của L/C. Thanh
toán tiền hàng bằng L/C là phương thức thanh toán đảm bảo hợp lý, thuận tiện
an toàn, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán.
Khi hợp đồng nhập khẩu quy định phương thức thanh toán là L/C thì
một trong những công việc đầu tiên mà bên nhập khẩu phải làm để thực hiện
hợp đồng nhập khẩu là mở L/C.
Về thời gian mở L/C: Thông thường thì L/C được mở trước thời hạn
giao hàng khoảng từ 20-25 ngày nếu như hợp đồng không quy định cụ thể.
Nhưng để hợp đồng được chặt chẽ thì trong hợp đồng người ta thường quy
định cụ thể ngày mở L/C.
Căn cứ để mở L/C: Là điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Khi mở
L/C công ty phải dựa vào căn cứ này để điền vào phiếu in sẵn của ngân hàng
mở L/C gọi là “ Giấy xin mở thư tín dụng nhập khẩu”.
Cách thức mở L/C tại Việt Nam: Để mở L/C doanh nghiệp XNK phải
tiến hành các công việc sau:
− Nộp hồ sơ và lập đơn xin mở L/C.
− Ký quỹ để mở tài khoản thư tín dụng.
− Thanh toán phí mở L/C.
Khi được ngân hàng thông báo đã mở L/C, nhà nhập khẩu liên hệ với
ngân hàng để kiểm tra các chi tiết của L/C có phù hợp với hợp đồng không,
rồi nhờ ngân hàng chuyển đến cho nhà xuất khẩu. Nếu có điều gì chưa thích
19

hợp cần tu chỉnh, nhà nhập khẩu làm đơn yêu cầu ngân hàng tu chỉnh L/C
(theo sự thống nhất với nhà xuất khẩu), trong đó có ghi đầy đủ các chi tiết cần
tu chỉnh. Sau đó thông báo kết quả đã tu chỉnh.
Bước 3: Người mua đôn đốc người bán giao hàng.
Để quá trình nhập khẩu đúng tiến độ như đã quy định trong hợp đồng,
nhà nhập khẩu cần phải đôn đốc phía bán giao hàng theo đúng số lượng chất
lượng, quy cách bao bì…và đúng hạn. Như vậy mới không làm chậm trễ tiến
độ kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu.
Bước 4: Thuê tàu lưu cước.
Phần lớn hàng hoá giao dịch mua bán trên thị trường thế giới đều được
thực hiện vận chuyển bằng đường biển (chiếm khoảng 80 % khối lượng hàng
hoá trong buôn bán quốc tế) bởi những tính ưu việt của loại hình vận tải này.
Vì thế nghiệp vụ thuê tàu vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã trở thành
nghiệp vụ phổ biến, cơ bản và gần như không thể thiếu trong đa số các hoạt
động XNK trên thế giới hiện nay.
Đối với nhà nhập khẩu, nghiệp vụ thuê tàu để vận chuyển hàng hoá chỉ
phát sinh khi trong hợp đồng mua bán quy định nghĩa vụ này thuộc về phía
người mua (theo điều kiện giao hàng nhóm F và EXW).
Nhà nhập khẩu sẽ tiến hành nghiệp vụ thuê tàu của mình dựa trên các
căn cứ sau:
− Những điều khoản của hợp đồng mua bán.
− Đặc điểm của hàng hoá mua bán.
− Điều kiện vận tải.
Hiện nay trên thế giới có ba phương thức thuê tàu cho nhà nhập khẩu
lựa chọn. Đó là:
Phương thức thuê tàu chợ: Thuê tàu chợ còn gọi là lưu cước tàu chợ
(Booking Shipping Space) là người chủ hàng thông qua môi giới hoặc tự
20
mình đứng ra yêu cầu chủ tàu giành cho thuê một phần chiếc tàu để chở hàng
từ cảng này qua cảng khác.

Phương thức thuê tàu chuyến: Thuê tàu chuyến là chủ tàu (Shipowner)
cho người thuê tàu (charter) thuê toàn bộ hay một phần chiếc tàu chạy rông để
chuyên chở hàng hoá từ một hay vài cảng này đến một hay vài cảng khác.
Mối quan hệ giữa người chủ tàu và người thuê tàu được điều chỉnh bằng một
văn bản gọi là hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P – Voyage Charter Party).
Phương thức thuê tàu định hạn: Thuê tàu định hạn là chủ tàu cho người
thuê tàu con tàu để sử dụng vào mục đích chuyên chở hàng hoá hoặc cho thuê
lại trong thời gian nhất định, chủ tàu có trách nhiệm chuyển giao quyền sử
dụng chiếc tàu cho người thuê và đảm bảo “khả năng đi biển” của chiếc tàu
trong suốt thời gian thuê. Còn người thuê tàu có trách nhiệm trả tiền thuê và
chịu trách nhiệm về việc kinh doanh khai thác tàu, sau khi hết thời gian thuê
phải trả cho chủ tàu trong tình trạng kỹ thuật tốt tại cảng và trong thời gian
quy định.
Nói chung nghiệp vụ thuê tàu, lưu cước đòi hỏi người đi thuê phải có
kinh nghiệm nghiệp vụ, có đầy đủ thông tin về tình hình thị trường thuê tàu và
tin thông các điều kiện thuê tàu. Vì thế trong thực tế đa số các doanh nghiệp
kinh doanh XNK thường uỷ thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty
hàng hải như: Vietfracht, Vosa, Transimex Nhà nhập khẩu căn cứ vào đặc
điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp cũng như đặc
điểm vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn loại hợp đồng uỷ thác thích hợp.
Hiện có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu là: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả
năm và hợp đồng uỷ thác thuê tàu chuyến.
Bước 5: Mua bảo hiểm.
Do đặc điểm của hợp đồng kinh doanh TMQT là hàng hoá thường phải
vận chuyển trên một quãng đường dài từ nước này sang nước khác trong thời
21
gian dài. Chính vì thế hàng hoá thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Để đảm bảo
an toàn trong kinh doanh, các nhà XNK thường tiến hành mua bảo hiểm cho
hàng hoá của mình thông qua một hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm có
thể là hợp đồng bảo hiểm bao (Open policy) hoặc hợp đồng bảo hiểm chuyến

(Voyage policy). Hiện nay bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển là loại bảo
hiểm phổ biến nhất trong hoạt động ngoại thương.
Nhà nhập khẩu chỉ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong trường hợp nhập
khẩu theo điều kiện thương mại nhóm E, F và nhóm C (trừ CIF và CIP).
Khi đi mua bảo hiểm cho hàng hoá, nhà nhập khẩu cần thực hiện theo
trình tự sau:
 Chọn điều kiện thích hợp để mua bảo hiểm.
Nhà nhập khẩu cần căn cứ vào: đặc tính của hàng hoá, tính chất bao bì
và phương thức xếp hàng, điều khoản hợp đồng, loại tàu chuyên chở để
chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp: đảm bảo an toàn cho hàng hoá và đạt hiệu
quả kinh tế cao.
 Làm giấy yêu cầu bảo hiểm.
Nhà nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng và L/C (nếu có) điền đầy đủ các
nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
Ngoài ra, nhà nhập khẩu còn phải báo cho người bảo hiểm những tình
huống quan trọng khác mà họ biết để giúp người bảo hiểm phán đoán rủi ro.
 Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng thư bảo hiểm.
Sau khi nộp giấy yêu cầu bảo hiểm cho người bảo hiểm, người bảo
hiểm sẽ xác định số phí phải đóng, nhà nhập khẩu đóng phí bảo hiểm và nhận
chứng thư bảo hiểm (đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm).
Bước 6: Làm thủ tục hải quan.
Làm thủ tục hải quan là một công việc mà bất kỳ doanh nghiệp kinh
doanh XNK nào cũng đều phải thực hiện khi có hàng hoá đi ngang qua biên
22
giới quốc gia. Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý hành vi buôn bán
quốc tế theo pháp luật của nhà nước nhằm: ngăn chặn tình trạng XNK lậu qua
biên giới, kiểm tra giấy tờ có sai sót, giả mạo không, thống kê số liệu về hàng
XNK.
Quá trình làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau đây:
 Khai báo - nộp tờ khai hải quan.

Trong bước này, chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá nhập khẩu
theo mẫu tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ.
Việc kê khai phải được tiến hành một cách trung thực, chính xác.
Sau khi kê khai đầy đủ các nội dung của tờ khai, doanh nghiệp nộp tờ
khai đó cho cơ quan hải quan kèm với một số chứng từ khác, chủ yếu là: giấy
phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói, bảng kê khai chi tiết, giấy chứng
nhận xuất xứ hàng hoá
 Xuất trình hàng hoá.
Bước tiếp theo, doanh nghiệp phải tổ chức xuất trình hàng hoá nhập
khẩu cho cơ quan hải quan kiểm tra. Hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp
trật tự, thuận tiện cho việc kiểm tra, kiểm soát. Toàn bộ chi phí cũng như nhân
công về việc đóng, mở các kiện hàng do chủ hàng chịu. Yêu cầu của việc xuất
trình hàng hoá là sự trung thực của chủ hàng.
Đối với khối lượng hàng hoá ít thì chủ hàng tổ chức vận chuyển tới kho
của hải quan để kiểm lượng, làm thủ tục hải quan và nộp thuế (nếu có) khi
hàng nhập khẩu lên bờ.
Đối với những lô hàng nhập khẩu có khối lượng lớn, việc kiểm tra hàng
hoá và giấy tờ của hải quan có thể diễn ra ở hai nơi:
− Tại cửa khẩu: nhân viên hải quan kiểm tra hàng hoá và các loại thủ tục
giấy tờ ngay tại cửa khẩu nhập hàng hoá đó.
23
− Tại nơi giao nhận hàng hoá cuối cùng: nhân viên hải quan kiểm tra
niêm phong kẹp chì và nội dung hàng hoá theo nghiệp vụ của mình tại kho
của đơn vị nhập khẩu hoặc tại kho của chủ hàng.
 Thực hiện các quyết định của hải quan.
Sau khi hoàn tất các công tác kiểm tra cần thiết theo quy định, cơ quan
hải quan sẽ ra các quyết định như:
− Cho hàng qua biên giới (thông quan).
− Cho hàng hoá qua biên giới có điều kiện (ví dụ: phải sửa chữa khắc
phục khuyết tật, phải bao bì lại).

− Cho hàng qua biên giới sau khi chủ hàng đã nộp thuế XNK.
− Không được phép XNK.
Khi có các quyết định này thì nghĩa vụ của chủ hàng là phải nghiêm túc
thực hiện các quyết định đó, nếu vi phạm sẽ thuộc vào tội hình sự.
Bước 7: Nhận hàng nhập khẩu.
Theo quy định của nhà nước (NĐ 200/CP ngày 31/12/1973) các cơ
quan vận tải (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các
phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình
xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng
của đơn vị ngoại thương đã nhập lô hàng đó. Do đó, khi hàng cập cảng, hãng
tàu sẽ trực tiếp đứng ra giao nhận hàng với cảng, rồi đưa hàng về vị trí an
toàn: kho hoặc bãi. Chủ hàng phải kí hợp đồng uỷ thác cho cảng làm việc này.
Trước khi tàu đến, đại lý tàu biển hoặc hãng tàu sẽ gửi “Giấy báo tàu
đến” cho người nhận hàng, để họ biết và tới nhận “Lệnh giao hàng” (Delivery
– D/O) tại đại lý tàu. Khi đi nhận D/O cần mang theo:
− Original B/L.
− Giấy giới thiệu của đơn vị.
24
Có D/O nhà nhập khẩu cần nhanh chóng làm thủ tục để nhận lô hàng
của mình. Thủ tục nhận hàng như sau:
Nhận hàng rời hoặc hàng container rút ruột tại cảng: chủ hàng cần làm
những công việc sau để nhận hàng:
− Đến cảng hoặc chủ tàu để đóng phí lưu kho và xếp dỡ, lấy biên lai.
− Sau đó, đem biên lai lưu kho, 3 bản D/O, Invoice và Packing list đến
văn phòng đại lý hãng tàu tại cảng để ký xác nhận D/O, tìm vị trí để hàng, tại
đây lưu một D/O.
− Mang 2 D/O còn lại đến bộ phận kho vận để làm phiếu xuất kho. Bộ
phận này giữ một D/O và làm 2 phiếu xuất kho cho chủ hàng.
− Đem 2 phiếu xuất kho đến kho để xem hàng, làm thủ tục xuất kho,
tách riêng hàng hoá để chờ hải quan kiểm tra, đến hải quan cảng mời hải quan

kho bãi giám sát việc nhận hàng.
− Sau khi hải quan xác nhận “hoàn thành thủ tục hải quan” hàng được
xuất kho, mang ra khỏi cảng để đưa về địa điểm quy định.
Nhận nguyên container, hải quan kiểm tra tại kho riêng: Sau khi đã cân
nhắc kỹ hiệu quả kinh tế, chủ hàng muốn nhận nguyên container, kiểm tra tại
kho riêng, trong trường hợp này cần làm những việc:
Làm đơn xin kiểm hàng tại kho riêng, nộp cùng bộ hồ sơ đăng kí thủ
tục hải quan.
Làm thủ tục mượn container tại hãng tàu, đóng tiền, ký quỹ, phí xếp
dỡ, tiền vận chuyển container từ cảng về kho riêng (nếu thuê xe của hãng tàu).
Đem bộ chứng từ bao gồm: D/O (3 bản) có chữ ký của nhân viên hải
quan khâu đăng ký thủ tục, đóng dấu “đã tiếp nhận tờ khai”, biên lai thu phí
xếp dỡ và phí vận chuyển của hãng tàu, biên lai thu tiền phí lưu giữ container,
đơn xin mượn container đã được chấp thuận đến văn phòng đại lý hãng tàu để
làm giấy phép xuất container khỏi bãi. Tại đây giữ một D/O. Cùng nhân viên
25

×