Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiền polymer - tiền kim loại bước chuyển mình của đồng tiền việt nam phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.82 KB, 18 trang )

1. Đôi nét về đồng tiền mới - tiền polymer
1.1.Tính ưu việt của đồng polymer
Theo Ngân hàng Nhà nước, giấy nền polymer cho phép ứng dụng
nhiều kỹ thuật chống giả trong đồng tiền. Bên cạnh những yếu tố bảo an
được ứng dụng tương tự như trong giấy in tiền cotton (hình bóng chìm,
hình định vị, in Intaglio, chữ siêu nhỏ, dây bảo hiểm, yếu tố phát quang ),
giấy nền polymer còn có những yếu tố bảo an đặc trưng, có hiệu quả cao
trong việc chống làm giả, như yếu tố cửa sổ trong suốt có hình ẩn hoặc hình
dập nổi trong cửa sổ. Đây là yếu tố chỉ có thể ứng dụng trên giấy nền
polymer, có khả năng chống việc làm giả bằng các thiết bị như máy
photocopy, thiết bị scan hay máy in lase. Ngoài khả năng chống giả cao,
yếu tố cửa sổ trong suốt còn có ưu điểm rất dễ nhận biết.
Giấy nền polymer có độ bền cơ học cao (chẳng hạn như khó dùng
tay không để xé rách tờ bạc). Đây là yếu tố rất quan trọng làm tăng độ bền
của đồng tiền. Loại giấy này cũng không có cấu tạo sợi nên bề mặt không
xốp. Đồng tiền được phủ lớp véc-ni nên tiền polymer không hút ẩm, giữ ẩm
hay các chất bẩn khác. Do vậy, so với tiền giấy tiền polymer sạch hơn, ít
gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng và môi trường, nhất là trong
điều kiện khí hậu Việt Nam và tập quán sử dụng tiền mặt hiện nay.
Giấy polymer có khả năng thích ứng với các thiết bị xử lý tiền, như máy
ATM, máy đếm tiền, tuyển chọn tiền đối với tiền giấy. Hiện, trên thế giới
đã có 16 nước lưu hành đồng tiền in trên chất liệu Polymer, trong đó có ba
nước sử dụng toàn bộ tiền polymer trong hệ thống tiền tệ là Australia (từ
năm 1992 đến năm 1996 phát hành đủ bộ tiền ), New Zealand (từ năm
1999-2000 phát hành đủ bộ tiền) và Rumani (từ năm 2000); một số nước
1
dùng giấy polymer cho một số mệnh giá; 6 nước hiện đang thử nghiệm tiền
polymer dưới hình thức tiền lưu niệm.

Cụ thể chúng ta đề cập đến đồng polymer 100.000 đồng:
Ngoài những yếu tố bảo an thông dụng trong công nghệ in tiền, đồng


tiền polymer 100.000 đồng còn sử dụng một số yếu tố bảo an đặc biệt như
hình ẩn, hình dập nổi trong cửa sổ, không màu, phát quang… Đây là những
yếu tố bảo an dễ nhận biết, dễ kiểm tra đối với người sử dụng nhưng khó
làm giả.

Đồng tiền polymer 100.000 đồng mới có kích thước 144x65 mm in
trên giấy nền polymer. Nhìn tổng thể, hoa văn trang trí nội dung mặt trước
và mặt sau màu xanh lá cây. Mặt trước gồm: dòng chữ Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam, quốc huy, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, mệnh
giá 100.000 nghìn đồng bằng chữ và số, hình trang trí hoa văn dân tộc và
hoa văn lưới hiện đại.

Nội dung mặt sau gồm: dòng chữ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
phong cảnh Văn Miếu – Quốc Tử Giám, mệnh giá 100.000 nghìn đồng
bằng chữ và số, hình trang trí hoa văn dân tộc và hoa văn lưới hiện đại.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, tương tự
như đợt phát hành tiền mới đợt 07/12/2003, việc phát
hành đồng tiền polymer 100.000 đồng mới cũng nhằm
mục tiêu nâng cao chất lượng, nhất là khả năng chống
giả của đồng tiền VN.

Mặt trước (trên) và mặt sau đồng tiền
mới.
2
Hiện nay, đồng tiền 100.000 đồng in trên giấy cotton đang bị làm giả
nghiêm trọng với kỹ thuật khá tinh vi và số lượng ngày càng gia tăng. Đồng
tiền mới nhằm hạn chế và đẩy lùi đồng tiền giả nhằm bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người sử dụng.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy nhấn

mạnh: “Phát hành và lưu thông các đồng tiền mới, có chất lượng cao là biện
pháp chống tiền giả hữu hiệu mà các nước vẫn áp dụng, và là nghiệp vụ
bình thường của Ngân hàng Trung ương. Việc phát hành đồng tiền
100.000 đồng polymer không ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ và
lơi ích hợp pháp của mọi tổ chức cá nhân. Đồng tiền giấy cotton 100.000
đồng hiện nay vẫn có giá trị lưu hành song song với đồng tiền mới
1.2. Đồng polymer cũng có một số nhược điểm
Với tiền cotton, chi phí cho sản xuất tiền thấp hơn tiền polymer nên
việc thay đổi mẫu tiền diễn ra thuận lợi và chi phí thấp hơn. Còn với tiền
polymer, độ bền có thể gấp đôi, gấp ba tiền cotton nhưng chi phí sản xuất
và thiết kế cao hơn nhiều nên việc thay đổi mẫu mã cũng phức tạp hơn. Mà
như vậy, việc chống giả thông qua thay đổi mẫu mã cũng bị hạn chế.
Ở góc độ chi phí đầu tư, việc thay đổi chất liệu in cũng làm tăng đáng
kể chi phí đầu tư vì thay đổi công nghệ. Trước tiên là các máy móc, thiết bị
in tiền phải thay đổi, ví dụ như hệ thống thiết bị chế bản in lõm cổ điển vừa
được đầu tư hoàn chỉnh đã không sử dụng được.
Bên cạnh đó, từ đặc điểm không thấm mực của tiền polymer, thời gian
"phơi" cho khô mực của loại tiền này lâu gấp đôi tiền cotton, do đó diện
3
tích nhà xưởng phải mở rộng rất nhiều để đảm bảo có đủ chỗ chứa. Và kể
cả mở rộng như vậy, tỉ lệ sản phẩm hỏng cũng rất cao do bị “dính lấm” từ
tờ nọ sang tờ kia.
Một vấn đề nữa là chưa biết công nghệ tiên tiến như thế nào nhưng số
lượng lao động phục vụ việc in tiền tại nhà máy đã tăng gấp rưỡi, từ 400
người trước đây tăng lên gần 600 người, chế độ làm việc từ 40 giờ/tuần
tăng lên 48 giờ/tuần, thời gian làm thêm giờ cũng tăng cao trong khi lượng
tiền in ra là tương đương nhau. Những yếu tố này, theo tôi nghĩ, cần phải
xem xét khi đánh giá về chi phí và đầu tư đối với tiền polymer.
Ngoài ra sau khi phát hành một thời gian có nhiều ý kiến cho rằng
đồng polymer có thể bị rách, mờ, nhoè, giòn.

2. Mục tiêu của việc phát hành đồng polymer
Tại Việt Nam, tình hình tiền giả cũng rất phức tạp, tiền giả được làm
bằng các thiết bị, kỹ thuật sao chụp ngày càng tinh vi, như dùng máy in
phun, photocopy màu, in ofset và từ nước ngoài đưa vào Việt Nam qua
đường biên giới. Ngay cả việc sử dụng các thiết bị thông dụng như đèn cực
tím cũng khó khăn trong việc phát hiện tiền giả
Việc phát hành những loại tiền mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng
và khả năng chống giả của đồng tiền Việt Nam, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đồng tiền. Hiện nay, tiền giả có xu hướng gia tăng với diễn
biến phức tạp và thực sự trở thành vấn nạn trên toàn thế giới, đòi hỏi các
quốc gia phải quan tâm nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để
nâng cao khả năng chống giả của đồng tiền. Mặt khác, thường xuyên thay
đổi, bổ sung các mẫu tiền mới trong lưu thông cũng là một biện pháp chống
giả hữu hiệu mà các nước đã áp dụng.
4
3. Ảnh hưỏng của việc phát hành polymer
Trong khoảng thời gian vừa qua trên thị trường trong nước tình hình
giá vàng và giá USD trong nước có những sự biến động mạnh gây xôn xao
dư luận và khó khăn cho Nhà nước trong việc điều chỉnh ổn định thị trường
tiền tệ. Vậy nguyên nhân do đâu, có phải do NHNNVN phát hành tiền
polymer mới mà gây ra?
Theo ông Lê Đức Thuý, thống đốc ngân hàng Việt nam có trả lời rằng,
không có một cơ sở kinh tế nào để nói rằng việc phát hành tiền polymer
năm ngoái là nguyên nhân gây biến động giá cả. Thực chất sự biến động giá
là có nhưng là do tác động tâm lý nhất thời từ những kẻ đầu cơ vàng, làm
giá vàng tăng đáng kể. Thực chất giá vàng và USD trong nước là phụ thuộc
vào giá vàng và USD trên thị trường thế giới, trong thời gian vừa qua, tình
hình Trung Đông- mỏ dầu của thế giới- gặp nhiều bất ổn về chính trị. Đó là
nguyên nhân chính gây tác động đến lượng dầu cung cấp cho thị trường,
gây tác động giá dầu tăng với tốc độ chóng mặt lên ngưỡng gần

150USD/thùng.
Ngoài ra, những biến động gía cả sau đó hoàn toàn nằm ngoài yếu tố
tiền tệ như cúm gà, sự bất ổn định của giá cả, chính trị quốc tế đẩy chi phí
đầu vào của sản xuất tăng lên, làm giá cả tăng lên.
4. Tiền polymer phải chăng có vấn đề
Chiều 7.10, anh Trần Ngọc Thúy Anh, công nhân cơ sở mộc Tiệp Mạnh
Tư (ấp Nhị Tân 2, Tân Thới Nhì, Hóc Môn, TP.HCM), cho biết anh đang
5
giữ một tờ tiền polymer 500.000 đồng có số xêri FI 03580178 “chẳng giống
ai”.
Đối chiếu với các tờ tiền khác, anh Anh phát hiện mặt trước tờ tiền in hình
Bác Hồ bị bạc màu, lem luốc. Chữ số 500.000 đồng bên phải góc trên cùng
gần như không đọc ra. Những cánh sen (biểu tượng tòa sen) và đường vân
được in “phá cách”, chạy tứ tung.
Đặc biệt, phía trên hình hoa sen xuất hiện một đường vân dài chạy ngoằn
ngoèo cắt ngang biểu tượng in chìm “VN” (cũng bị lem màu). Tương tự,
mặt sau của tờ tiền, màu mực in hình các khóm tre chỗ đậm, chỗ lợt.
Anh Phạm Duy Khương (ngụ tại nàh S2, Dương Quảng Hàm, Q.Gò
Vấp, TPHCM) có một tờ tiền polymer mệnh giá 500.000 gần như rách làm
ba. Anh Khương cho biết, tờ tiền này khi bị vò nhẹ lần đầu tiên đã lập tức
rách làm đôi. Khi bị thử vò lần nữa, tờ tiền tiếp tục rách. Tờ tiền trên được
phát hành vào năm 2005, có đủ các yếu tố bảo an như in nổi, cửa sổ có
dòng số 500.000, hoa văn Anh Khương đã mang tờ tiền này đến một tiệm
vàng nhờ soi thử, kết quả được tiệm vàng xác định là tiền thật. So sánh với
tờ tiền cùng mệnh giá khác, tờ tiền này chẳng có điểm gì khác biệt, ngoại
trừ việc nó giòn như bánh tráng.
5. Tiền polymer - tiền kim loại bước chuyển mình của đồng tiền Việt
Nam phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Từ tháng 12/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành bổ
sung vào lưu thông một số mệnh giá tiền trên chất liệu polymer và kim loại.

Sau giai đoạn “hồ hởi” ban đầu, sự xuất hiện của những đồng tiền trên chất
liệu mới đã gặp không ít khó khăn dù những lợi ích do chúng mang lại ở
6
góc độ vĩ mô là khá rõ nét; Trong đó, sự trở lại của đồng tiền kim loại sau
một thời gian dài vắng bóng càng khó khăn hơn và một thực tế là cho đến
nay vẫn còn một bộ phận người tiêu dùng không mặn mà với tiền loại. Như
vậy, liệu sự ra đời của tiền polymer và tiền kim loại có thực sự hợp lý và
cần thiết hay không? Những đồng tiền “hiện đại” này liệu có đóng góp gì
cho sự phát triển kinh tế-xã hội và đặc biệt là chúng tương thích như thế
nào đối với công nghệ hiện đại ngày nay? Một lần nữa chúng ta hãy thử
nhìn nhận lại vấn đề này một cách khách quan.
1. Tiền polymer:
Xuất phát từ một số đặc tính của tiền polymer trong bảo quản, sử dụng
như: dễ bị biến dạng khi tiếp xúc với nguồn nhiệt, dễ bị nhàu nếu bị vò,
miết mạnh… đòi hỏi phải được sử dụng, bảo quản một cách thích hợp. Vì
vậy, ở giai đoạn mới phát hành tiền polymer không đủ tiêu chuẩn lưu thông
do nguyên nhân bảo quản tăng đột biến gây những tâm lý bất lợi cho công
tác phát hành. Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng, những thói quen mới
dần được hình thành, tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông giảm đáng kể so
với trước. Tại thành phố Hồ Chí Minh, sau hai năm phát hành tiền mới vào
lưu thông, tỷ trọng tiền polymer không đủ tiêu chuẩn lưu thông chỉ chiếm
khoảng 0,02% tổng doanh số thu tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước năm
2005 và 0,08% doanh thu tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông. So sánh với
tỷ trọng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông năm 2003 là 12,9% so với
doanh số thu tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước năm 2003. Ngoài ra chất
lượng tiền sau hai năm đi vào lưu thông vẫn đảm bảo độ sạch đẹp hơn so
với tiền cotton được lưu hành trong cùng thời gian. Đặc điểm này của tiền
Polymer sẽ giúp giảm đáng kể chi phí phát hành dù chi phí in tiền Polymer
có cao hơn so với tiền trên nền giấy cotton.
7

Tuy nhiên ưu thế nổi trội mà những tờ tiền in trên chất liệu polymer hiện
đang thể hiện là khả năng chống giả của nó. Có thể nói, tiền giả là một vấn
nạn hầu hết các quốc gia trên thế giới chứ không chỉ của riêng nước ta. Tuy
nhiên, trước khi tiền polymer được phát hành thì tiền giả ở nước ta là một
vấn đề bức xúc, diễn biến phức tạp với mức độ làm giả ngày càng tinh vi,
gây thiệt hại không nhỏ đến lợi ích người dân và ảnh hưởng xấu đến nền
kinh tế của đất nước.
Đồng tiền polymer với những tính năng kỹ thuật vốn có của nó cho phép
kết hợp hiệu quả công nghệ tiên tiến của chất liệu nền và kỹ thuật in tiền
hiện đại để tạo nên những đồng tiền có độ bảo an cao, tăng khả năng chống
giả cho đồng tiền Việt Nam. Mặc dù không lâu sau khi đồng tiền Polymer
được đưa vào lưu thông thì đã xuất hiện những đồng tiền giả polymer.
Chúng ta gọi đó là “tiền giả polymer” nhằm phân biệt về kỹ thuật, mức độ
tinh vi của tiền giả dựa trên sự khác biệt cơ bản là giấy nền polymer. Đây là
điểm khác biệt rất lớn so với “tiền polymer giả” là tiền giả được in trên giấy
nền polymer - sẽ có điều kiện cơ bản để in giả với kỹ thuật cao. Thực chất
những đồng tiền giả polymer xuất hiện trong lưu thông đến thời điểm hiện
nay vẫn được in trên chất liệu giấy thông thường, vùng cửa sổ trong suốt
được làm bằng cách khoét thủng hình hai cửa sổ, dùng màng mỏng nilon
trong suốt dán lên. Ngay cả những tờ tiền được in trên chất liệu nylon thì
mức độ tinh vi của tờ tiền giả cũng không cao nên rất dễ phát hiện, thậm
chí bằng mắt thường, mà không cần dùng đến các thiết bị chuyên dụng. Vì
vậy, mặc dù tiền giả polymer đã xuất hiện trong lưu thông từ khoảng 1 năm
sau khi tiền polymer được phát hành nhưng số lượng tiền giả trong lưu
thông mà hệ thống ngân hàng, kho bạc nhà nước thu giữ được trong thời
gian gần đây chỉ vào khoảng 40% so với lượng tiền giả trước đây và vẫn
8
đang tiếp tục giảm đáng kể . Đây là một con số không nhỏ, mang lại những
tác động tích cực cho nền kinh tế cũng như góp phần củng cố lòng tin của
người dân vào đồng tiền của quốc gia. Tất nhiên đây là kết quả do sự kết

hợp của nhiều yếu tố như sự nỗ lực của các cơ quan an ninh, quyết tâm
ngăn chặn vấn nạn tiền giả của hệ thống ngân hàng … nhưng chúng ta cũng
không thể phủ nhận đóng góp tích cực của những đồng tiền polymer nhờ
vào khả năng chống giả của nó so với đồng tiền trên chất liệu cotton trước
đây.
Hiệu quả của những đồng tiền polymer không dừng lại ở đó. Do giấy nền
polymer có độ bền cơ học cao hơn hẳn so với giấy nền trên chất liệu cotton,
lại không thấm nước và có lớp vec-ni in phủ bảo vệ nên tiền polymer bền,
sạch , độ ẩm và độ nở sau khi sử dụng không cao như tiền cotton . Đây
cũng là đặc điểm quan trọng giúp cho tiền polymer có thể thích ứng tốt với
việc sử dụng các công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng. Ở nước ta,
do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, thanh toán không dùng
tiền mặt chưa hình thành thói quen trong các tầng lớp dân cư. Hoạt động
thu chi tiền mặt với doanh số giao dịch quá lớn đã và đang tạo thành gánh
nặng cho hệ thống ngân hàng, kho bạc nhà nước, các doanh nghiệp và cả
những người dân. Do đặc điểm của tiền cotton có độ hút ẩm cao, dễ mủn,
dễ bẩn và nhàu nát nên để các máy giao dịch tự động (ATM) của hệ thống
ngân hàng có thể hoạt động chính xác và hiệu quả phải mất rất nhiều công
lao động cho quá trình tuyển lựa và phân loại tiền. Đặc điểm này của đồng
tiền cotton cũng không cho phép chúng ta ứng dụng các thiết bị hiện đại
trong công tác kiểm đếm, phân loại tiền với một “nền kinh tế tiền mặt” quá
lớn như hiện nay (Mặc dù trong các năm gần đây tỷ lệ thanh toán không
dùng tiền mặt đã nâng lên đáng kể từ 78% so với tổng số thanh toán chung
9
qua Ngân hàng; hiện nay con số này là 87%). Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính gây khó khăn cho Ngân hàng Nhà Nước trong thực hiện
chủ trương chuẩn hoá và làm sạch đẹp đồng tiền trong lưu thông khi sử
dụng đồng tiền trên nền giấy cotton.
Với sự ra đời của tiền polymer chúng ta đã có những bước đi thích hợp
để việc ứng dụng các thiết bị hiện đại trong giao dịch tiền mặt nhằm nâng

cao năng suất, hiệu quả kiểm đếm, phân loại tiền cũng như giảm chi phí cho
các giao dịch tự động qua máy ATM. Cùng với những biện pháp hữu hiệu
để khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt, bước đi này cũng đã tạo
được những tiền đề cho phép chúng ta nghĩ đến việc hình thànhcác công ty
xử lý, vận chuyển tiền. Đây là những công ty chuyên nhận tiền mặt chưa
qua xử lý của các ngân hàng thương mại thu từ lưu thông để phân loại tiền
đủ và không đủ tiêu chuẩn lưu thông theo quy định của ngân hàng Nhà
Nước đồng thời thực hiện dịch vụ vận chuyển tiền mặt cho hệ thống ngân
hàng. Với sự hình thành của những công ty này cho phép chúng ta chuẩn
hoá chất lượng tiền từ hệ thống ngân hàng đi ra lưu thông vốn rất khó thực
hiện trong điều kiện từng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ riêng lẻ
như hiện nay. Đồng thời, qua đó cũng tiết giảm được chi phí vận chuyển
tiền mặt do giảm chi phí bảo an trong vận chuyển so với chi phí bảo an khi
từng ngân hàng thực hiện công tác vận chuyển riêng lẻ và nhất là có thể
chuyển một khối lượng khá lớn hoạt động kho quỹ thuộc trách nhiệm của
Ngân hàng Nhà Nước sang lĩnh vực dịch vụ công để Ngân hàng Nhà nước
tập trung thực hiện vai trò quản lý nhà nước của Ngân hàng trung ương.
Đây cũng là xu hướng chung của hoạt động ngân quỹ phù hợp với xu thế
phát triển của hệ thống ngân hàng trong tiến trình hội nhập.
10
Như vậy, có thể nói rằng mặt dù đồng tiền Việt Nam trên nền giấy
polymer có những yêu cầu riêng cần được đáp ứng khi bảo quản và sử dụng
nhưng so với những lợi ích mà chúng mang lại cho từng người dân sử dụng
đồng tiền cũng như cho toàn bộ nền kinh tế là rất rõ nét . Với những ưu thế
đó, đồng tiền polymer đang dần có được lòng tin của người dân, ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá và
từng bước tham gia vào quá trình hiện đại hoá ngành ngân hàng .
2. Tiền kim loại:
Không như tiền polymer công tác phát hành chỉ gặp khó khăn trong một
thời gian ngắn ở giai đoạn đầu. Những nguyên nhân được đưa ra để từ chối

sử dụng tiền kim loại như : tiền kim loại nặng, dễ rơi mất, khó bảo quản
hơn tiền cotton cùng mệnh giá; nhiều trường hợp trẻ nhỏ gặp sự cố đáng
tiếc do nuốt phải tiền kim loại… Những hạn chế nêu trên của tiền kim loại
là một thực tế và chúng ta cảm thông với cảm nhận của người dân khi
những hạn chế này mâu thuẫn với thói quen tiêu dùng và bảo quản tiền đã
được hình thành lâu dài trong lưu thông; Tuy đây không phải là lần đầu tiên
tiền kim loại xuất hiện trong lưu thông ở nước ta nhưng sự vắng mặt quá
lâu của nó đã làm người dân mất đi thói quen sử dụng trong khi việc hình
thành một thói quen mới luôn cần có thời gian.
Mặc dù có những hạn chế về mặt tâm lý người sử dụng gây khó khăn
không nhỏ cho công tác phát hành tiền kim loại hiện nay, song chúng ta
cũng cần khẳng định một thực tế là tiền kim loại cũng có rất nhiều ưu thế
như: sạch hơn, bền hơn và do vậy tiết kiệm được nhiều chi phí phát hành
hơn so với tiền cotton. Ngoài ra tiền kim loại cũng phù hợp với việc sử
dụng các máy bán hàng tự động là loại hình dịch vụ thuận tiện đã và đang
trở thành một kênh bán hàng hiệu quả trong hệ thống bán lẻ trên thế giới.
11
Như vậy so với một số hạn chế trong sử dụng tiền kim loại như đã nêu thì
những lợi ích mà tiền kim loại mang đến lớn hơn rất nhiều. Đây cũng là lý
do ngày nay tiền kim loại vẫn được sử dụng rộng khắp trên thế giới ngay cả
ở những nước phát triển hiện đại. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng
chủ trương phát hành tiền kim loại vào lưu thông là một chủ trương đúng
đắn, đem lại nhiều hiệu quả thiết thực về mặt vĩ mô trong đó quan trọng
nhất là tạo ra điều kiện tiền đề để tiến hành tự động hoá các dịch vụ công
cộng_ một nội dung không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Vấn đề còn lại là chúng ta làm thế nào để tái tạo thói quen sử dụng tiền
kim loại, trong nhân dân. Điều này, theo tôi cần có những biện pháp khác
nhau theo từng giai đoạn:
- Giai đoạn đầu phát hành tiền: Kinh nghiệm phát hành tiền kim loại của

nhiều nước trên thế giới cho thấy việc phát hành tiền kim loại trong giai
đoạn đầu thường không thuận lợi , nhất là trong trường hợp cả tiền giấy và
tiền kim loại cùng mệnh giá song song lưu hành. Do vậy ở giai đoạn này
cần có nhiều biện pháp thông tin, tuyên truyền thực sự có hiệu quả để tác
động, làm thay đổi dần tư duy và thói quen sử dụng của người dân. Nhà
quản lý cần chú ý đến hiệu ứng lan truyền trong sử dụng các biện pháp
tuyên truyền sử dụng tiền kim loại : Nếu chúng ta tạo ra được những hiệu
ứng tích cực ngay từ đầu thì sẽ tạo nhiều thuận lợi cho công tác phát hành
tiền kim loại về lâu dài. Ngược lại, nếu có nhiều người, nhiều địa phương
sử dụng tiền kim loại nhưng có một số người, một vài địa phương từ chối
sử dụng tiền kim loại sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực do mức độ sử
dụng tiền kim loại trong xã hội trở nên bấp bênh hơn. Do vậy, trong giai
đoạn này việc sử dụng những biện pháp hành chính phù hợp là cần thiết và
12
có thể mang lại những hiệu quả nhất định. Ở đây có thể đề cập đến vai trò
của các ngân hàng thương mại và các cán bộ, công chức ngành Ngân hàng
trong việc gương mẫu chấp hành và tham gia tuyên truyền chính sách.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn đầu công tác phát hành tiền
kim loại cũng đã gặp không ít khó khăn. Nhưng thực tế phát sinh cho thấy
sự đồng thuận trong thực hiện chi tiền kim loại vào lưu thông và tích cực
vận động người dân sử dụng tiền kim loại của các ngân hàng thương mại
luôn tỷ lệ thuận với doanh số chi tiền kim loại của địa bàn ở từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, việc nắm bắt quy luật vận động của tiền mệnh giá nhỏ, tìm
“lối ra” hợp lý để tiền kim loại có thể nhanh chóng đi vào lưu thông, đến
những nơi thật sự có nhu cầu cũng là một vấn đề quan trọng mà nếu thực
hiện tốt sẽ tránh được tình trạng “ép chi” đơn thuần khiến cho các đơn vị
tìm cách “đối phó” gây ra tình trạng tiền kim loại không thực sự được chi ra
lưu thông mà nhanh chóng quay trở về hệ thống ngân hàng.
Thời gian qua, việc tiêu thụ tiền kim loại tại địa bàn TP.HCM được thực
hiện tương đối tốt, doanh số chi tiền kim loại vào lưu thông không ngừng

tăng lên với tốc độ ngày càng cao: từ khi phát hành ( tháng 12/2003) đến
cuối năm 2005, địa bàn TP.HCM đã chi vào lưu thông 311 tỷ đồng tiền kim
loại. Nếu tính từ khi phát hành đến nay, khối lượng tiền kim loại được chi
vào lưu thông của địa bàn TP.HCM là 440 tỷ đồng với tổng số lượng là 251
triệu miếng.
Một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần mang lại kết quả
trên là nhờ vào việc địa bàn đã vận dụng tốt hai vấn đề đã nêu về công tác
tuyên truyền tạo nên sự đồng thuận trong thực hiện chính sách và vận dụng
quy luật lưu thông của tiền mệnh giá nhỏ.Chính nhờ vào kết quả này mà
hiện nay, việc tiêu thụ và sử dụng tiền kim loại tại địa bàn TP.HCM rất
13
thuận lợi, kể cả ở khu vực ngoại thành của thành phố. Đây là những tính
hiệu rất tốt cho phép chúng ta chuyển công tác phát hành tiền kim loại của
địa bàn TP.HCM sang một giai đoạn mới tích cực hơn.
- Giai đoạn phát triển hiệu quả của công tác phát hành tiền kim loại: Như
đã nêu trên đây, một trong những lợi ích quan trọng của việc sử dụng tiền
kim loại là khả năng ứng dụng để phát triển các dịch vụ công cộng tự động
hoá mà trước hết là các máy bán hàng tự động. Trên góc độ của các nhà đầu
tư, các máy bán hàng tự động sẽ được đầu tư và lắp đặt nếu người tiêu dùng
chấp nhận sử dụng tiền kim loại và một bộ phận khách hàng tiềm năng sẽ
mua hàng từ các máy bán hàng tự động. Trong giai đoạn này, những tác
động và chính sách hỗ trợ nhất định của Nhà Nước là cần thiết nhằm đẩy
nhanh tiến độ phát triển các dịch vụ tự động sử dụng tiền kim loại để đến
lượt nó lại tạo ra những tác động tích cực trở lại đối với công tác phát hành
và hình thành những thói quen mới trong đời sống công nghiệp hiện đại .
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tiền kim loại đã được sử
dụng một cách phổ biến, nguồn tiền cung cấp cho lưu thông trên thị trường
khá ổn định và thuận lợi. Đây là những cơ sở để các máy bán hàng tự động
có thể được triển khai thuận lợi tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 14/7/2005, tại TP.HCM đã tổ chức buổi toạ đàm “Phát triển dịch

vụ bán hàng tự động sử dụng tiền kim loại” với sự tham dự của một số tổ
chức tín dụng và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ sử dụng tiền
kim loại. Qua ý kiến của các đại biểu tham dự toạ đàm cho thấy lĩnh vực
kinh doanh máy bán hàng tự động được đánh giá là một thị trường có nhiều
tiềm năng tại Việt nam, trong đó địa bàn TP.HCM là một trong những địa
bàn có nhiều thế mạnh. Chủ trương phát triển máy bán hàng tự động trên
địa bàn thành phố cũng đã được sự đồng thuận và có những hỗ trợ nhất
14
định của chính quyền, của các cơ quan chức năng về địa điểm đặt máy, về
thực hiện công tác tuyên truyền, quảng cáo…
Vấn đề còn lại hiện nay để các máy bán hàng tự động triển khai thành
công là việc lựa chọn loại mặt hàng kinh doanh và địa điểm đặt máy phù
hợp. Ngoài ra các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh máy bán hàng tự
động cũng cần tiếp tục nghiên cứu phát triển sản xuất các loại máy trong
nước nhằm hạn chế nhập khẩu, hạ giá thành của máy đồng thời đa dạng hoá
các tính năng để các máy bán hàng tự động có thể đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của người tiêu dùng. Trên thực tế, do giá thành của các máy bán hàng
tự động nhập ngoại, đa tính năng còn khá cao nên các máy bán hàng tự
động hiện được đưa vào kinh doanh chưa đa dạng được mặt hàng . Đến nay
tại địa bàn TP.HCM công ty SPT (Saigon Postel) đã lắp đặt được 40 máy
điện thoại công cộng, Cty cổ phần nước giải khát TRIBECO lắp đặt được
trên 100 máy bán nước giải khát tự động sử dụng tiền kim loại; cả hai đơn
vị đều có kế hoạch mở rộng mạng lưới kinh doanh trong thời gian tới.
Nhiều doanh nghiệp khác đang trong giai đoạn thử nghiệm, thăm dò thị
trường.
Nhìn chung đến thời điểm hiện tại số lượng máy bán hàng tự động đã
triển khai vẫn chưa gây được những hiệu ứng cần thiết để đẩy nhanh xu
hướng sử dụng dịch vụ tự động trên địa bàn nhưng dự báo trong năm 2006
và những năm kế tiếp các dịch vụ tự động sử dụng tiền kim loại sẽ ngày
càng phát triển nhanh và dần trở thành một thói quen mới trong đời sống

người dân không chỉ trên địa bàn TP.HCM.

15
Kết luận:
Dù có những khó khăn bước đầu trong công tác phát hành, nhưng thực sự
chủ trương phát hành tiền polymer và tiền kim loại là một chủ trương đúng
đắn và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Với những ưu thế vốn có
của mình, những đồng tiền trên chất liệu mới chắc chắn sẽ dần khẳng định
vị trí của mình trong đời sống người dân, đánh dấu sự chuyển mình của
đồng tiền Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
NHỮNG VẤN ĐỀ XUNG QUANH CHÍNH SÁCH PHÁT HÀNH
TIỀN MỚI
16
17
18

×