Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển kinh tế lào để làm luận văn thạc sỹ của mình trong khoá học tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.43 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế hiện nay, Cộng hịa Dân chủ Nhân
dân Lào đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Nhằm theo kịp với trình độ phát triển của các quốc gia lớn và để
chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn thiện và minh bạch chính sách thuế
trong cơng tác nhập khẩu là một nội dung cực kỳ quan trọng. Chính sách thuế
nhập khẩu có hồn thiện mới thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại quốc tế
phát triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá trình cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
Như vậy, hồn thiện chính sách thuế nhập khẩu là một địi hỏi đang rất
cần thiết và tất yếu tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chính vì vậy, tơi đã
lựa chọn đề tài: Hồn thiện chính sách thuế nhập khẩu góp phần phát triển
kinh tế Lào để làm luận văn thạc sỹ của mình trong khố học tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thuế nhập
khẩu tại Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách thuế nhập khẩu tại Cộng hịa
Dân chủ Nhân dân Lào.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện chính sách thuế nhập khẩu tại
Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu chính sách thuế nhập khẩu.
- Phạm vi nghiờn cứu: tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, trong
khoảng thời gian từ năm 2000 – 2006.

1



4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên
cứu là: phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp số liệu, so sánh và phân tích
kinh tế.
5. Những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chính sách thuế nhập khẩu.
- Phân tích thực trạng chính sách thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào, từ
đó tìm ra những mặt mạnh, điểm yếu và nguyên nhân hạn chế của chính sách
thuế nhập khẩu tại CHDCND Lào.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hồn thiện chính sách thuế nhập khẩu
góp phần phát triển kinh tế Lào.
6. Kết cấu của luận văn:
Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách thuế nhập khẩu và tác động của nó đến sự phát triển
nền kinh tế.
Chương 2: Thực trạng chính sách thuế nhập khẩu của Lào từ năm 2000 đến
nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu tại CHDCND
Lào.

2


CHƯƠNG I:
CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ LÀO
1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của thuế nhập khẩu:
1.1.1 - Khái niệm:
Thuế là khoản đóng góp mang tính pháp Luật mà nhà nước bắt buộc tổ

chức, cá nhân họat động sản xuất và kinh doanh phải nộp phần thu nhập mới
tạo ra vào ngân sách nhà nước (NSNN). Khoản nộp dưới hình thức thuế
khơng mang tính hồn trả trực tiếp, một phần được hồn trả gián tiếp thơng
qua trợ cấp xã hội, phúc lợi cơng cộng.
Cũng có thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức và cá nhân tạo ra để hình thành quỹ
tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Là một phạm trù lịch sử, thuế gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại và phát
triển của nhà nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ.
Tuỳ theo mỗi chế độ xã hội khác nhau, thuế được thiết lập theo những quan
điểm khác nhau. Song nhìn chung trong nền kinh tế thị trường thuế có những
chức năng nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
Một là, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thông qua
thuế, NSNN có được nguồn thu để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu để thực hiện
chức năng quản lý xã hội.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường, thuế là một công cụ quản lý và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thơng qua cơng cụ này, chính phủ kiểm sốt, hướng dẫn, khuyến khích
hoặc hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện sự điều tiết
hợp lý giữa người giàu và người nghèo, đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ
thể kinh doanh và các tầng lớp dân cư.

3


Người ta phân chia thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu: là loại thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế đồng
thời là một. Thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập của những người
nộp thuế và lấy trong phần thu nhập của mình để nộp vào NSNN. Ví dụ như
thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế lợi tức…

Thuế gián thu: là lọai thuế mà người nộp thuế và người chịu thuế
không đồng thời là một. Người nộp thuế là người sản xuất hoặc người kinh
doanh hàng hóa, cịn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hóa đó, họ
mua hàng hóa với giá cả trong đó có cả thuế. Với cơ chế này, người sản xuất
kinh doanh hàng hóa khi bán hàng hóa cũng là lúc họ thu hộ thuế gián thu cho
Nhà nước (qua giá bán hàng) và nộp khỏan thuế này vào cho NSNN, tức là
nộp hộ cho người tiêu dùng hàng hóa. Do đó, thuế gián thu là loại thuế điều
tiết vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, dụch vụ một cách gián tiếp,
thơng qua cơ chế giá hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế nhập khẩu…
Qua nghiên cứu các khái niệm về thuế trên đây, thấy rằng: mỗi khái
niệm chỉ mô tả một phần bản chất của thuế và mang tính lịch sử trong tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội. Gắn với tình hình thực tế và xu thế phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay tác giả khái niệm về thuế nhập khẩu như sau:
Tất cả các hàng hóa vượt quá tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế
của các tổ chức cá nhân và người nước ngòai khi nhập khẩu cảnh qua cửa
khẩu phải chịu thuế nhập khẩu.
1.1.2 - Bản chất của thuế nhập khẩu:
Thuế nhập khẩu là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chun chở
qua biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Đây là một trong những cơng
cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc tế, là biện pháp tài chính của
Nhà nước nhằm can thiệp vào hoạt động ngoại thương, buôn bán trao đổi

4


hàng hóa giữa các quốc gia. Nhờ có cơng cụ này nhà nước có thể điều chỉnh
các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với định hướng phát triển kinh tế –
xã hội của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Thuế nhập khẩu là thuế đánh
vào hàng hóa nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng khá phổ biến trên thế

giới.
@ - Bản chất của thuế nhập khẩu thể hiện trên hai phương diện:
Về mặt kinh tế: thuế nhập khẩu thực chất là một phần của cải xã hội
được tập trung vào NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Nó là
khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân có tham gia vào hoạt động
nhập khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế gián thu nên người chịu thuế là người tiêu
dùng. Tuy nhiên khi nhà nước tăng thuế suất thì ảnh hưởng đầu tiên là tới các
tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa bởi hàng hóa của họ trở nên đắt đỏ hơn,
kém sức cạnh tranh hơn. Do đó, việc động viên thuế nhập khẩu phải có giới
hạn. Mức thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng tăng thu cho NSNN và kích thích
sản xuất, kinh doanh phát triển. Mức thuế suất quá cao sẽ dẫn tới tình trạng
trốn thuế, lậu thuế. Tìm được một mức thuế suất thích hợp cho từng thời kỳ là
một bài tốn khó cho các nhà hoạch định chính sách.
Về mặt xã hội : thuế nhập khẩu phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước
và các pháp nhân, thể nhân tham gia vào hoạt đọng nhập khẩu hàng hóa. Nó
là một cơng cụ được nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng quản lý của
mình đối với các họat động kinh tế đối ngoại, điều chỉnh các quan hệ phân
phối, phân phối lại thu nhập xã hội giữa các tổ chức, cá nhân và Nhà nước.Vì
vậy, thuế nhập khẩu mang tính xã hội cao. Nghiên cứu bản chất xã hội của
thuế nhập khẩu giúp chúng tôi quán triệt đầy đủ và sâu sắc yêu cầu trong việc
hoạch định chính sách thuế nhập khẩu phải bảo đảm rõ ràng, đơn giản, dễ
hiểu, mang tính phổ thơng, phù hợp với trình độ của cả người thu thuế và

5


người nộp thuế. Việc tổ chức quản lý thu thuế cũng phải bảo đảm tính minh
bạch. Cơng khai, dân chủ mới đem lại hiệu quả cao.
1.1.3 - Vai trò của thuế nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường:
Là một loại thuế gián thu, thuế nhập khẩu là một công cụ chính sách

ngoại thương, được nhà nước sử dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu của
một nước, nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Là những sắc thuế trong hệ thống thuế quốc gia cho nên thuế nhập
khẩu cũng có vai trị của thuế nói chung là tạo nguồn thu cho NSNN và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, dưới giác độ là một sắc thuế cụ thể thì thuế
nhập khẩu cũng thể hiện những vai trị riêng có của nó.
Một là, thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho NSNN.
Để thực sự phát huy vai trò tạo nguồn thu NSNN, thuế nhập khẩu phải
bao quát hết các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các tổ chức, cá nhân,
đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời tiền thuế nhập khẩu vào NSNN.
Thông qua thuế nhập khẩu, nhà nước huy động một phần thu nhập quốc dân
được tạo ra từ hoạt động nhập khẩu hàng hóa để tập trung vào NSNN. Tuy
nhiên, nếu Nhà nước dùng quyền lực của mình để huy động quá mức thì các
tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu sẽ không kinh doanh nữa hoặc chuyển
sang kinh doanh ngầm để trốn thuế làm Nhà nước bị thất thu thuế. Vì vậy, khi
tái phân phối thu nhập bằng thuế nhập khẩu phải chú ý đến khả năng nộp thuế
của các tổ chức, cá nhân này. Khả năng nộp thuế phản ánh số thuế tối đa mà
các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhập khẩu có thể nộp mà không ảnh hưởng
hoặc thay đổi hoạt động kinh doanh của họ. Khả năng nộp thuế tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, ý thức chấp hành pháp luật, truyền thống văn hóa
của mỗi quốc gia.
Hai là, thuế nhập khẩu là một cơng cụ tài chính được nhà nước sử dụng
để kiểm soát và điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa.

6


Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa
diễn ra ở hầu khắp các nước. Hàng hóa ngày càng đa dạng về hình thức và
chủng loại. Có hàng hóa phục vụ an ninh quốc phịng, có hàng hóa tiêu dụng

thiết yếu, có hàng hóa xâm hại đến chủ quyền an ninh quốc gia và đời sống
của nhân dân như ma t, vũ khí, văn hóa phẩm đồi trụy…Vì vây, thơng qua
việc kiểm tra, thu thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Có thể nắm được tên của
mặt hàng số lượng là bao nhiêu, nhập khẩu từ nước nào. Qua đó, nhà nước
kiểm sốt được tồn bộ các loại hàng hóa nhập khẩu để có những chính sách
phù hợp với thực tiễn.
Để điều tiết hoạt động nhập khẩu hàng hóa, ngồi các biện pháp phi
thuế như hạn ngạch, giấy phép v.v…Thì biện pháp sử dụng cơng cụ thuế nhập
khẩu áp dụng khá phổ biến. Đối với nguyên liệu nhập khẩu cần cho sản xuất
trong nước mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng
chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì nhà nước quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu
thấp, thậm chí là 0% để khuyến khích nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước.
Đối với những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được đủ đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng hoặc những sản phẩm tiêu dùng cao cấp (xi măng, sắc...) thuế suất
thuế nhập khẩu thường quy định ở mức cao để hạn chế nhập khẩu và hạn chế
tiêu dùng. Như vậy, thông qua công cụ thuế nhập khẩu, nhà nước thực hiện
việc điều tiết đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
Ba là, thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước.
Chúng ta biết rằng, khối lượng hàng hóa nhập khẩu phụ thuộc vào sức
mua của thị trường. Sức mua của thị trường phụ thuộc vào giá cả hàng hóa.
Khi giá cả hàng hóa tăng giảm cịn ảnh hưởng làm giảm tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hóa trên thị trường. Thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu thành
giá cả hàng hóa nhập khẩu. Vì thế, thuế nhập khẩu đấnh thấp hay cao có ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Đối với những hàng hóa nhập

7


khẩu là những sản phẩm mà trong nước đã sản xuất được hoặc những mặt
hàng cần bảo hộ, Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao sẽ hạn chế tiêu dùng

hàng nhập khẩu, khuyến khích tiêu dùng sản phẩm trong nước. Trong điều
kiện đó, hàng sản xuất trong nước sẽ có điều kiện cạnh tranh qua giá với hàng
nhập khẩu. Khi đánh thuế nhập khẩu hàng tiêu dùng ở mức thấp, tức là Nhà
nước không hạn chế nhập khẩu mặt hàng đó, người tiêu dùng sẽ được hưởng
lợi thơng qua việc tiêu dùng hàng nhập khẩu với chất lượng cao, mẫu mã đẹp,
giá lại rẻ. Đồng thời, với mức thuế nhập khẩu thấp sẽ trực tiếp thúc đẩy các
doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đổi mới cơng nghệ, kiện tồn tổ chức, cải tiến
mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng
ngoại nhập nếu muốn tồn tại và phát triển. Đối với hàng hóa là đầu vào của
các ngành sản xuất trong nước, hàng là máy móc thiết bị phục vụ sản xuất
trong nước, việc đánh thuế nhập khẩu thấp sẽ có tác động trực tiếp đến chi phí
đầu vào của giá thành sản phẩm. Với giá thành sản phẩm giảm (do thuế nhập
khẩu thấp) sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ để nâng
cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng sản xuất trong nước. Như vậy, thông qua công cụ thuế nhập
khẩu, nhà nước thể hiện quan điểm bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng
tiêu dùng và thu hút đầu tư. Tuỳ thuộc vào mức độ bảo hộ sản xuất trong
nước, các nước có thể thực hiện các hình thức đánh thuế như:
- Thuế quan vừa đủ là loại thuế quan mà mức thuế suất chỉ vừa đủ cao
cho phép các nhà sản xuất nội địa bù đắp chi phí và có lợi nhuận bình thường
mức độ bảo hộ thấp.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế, do bị ràng buộc phải thực
hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu, vai trò bảo hộ của thuế
nhập khẩu phần nào bị hạn chế. Hơn nữa, nếu quá nhấn mạnh đến vai trò bảo
hộ của thuế nhập khẩu thì khơng những khơng thực hiện được các cam kết

8


quốc tế mà còn làm cho sản xuất trong nước bị đình trệ kém phát triển do ỷ lại

vào sự bảo hộ của Nhà nước. Vì vậy, để phát huy tốt vai trò bảo hộ của thuế
nhập khẩu buộc phải có sự lựa chọn những ngành nghề cần bảo hộ, mức độ
bảo hộ và thời hạn bảo hộ sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất
nước, đồng thời buộc các ngành được bảo hộ phải có chiến lược đầu tư đổi
mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, chủ động cạnh tranh với hàng nhập khẩu khi hết thời hạn
bảo hộ.
1.2. Chính sách thuế nhập khẩu
1.2.1 - Nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu
Tuy mỗi nước có một chính sách thuế nhập khẩu riêng nhưng về cơ bản
vẫn có một số nội dung được đề cập giống nhau. Những nội dung đó là:
A) Đối tượng chịu thuế nhập khẩu: là hàng hóa được phép nhập khẩu
qua cửa khẩu biên giới.
Trong Luật thuế nhập khẩu mỗi nước đều có quy định cụ thể về phạm
vi đối tượng chịu thuế nhập khẩu. Như ở Lào cũng có quy định như sau:
+

Mọi hang hóa được phép nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Lào,

đều là đối tượng chịu thuế nhập khẩu bao gồm:
- Hang hóa nhập khẩu của các tổ chức kinh tế Lào thuộc các thành phần
kinh tế được phép mua bán trao đổi, vay nợ với nước ngồi.
- Hàng hóa nhập khẩu của các tổ chức kinh tế nước ngồi, các hình
thức đầu tư nước ngồi tại Lào.
- Hàng hóa vượt q tiêu chuẩn hành lý được miễn thuế mang theo
người của cá nhân Lào và người nước ngoài khi nhập cảnh qua cửa khẩu, biên
giới Lào.

9



- Hàng là quà biếu, quà tặng vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ
chức, các nhân ở nước ngoài, người Lào định cư ở nước ngoài mang hoặc gửi
về cho các tổ chức, cá nhân ở Lào và ngược lại.
- Hàng hóa nhập khẩu vượt quá tiêu chuẩn miễn thuế của các tổ chức
quốc tế, cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Lào và các cá nhân nước ngồi
làm việc tại các tổ chức nói trên hiặc tại các thanh thức đầu tư nước ngoài tại
Lào.
Ngoài ra, Lào cũng có quy định về đối tượng khơng chịu thuế nhập
khẩu. Thơng thường đó là các hàng hóa sau:
+ Hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Lào trên
cơ sở hiệp định ký kết giữa các Chính phủ hoặc ngành, địa phương được Thủ
tướng Chính phủ phép.
+ Hàng chuyển khẩu bao gồm:
- Hàng hóa được chuyển thẳng từ cửa khẩu nước xuất khẩu đến cửa
khẩu nước nhập khẩu khơng đến cảng nội địa.
- Hàng hóa được chở đến cửa khẩu nội địa nhưng không làm thủ tục
nhập khẩu mà đi luôn tới cửa khẩu nước nhập khẩu.
- Hàng viên trợ nhân đạo của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ.
Như vậy, đối tượng chịu thuế nhập khẩu đa dạng. Trừ một số mặt hàng
mà Nhà nước không cho phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu vì có thể
gây tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia và đời sống văn hóa xã hội, cịn lại
mọi loại mặt hàng đều có thể là hàng hóa chịu thuế nhập khẩu.
B) Giá tính thuế: hay trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa nhập
khẩu được xác định theo mục đích quản lý của cơ quan hải quan.
Việc xác định đúng trị giá hàng hóa khơng chỉ có ảnh hưởng trực tiếp
tới quan hệ thương mại, ngoại giao giữa các nước. Có hai trường phái chính
trong việc xác định trị giá hàng hóa:

10



- Trường phái áp dụng phương pháp xác định trị giá hàng nhập khẩu
theo trị giá GATT. Những nước theo trường phái này quy định trị giá để tính
thuế hàng nhập khẩu là trị giá thực. Trị giá thực được hiểu là trị giá ghi trong
hóa đơn thương mại (giá thỏa thuận trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh ghi
trong hợp đồng mua bán ngoại thương) cộng thêm các khoản chi phí hợp lý,
hợp pháp chưa được tính vào trị giá, Ví dụ: chi phí hoa hồng và mơi giới, chi
phí th cơng-ten-nợ…những nước áp dụng trị giá GATT thường quy định rõ
trong Luật pháp của mình phương pháp xác định trị giá thực. Căn cứ pháp lý
cơ bản để xem xét trị giá thực là hợp đồng mua bán ngoại thương. Đơn vị
kinh doanh hàng hóa nhập khẩu phải chịu trách nhiệm hồn tồn về tính trung
thực của mức giá ghi trên hợp đồng. Mọi gian lận nếu bị phát hiện đều bị xử
phạt rất nặng. Thông thường những nước áp dụng trị giá này là những nước
phát triển, nơi mà hệ thống Luật pháp tương đối ổn định, người dân có ý thức
pháp luật cao, hệ thống thanh tốn hiện đại. Ưu điểm của hình thức này là
hồn toàn phù hợp với các chuẩn mực của thương mại tự do, được luật pháp
quốc tế hóa bằng việc tổ chức GATT ban hành Hiệp định vì chị giá hải quan
theo GATT. Áp dụng hình thức này, đơn vị nhập khẩu sẽ dự tính trước được
số thuế phải nộp, qua đó chủ động trong khâu tính tốn, lập kế hoạch kinh
doanh. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức này cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ hải
quan phải được đào tạo kỹ càng, chi phí quản lý thuế cao vì việc quản lý sẽ
phức tạp. Nếu quản lý không tốt, đơn vị nhập khẩu có thể thơng đồng với
nhau khai thấp trị giá tính thuế, gây thất thu cho NSNN và dẫn đến hiện tượng
gian lận thương mại qua giá.
- Trường phái áp dụng bảng giá tối thiểu. Khác với trị giá thực là trị giá
thực tế thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán theo mức giá được thỏa thuận trong
điều kiện cạnh tranh lành mạnh và được ghi trong hợp đồng mua bán ngoại
thương, giá tối thiểu được xác định căn cứ vào giá trị hàng hóa được sản xuất


11


trong nước nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu, áp đặt. Những nước áp dụng giá tối
thiểu thường quy định nếu mức giá ghi trên hợp đồng mà thấp hơn mức giá
trong bảng giá tối thiểu được Nhà nước quy định thì phải áp dụng giá ghi
trong bảng giá tối thiểu. Việc áp dụng hình thức này thường diễn ra ở những
nước đang phát triển, hệ thống Luật pháp chưa ổn định. Ý thức Luật pháp của
người dân chưa cao, thường trốn thuế bằng cách ghi thấp giá trị trong hợp
đồng. Áp dụng hình thức này chính là một biện pháp phi thuế quan giúp các
nước này tăng số thu nhưng không phải tăng thuế suất – một biện pháp dễ bị
trả đũa. Nhưng việc áp dụng hình thức này khiến chính sách thuế khơng minh
bạch, rõ ràng, khơng thể dự đốn được. Ngồi ra, nếu việc định giá giá tối
thiểu không được cập nhật thường xuyên dựa trên các thông tin điều tra về thị
trường sẽ dẫn đến hiện tượng dịnh gía tối thiểu quá cao hoặc quá thấp so với
giá thực tế, gây khó khăn cho người nhập khẩu hoặc thất thu NSNN.
1.2.2 -Vị trí của chính sách thuế nhập khẩu:
Chính sách thuế nhập khẩu là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và
các công cụ, biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để can thiệp, điều tiết
hoạt động nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
phù hợp với định hướng, mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế
– xã hội của quốc gia đó. Chính sách thuế nhập khẩu cũng nhằm xây dựng
hành lang pháp lý giúp cho các cá nhân, đơn vị có hoạt động nhập khẩu hàng
hóa có khả năng dự đốn trước và điều chỉnh hành vi kinh doanh của mình.
Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận của chính sách kinh tế
chung của quốc gia, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ phát triển kinh tế. Nó tác
động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất. Phân phối, chuyển dịch cơ cấu kinh
tê của đất nước đến quy mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi
nước vào phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế. Chính sách thuế
nhập khẩu cũng là một bộ phần của chính sách thương mại quốc tế của nhà


12


nước. Mức độ can thiệp của nó vào nền kinh tế nhiều hay ít phụ thuộc vào
chính sách thương mại quốc tế là tự do hay bảo hộ. Khi hoạt động trao đổi
hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng phong phú thì chính sách thuế nhập
khẩu của một nước cịn có thể có những tác động nhất định đến nền kinh tế
của một nước khác. Đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất
kinh doanh trong nước xác lập lợi ích kinh tế của họ ở nước ngồi trên các
lĩnh vực tiêu thụ hàng hóa, đầu tư…
Chính sách thuế nhập khẩu có thể tạo nên các tác động tích cực khi nó
có cơ sở khoa học và thực tiễn, tức là nó xuất phát từ các bối cảnh khách quan
của nền kinh tế thế giới, chú ý đến đặc điểm và trình độ phát triển của nền
kinh tế trong nước, tuân theo các quy luật khách quan trong sự vận động của
các quan hệ kinh tế quốc tế và thường xuyên được bổ sung, hoàn chỉnh phù
hợp với những biến đổi mau lẹ của thực tiễn.
Mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn có
những nét khác biệt, cho nên chính sách thuế nhập khẩu cũng thay đổi để đạt
được những mục tiêu cụ thể của chính sách kinh tế. Nhưng nhìn chung chính
sách thuế nhập khẩu phải có tác dụng bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại
sự cạnh tranh từ bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển và hướng ra bên ngoài.
1.3. Tác động của chính sách thuế nhập khẩu đến hoạt động kinh tế
1.3.1 - Thuế tác động đến tăng trưởng kinh tế
Trong thời kỳ đổi mới, kinh tế Lào có tốc độ tăng trưởng khá. Đồng
thời với đổi mới kinh tế, Nhà nước đẩy mạnh cải cách thuế, chính sách thuế
nhập khẩu phù hợp đã tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng và định hướng
phát triển kinh tế thị trường. Thuế tham gia tích cực vào điều hành kinh tế vĩ
mô, chuyển dịch nhuồn lực đầu tư kinh tế vào các lĩnh vực then chốt; chuyển

dịch đầu tư vào khai thác lợi thuế của các vùng kinh tế ở khắp miền đất nước;

13


thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế theo xu hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa…
Về tăng trưởng kinh tế Lào, có thể đánh giá chung là, trong những năm
qua sản xuất phát triển, lưu thơng hàng hóa thơng thoáng, giá cả ổn định dần.
Nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, cơ cấu chuyển dịch tích cực. Tính
chung 5 năm 2000 – 2005, tổng sản phẩm trong nước tăng 22,5%, bình quan
mỗi năm tăng 5%. Trong đó: năm 2000 tăng 2,5%, 2001 tăng 3,7%, 2002 tăng
4,2%, năm 2003 tăng lên 6%.
1.3.2 - Thuế tác động tăng thu ngân sách
Trong cơng tác thuế có nhiệm vụ trọng tâm, nỗ lực phấn đấu hoàn
thành vượt mức nhiệm vụ thu NSNN. Nhà nước đã đặt ra các thứ thuế để bắt
buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một phần sản vật và thu nhập của
họ cho Nhà nước mới tồn tại và họat động được. Như vậy, ngay từ buổi khai
sơ, thuế đã được sử dụng với mục tiêu quan trọng là tập trung thu nhập vào
tay Nhà nước. Lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ và ở các
nước cũng đã cho thấy: Tỷ trọng thu bằng thuế thường chiếm phần lớn trong
các tổng thu nhập của NSNN. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau
khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu bằng thuế, phí chiếm tới trên 90%
tổng số thu NSNN.
1.4. Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của các nước và bài học kinh
nghiệm cho Lào.
1.4.1 - Cải cách chính sách thuế của Việt Nam
1.4.1.1 - Chính sách tổ chức quản lý hoạt động nhập khẩu:
Về cơ bản, nhà nước Việt Nam vẫn tiếp tục thực hiện nhất quán chính
sách tổ chức và quản lý hoạt động nhập khẩu. Nét nổi bật trong chính sách

kinh tế đối ngọai giai đọan này là bước đầu thực hiện các cam kết quốc tế
song phương và đa phương, chủ yếu ở cấp độ khu vực và liên khu vực như

14


đẩy mạnh quan hệ kinh tế với trên 140 nước và vùng lãnh thổ; thực hiện
chương trinh cắt giảm thuế nhập khẩu để hội nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN; tham gia APEC, WTO… Cơ chế và công cụ quản lý được đổi mới
ngày càng triệt để hơn nhằm thích ứng với điều kiện nền kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế.
1.4.1.2 - Mục tiêu và nội dung cơ bản của chính sách thuế nhập khẩu:
Năm 1992, Luật thuế nhập khẩu của Việt Nam ra đời đã thống nhất
được chế độ thu thuế giữa hàng mậu dịch và hàng phi mâu dịch, do đó đối
tượng nộp thuế có sự thay đổi. Biểu thuế đã có sự thay đổi lớn với việc đa vào
thực hiện danh mục hàng hóa của biểu thuế cơ bản dựa trên danh mục hàng
hóa điều hòa của tổ chức Hải quan thế giới thay cho danh mục theo khối SEV.
Sau gần hai năm thực hiện, một số quy định của Luật thuế NK năm 1992
khơng cịn phù hợp với thực tiễn sản xuất kinh doanh, ngày 05/07/1993, Quốc
hội Việt Nam kỳ họp thứ 3, khóa IX đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế XNK có hiệu lực thi hành từ ngày 01/09/1993. Luật này
bỏ quy định miễn thuế đối với hàng của công dân Việt Nam đi hợp tác lao
động, hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài mang về hoặc gửi
về nước trong mức quy định của hội đồng bộ trởng. Luật cũng thay đổi quy
định về mức phạt chậm nộp thuế từ 0,5% xuống cịn 0,2%. Ngồi ra, biểu
thuế XNK danh mục, thuế suất, mã số, giá tính thuế đối với mặt hàng NK nhà
nước Việt Nam cần phải quản lý…
Từ ngày 01/01/1996, thực hiện chương trình cải cách chính sách thuế
giai đọan 2, cũng như cam kết với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Việt Nam đã
tiên hành cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu của một số mặt hàng có mức thuế

suất trên 60%. Biểu thuế nhập khẩu được ban hành trong điều kiện nền kinh
tế đang trong quá trình chuyển đổi và phát triển. Do đó, biểu thuế đã thường
xuyên có những điều chỉnh cho phù hợp với những biến động của nền kinh tế

15


trước áp lực cạnh tranh gia tăng của hàng hóa NK. Trong giai đoạn này, mục
tiêu của thuế nhập khẩu cần đạt được là:
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động nhập
khẩu, phù hợp với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng
Cộng hoà và Nhà nước Việt Nam trong xu thế tự do hóa kinh tế quốc tế; bảo
đảm điều hành toàn bộ họat động nhập khẩu một cách linh họat, có hiệu quả.
Thơng qua chính sách thuế nhập khẩu đẩm bảo kết hợp hài hòa và phát
huy khả năng cạnh trạnh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế
giới với yêu cầu bảo vệ và bỗ trợ nền sản xuất trong nước. Đồng thời, thông
qua thuế nhập khẩu nhằm định hướng tăng cường nhập khẩu công nghệ, kỹ
thuật cao nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất trong nước có điều
kiện đổi mới cơng nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm… Bên
cạnh đó, chính sách thuế nhập khẩu góp phần hạn chế nhu cầu tiêu dùng hàng
hóa nhập khẩu, đặc biệt đối với những hàng hóa mà trong nước đã sản xuất
được.
Thuế nhập khẩu phải đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập nền
kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới; thực hiện các cam kết song
phương và đa phương.
Biểu thuế nhập khẩu được bổ sung năm 1993 và 1998 đã thường xuyên
điều chỉnh. Trong biểu thuế, có những mặt hàng do mới xuất hiện trên thị
trường hoặc do cách hiểu khác nhau, có thể áp mã tính thuế vào nhiều mức
khác nhau. Tình trạng trên đây đã dẫn đến có trường hợp cố tình áp mức thuế
suất từ 0-5%, trong khi đó có một số dịng hàng có mức thuế manh mún,

chẳng hạn mức thuế 12% có 2 dịng hàng, mức thuế suất 18% có 1 dịng hàng,
45% có 12 dịng hàng, 55% có 1 dịng hàng . Từ chỗ biểu thuế có hiều mức
thuế suất như vậy nên trong cùng nhóm, cùng phân nhóm có những mặt hàng
khơng khác nhau nhiều về tính chất lý hóa và cơng dụng nhưng có mức thuế

16


suất chênh lệch nhau rất lớn, dẫn đến khó khăn, tranh chấp trong q trình
thực hiện, thậm chí đã gây ra tình trạng lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu
thuế nhập khẩu. Ví dụ: chỉ tính từ ngày 01/01/1999 đến tháng 10/2000, do
biến động của thị trường thế giới và trong nước, nhà nước đã tiến hành 18 lần
sửa đổi, bổ sung biểu thuế XNK (chủ yếu là NK), trong đó riêng mặt hàng
xăng, dầu nhập khẩu thuộc nhóm 2170 đã có 7 lần sửa đổi mức thuế suất.
Việc tiến hành điều chỉnh mức thuế suất trong biểu thuế nhằm đảm bảo tính
kịp thời, đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động XNK. Về phương diện quản lý vĩ
mô, quá trình điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo ổn định và
thích ứng của nền kinh tế trước những biến đọng từ bên ngoài. Tuy nhiên,
thực tế việc điều chỉnh thường xuyên thuế suất trong biểu thuế nhập khẩu gây
khó khăn cho các doanh nghiệp làm giảm đi tính chủ động trong kinh doanh,
gây tâm lý ỷ lại, trông chờ Nhà nước. Mặt khác, với thực trạng này cịn có thể
gây nên tình trạng sơ hở trong chính sách, dễ bị lợi dụng trong khi thực hiện
dẫn đến tiêu cực, thất thu thuế nhập khẩu.
Ngoài ra , việc ấn định thuế suất hàng nhập khẩu cưa dựa vào tính chất
của hàng hóa, chủ yếu đánh vào mục đích sử dụng, chính điều này dễ gây ra
sự tuỳ tiện, trốn thuế qua việc khai báo không trung thực của đối tượng nộp
thuế.
1.4.1.3 - Nhận xét về sự hình thành và q trình hồn thiện chính sách
thuế nhập khẩu của Việt Nam:
- Biểu thuế thể hiện quan điểm:

+ Vừa bảo hộ, vừa khuyến khích phát triển sản xuất;
+ Xây dựng trên cơ sở danh mục hàng hóa XNK năm 1996;
+ Thể hiện rõ quan điểm hội nhập vằng các mức thuế suất (thường, ưu
đãi và ưu đãi đặc bịêt).
+ Tách biệt thuế tiêu thụ đặc biệt ra khỏi thuế nhập khẩu.

17


- Giá tính thuế vẫn áp dụng 2 phương pháp (theo hợp đồng và theo
bảng giá tối thiểu).
- Điều chỉnh theo hướng thu hẹp đối tượng miễn, giảm hướng đến cơng
bằng trong chính sách thuế nhập khẩu; chú trọng đến khuyến khích đầu tư cho
giáo dục, đào tạo, khoa học cơng nghệ, đầu tư trong và ngồi nước.
- Trong trường hợp có phân biệt đối xử thương mại khơng bình thường,
hàng hóa nhập khẩu ngồi việc phải chịu mức thuế nhập khẩu theo biểu thuế
nhập khẩu còn phải chịu thuế bổ sung, thuế chống bán phá giá hoặc thuế
chống trợ cấp xuất khẩu hoặc thuế chống phân biệt đối xử theo quy định của
pháp Luật Việt Nam, phù hợp với thơng lệ quốc tế.
- Ngồi ra, chính sách thuế nhập khẩu thể hiện rõ trách nhiệm pháp lý
trong việc khai báo, tính thuế và nộp thuế nhập khẩu.
Qua phân tích, đánh giá và nhận định chính sách thuế nhập khẩu qua
các thời kỳ được tác giả luận văn trình bày trên đây cho thấy rõ qua mỗi thời
kỳ lịch sử, chính sách thuế ln được xác định là cơng cụ đắc lực trong các
cơng cụ điều chỉnh chính sách ngoại thương. So với yêu cầu đặt ra trên con
đường hội nhập vẫn còn nhiều bất cập, nhưng về cơ bản, những bước đi trong
thời gian qua là nền tảng để đổi mới triệt để trong giai đoạn tiếp theo.
1.4.2 - Cải cách chính sách thuế nhập khẩu của Trung Quốc
1.4.2.1 - Bối cảnh kinh tế của Trung Quốc khi tiến hành cải cách thuế:
Bối cảnh kinh tế của Trung Quốc trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế

kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường, hệ thống thuế
khơng cịn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, không phát huy được
chức năng điều tiết vĩ mơ nền kinh tế và địi hỏi phải có sự cải cách thích ứng
là một tất yếu khách quan.

18


1.4.2.2 - Mục tiêu và nội dung cơ bản của cải cách thuế nhập khẩu của
Trung Quốc:
Do Trung quốc thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước trong
một Thời gian khá dài từ trước đến nay, nên mức độ thuế nhập khẩu luôn ở
mức cao. theo số liệu thống kê: “năm 1992, mức bình quân thuế nhập khẩu
của Trung Quốc là 47,2%, sau đó tuy giảm, nhưng đến năm 1995 vẫn ở mức
bình quân là 35,6%”. Trung Quốc là một trong những nước có mức thuế nhập
khẩu cao trên thế giới. Từ năm 1996 trở đi, Trung Quốc đã giảm thuế nhập
khẩu xuống mức bình quân là 23%. Khi thực hiện chính sách cắt giảm thuế
nhập khẩu, tác động của thuế nhập khẩu đối với nền kinh tế theo chiều hướng
tốt. Trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1995, Trung Quốc đã trải
qua bốn lần giảm thuế. Căn cứ biểu thuế được xây dựng theo Hệ thống điều
hòa HS được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trong thời gian này tỷ lệ thuế suất
thuế nhập khẩu bình quân của Trung Quốc giảm từ 47,2% xuống còn 36,4%
(giảm 10,5%); năm 1996 tỷ lệ thuế suất thuế nhập khẩu bình quân lại tiếp tục
giảm xuống 23% (giảm 13,4% so với lần giảm trước). Do đã trải qua các lần
giảm thuế nhập khẩu, sức chịu đựng của nền kinh tế được nâng lên, các doanh
nghiệp trong nước dần dần thích ứng với mơi trường cạnh tranh mới khi mà
thuế nhập khẩu giảm, lượng hàng hóa nhập khẩu được tăng lên.
Khi thực hiện chính sách mở cửa, Trung Quốc đặt ra rất nhiều chính
sách ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế nhập khẩu. Ví dụ như việc miễn, giảm
thuế nhập khẩu đối với việc chuyển giao công nghệ, hàng hóa nhập khẩu vào

trong đặc khu kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, hàng hóa là
nguyên liệu, bán thành phẩm mà các doanh nghiệp nhập khẩu để gia cơng làm
hàng xuất khẩu… Chính điều này đã làm cho số thuế nhập khẩu thu được so
với giá trị hàng hóa nhập khẩu đạt ở tỷ lệ thấp (khoảng 15% so với giá trị
hàng nhập khẩu).

19


Thực tế chứng minh rằng mức độ mở cửa thị trường của Trung Quốc
lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ thuế nhập khẩu danh nghĩa theo Luật định. Hay
nói cách khác, tỷ lệ bảo hộ thực tế nhỏ hơn nhiều so với mức bảo hộ trên lý
thuyết mà khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trung quốc đã chấp nhận
được. Việc xác định trị giá tính thuế, Trung Quốc áp dụng theo quy định Hiệp
định trị giá GATT nếu hội đủ các điều kiện theo quy định của hiệp định, bên
cạnh đó, áp dụng bảng giá tối thiểu đối với những trường hợp khơng đủ điều
kiện hoặc thuộc nhóm hàng

Nhà nước quản lý giá. Tuy nhiên, số dòng

hàng mà nhà nước quản lý thông qua việc xây dựng bảng giá tối thiểu để làm
căn cứ tính thuế nhập khẩu ngày càng giảm dần để phù hợp với xu thế mà
trung quốc đang tới gần đó là gia nhập WTO. Biểu thuế nhập khẩu được xây
dựng dựa trên cơ sở hệ thống điều hòa (Harmonised System-HS) của tổ chức
Hải quan thế giới (gọi tắt là danh mục HS).
Thực tế trên đây cho thấy rằng, việc Trung Quốc tiếp tục cắt giảm thuế
nhập khẩu để thực hiện chương trình hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai
mang những đặc trưng cơ bản sau đây:
- Chính phủ trung quốc chú ý đến hoàn thiện toàn diện hệ thống thuế,
kết cấu mức thuế suất hợp lý theo hướng tăng dần tỷ lệ thuế đối với tài

nguyên, bán thành phẩm.
- Gỉam mạnh mức độ thuế nhập khẩu một cách thích hợp đối với thiết
bị kỹ thuật hình thành nên tài sản cố định mà trong nước chưa sản xuất được,
nhằm tạo thuận lợi cho việc hiện đại hóa sản xuất, giảm giá thành sản phẩm
của các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
- Thuế nhập khẩu đối với hàng nông sản thực hiện theo phương pháp
thuế quan hạn ngạch.
- Thực hiện mức thuế tạm thời tương đối thấp đối với một số mặt hàng
mà chính phủ Trung Quốc đang cố gắng phát triển sản xuất, các mặt hàng

20


khơng tiện giảm thuế nhập khẩu một cách chính thức hoặc một số nguyên, vật
liệu và thiết bị kỹ thuật trong nước rất cần nhập khẩu nhưng vẫn giữ gức thuế
suất tương đối cao nhằm ổn định NSNN cũng như thực hiện giảm dần mức độ
bảo hộ bằng chính sách thuế nhập khẩu.
Việc nghiên cứu nội dung cơ bản quá trình hồn thiện chính sách thuế
nhập khẩu của Trung Quốc cho thấy:
- Thực hiện chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu có lợi cho các doanh
nghiệp thu hút thiết bị và kỹ thuật hiện đại từ bên ngoài;
- Tạo điều kiện thu hút nguyên vật liệu mà trong nước đang thiếu, giảm
giá thành sản phẩm sản xuất trong nước.
- Giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm, chủng loại hàng hóa phong phú,
chất lượng cao, những điều này sẽ có lợi cho người tiêu dùng trong nước, góp
phần tiết kiệm nguồn lực từ trong dân chính, nâng cao khả năng thanh toán
trong bộ phận lớn tầng lớp dân cư.
- Dùng yếu tố ngoại lực đẩy nhanh quá trình cải cách bên trong của nền
kinh tế nhằm thức đẩy tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế.
Bằng việc xác định mục tiêu hội nhập kinh tế thế gới, chính phủ Trung

Quốc đã có những bước tiến khá thành cơng trong việc mở cửa thị trường, tạo
điều kiện cho hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu ra thế giới bên ngoài, thúc đẩy
nhanh quá trình cải cách kinh tế. Đặc biệt “từ năm 1979, khi trung quốc ký
hiệp định thương mại (lần thứ nhất) với Hoa kỳ, kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc vào thị trường Hoa Kỳ đã gia tăng từ khoảng 40 triệu USD năm
1979 lên khoảng 80 tỷ USD năm 1999”. Kết quả mang lại qua số liệu trên đây
chứng tỏ khả năng thích ứng của các doanh nghiệp trung quốc tăng lên trước
sức cạnh tranh của hàng hóa nhập từ bên ngoài, nhằm tạo thuận lợi cho việc
giành lợi thế cho hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc. Đây chính là nhân tố
dẫn đến sự thành cơng của q trình cải cách kinh tế, mà Lào có thể lấy đó

21


làm bài học kinh nghiệm cho chính mình trong q trình hội nhập vào kinh tế
thé giới.
- Nâng cao vai trị và quyền kiểm sốt của cơ quan hải quan trong việc
tổ chức thu và quản lý thuế nhập khẩu (theo Luật Hải quan Trung Quốc năm
2000 tổng cục Hải quan Trung Quốc là cơ quan ngang bộ) nhằm đáp ứng yêu
cầu kim ngạch XNK ngày càng tăng và kiểm soát nền kinh tế trước xu thế hội
nhập.
1.4.2.3 - Thành tựu và tồn tại của cải cách thuế nhập khẩu Trung Quốc:
Công cuộc cải cách kinh tế và mở cửa của Trung Quốc cho đến nay
được đánh giá là thành công căn cứ vào một số thành tựu như tốc độ tăng
GDP bình quân hàng năm khoảng 10%, trong gần 10 năm từ 1987 đến 1993
đã tạo ra 80 triệu việc làm và giảm tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ
xuống cịn 20%, trong đó những thành tựu của cải cách thuế như sau:
- Thu NSNN ổn định, tăng trưởng, bảo đảm cân đối được ngân sách do
cải cách thuế được tiên hành từng bước thận trọng. Từ đó, thu từ thuế đã trở
thành nguồn thu chủ yếu của NSNN (chiếm trên 90%) và tỉ lệ chiếm trong

GDP bình qn hàng năm là 18%.
- Cải cách thuế hồn thành tốt chức năng thúc đẩy mở cửa nền kinh tế,
cải thiện môi trường đầu tư trong công cuộc cải cách kinh tế song vẫn bảo
đảm nguồn thu cho ngân sách. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ mở cửa, chính
cách miễn giảm thuế được sử dụng như là một cơng cụ để thu hút đầu tư nước
ngồi, nhưng sau khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức nhất định và để
hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì Trung Quốc tiến hành xóa bỏ các ưu đãi
về thuế đối với đầu tư nước ngoài, áp dụng một mức thống nhất cho các thành
phần kinh tế trong và ngoài nước đồng thời giảm thuế suất thuế nhập khẩu.
Do vậy, nguồn thu từ thuế vẫn ổn định trong thời kỳ mở cửa.

22


Tuy nhiện, trong quá trình cải cách thuế tốc độ tăng thu ngân sách vẫn
chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, tỉ lệ thu thuế trên GDP giảm
từ 20% trong năm 1982 xuống còn 15% GDP trong nm 1992.
1.4.3 - Tham khảo chính sách thuế nhập khẩu của các nớc ASEAN:
Thực hiện mục tiêu mở cửa thị trờng, tự do hoá thơng mại, phần lớn các
quốc gia trong ASEAN đà thực hiện các chơng trình cắt giảm thuế nhập khẩu
để thu hút đầu t, cải tiến kỹ thuật, tạo điều kiện mở rộng thị trờng cho sản
phẩm của mình tren thị trờng khu vực và trên thế giới. Kết quả của quá trình
này là sự phát triển vợt bậc của các nền kinh tế thành viên. Những điểm chính
rút ra khi tham khảo kinh nghiệm các nớc trong khối ASEAN:
+ Điểm chung nhất của chính sách thuế quan các nớc ASEAN là thực
hiện chơng trình cắt giảm thuế, nhằm thúc đẩy tự do hoá mậu dụch và đầu t
trong và ngoài khu vực ASEAN;
+ Tuy mức ®é cã kh¸c nhau, c¸c níc ®Ịu thùc hiƯn chÝnh sách bảo hộ
hợp lý, đặc biệt là việc giảm thuế nhập khẩu tài sản cố định, vật t, nguyên liệu;
giảm dần mức thuế suất cao đối với hàng hoá phục vụ tiêu dùng. Thực tiễn

chứng minh rằng sức chịu đựng của các nền kinh tế đợc tăng lên và khả năng
cạnh tranh của hàng hoà các nớc ASEAN đợc củng cố.
+ Tất cả các nớc trong ASEAN đều áp dụng phơng pháp thuế tỷ lệ; từng
bớc áp dụng phơng pháp xác định trị giá tính thuế theo quy định của Hiệp
định trị giá WTO.
+ Một trong những biện pháp để hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu là thực hiện chơng trình
cắt giảm hàng rào thuế nhập khẩu (giảm thuế suất) , bằng biện pháp thích hợp
đối với nền kinh tế. Ưu tiên giảm thuế đối với nguyên lịêu, vật t hình thành
nên tài sản cố định, giảm thuế các ngành muốn phát triển, mời gọi đầu t từ bên
ngoài. Giảm dần thuế nhập khẩu đối với hàng tiêu dïng.

23


+ Việc cắt giảm thuế nhập khẩu không ảnh hởng nhiều đến nguồn thu
cho ngân sách Nhà nớc do việc tăng khả năng XNK (số lợng tăng lên do giảm
thuế sẽ bù đắp đợc thuế giảm do giảm thuế suất) và các lại thuế khác do sự
thăng trởng của nền kinh tế mang lại.
+ Biểu thuế nhập khẩu phù hợp víi danh mơc HS, møc th st hỵp lý
tÝnh cho từng chơng, nhóm mặt hàng, dựa trên tính chất của hàng hoá.
+ Tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng và tạo điều kiện thông thoáng cho
đầu t, kiểm soát hàng nhập khẩu là việc làm không thể thiếu đợc trong việc
mở cửa thị trờng với thế giới bên ngoài, đặc biệt là bài học rút ra từ khủng
hoảng kinh tế tài chính năm 1997.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế mà chúng ta cần lu ý:
+ Tự do hoá mậu dịch và đầu t đà tạo môi trờng thông thoáng cho hoạt
động nhập khẩu, mở rộng môi trờng thu hút vốn đầu t, khả năng kiểm soát
hàng hoá nhập khẩu băng công cụ thuế nhập khẩu đối với hoạt động nhập
khẩu cha theo kịp yêu cầu xu thế tự do hoá thơng mại làm ảnh hởng đến quá

trình tự do hoá thơng mại.
+ Trong điều kiện toàn cầu hoá và khu vực hoá, các nớc trong khối
ASEAN đà có những bớc tiến quan trọng về tự do hoá mậu dịch bằng việc đề
ra chơng trình cắt giảm hàng rào thuế nhập khẩu và phi thuế quan vào năm
2003 (đối với các nớc thành viên cũ). Tuy nhiên, so với xu thế phát triển ngày
càng cao bằng sự hỗ trợ bở thành tựu kho học công nghệ, thơng mại điện tử đÃ
hình thành và từng bớc thay thế thơng mại truyền thống thì quá trình này còn
chậm hơn so với các nớc khác trên thế giới, đặc biệt là các nớc công nghiệp
phát triển đà chi phối rất lớn đối với thơng mại thế giới.
@ Một số kÕt ln rót ra tõ tham kh¶o kinh nghiƯm chÝnh sách
thuế nhập khẩu của một số nớc:
Việc nghiên cứu chính sách thuế nhập khẩu, trong đó chủ yếu là thuế
nhập khẩu của nột số nớc trên đây cho thấy rằng các nớc đà mạnh dạn thực

24


hiện chính sách tự do hoá mậu dịch bằng việc giảm thiểu hàng rào thuế nhập
khẩu, thuế hoá các hàng rào phi thiế quan kết hợp với những co chế tổ chức
thực hiện đà góp phần lành mạnh hoá môi trờng đầu t, phát huy tối đa vai trò
và vị trí của thuế nhập khẩu trong hê thống các công cụ kinh tế mang lại. Qua
đó, có thể rút ra một số kinh nghiệm nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập
khẩ của Vn nh sau:
Biểu thuế nhập khẩu đơn giản mức thuế suất, thực hiện tiến trình cắt
giảm thuế nhâp khẩu, biểu thuế phù hợp với danh mục hàng hoá đợc ban hành
ổn định trong một thời gian khá dài. ®Ỉc biƯt qua kinh nghiƯm cđa Trung
Qc cho thÊy, viƯc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện các cam
kết quốc tế luôn luôn gắn liền với quá trình thúc đẩy các doanh nghiệp trọng
nớc nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuỳ theo năng lực cạnh tranh mà thực hiện
chủ trơng cắt giảm dần thuế suất. Chính điều này góp phần thúc đây tự do hoá

thơng mại và tạo tiền đề cho quá trình tăng trởng nền kinh tế.
Cần phải ban hành có sự thống nhất chính sách thuế nhập khẩu và chính
sách, thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu. Chính sách cần phải ban
hành hÕt søc cơ thĨ, dƠ hiĨu, dƠ thùc hiƯn tr¸nh t tiƯn khi ¸p dơng, cịng nh
chèng gian lËn vỊ thuế nhập khẩu.
Các nớc đều thực hiện các phơng pháp xác định trị giá tính thuế theo
quy định của Hiệp định trị giá WTO, tạo điều kiện hàng hoá thông quan
nhanh chóng, góp phần đẩy nhanh tốc độ lu chuyển hàng hoá qua cửa khẩu.
Tuy nhiên, bên cạn đó, các nớc đều đẩy mạnh biện pháp kiểm tra sau thông
quan đối với hàng hoá nhập khẩu và áp dụng các hiện pháp xử phạt vi phạm
rất nghiêm ngặt nhằm mục đích giáo dục, răn đe các đối tợng phải thực hiện
tốt các quy định của Nhà nớc liên quan đến quản lý hoạt động nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu phục vụ chính sách tự do thơng mại, nhng để thành
công trên con đờng hội nhập, yêu cầu cơ bản có tính quyết định là khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nÒn kinh tÕ.

25


×