Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu hải hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352 KB, 65 trang )

Danh mục các chữ viết tắt
AFTA _ Asean Free Trade Area _ Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
APEC_ Asia- Pacific Economic Cooperation _ Hội nghị hợp tác kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương
HS_ Harmonized System _ Hệ thống hài hoà về mã và miêu tả hàng hoá
WTO_ World trade Organization _Tổ chức thương mại quốc tế
GSP_ Generalised System of Preferenc e_Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
EU_ Euro Union _ Liên minh châu âu
FDI _ Forgein Direct Invesment_ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
NAFTA _ North American Free Trade Area _ Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ
PNTR _ Permament Normal Trade Relations _ Qui chế thương mại bình thường
vĩnh viễn
BTA _ Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ
GDP _ Gross Domestic Product_ Tổng thu nhập quốc nội

1
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của chuyên đề: “Hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ
phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng”
Khi xu thế hội nhập với khu vực và thế giới diễn ra ngày càng nhanh và qui mô
ngày càng rộng, Việt Nam một quốc gia đang phát triển đã có những bước tiến đáng
kể đặc biệt trong hoạt động thương mại quốc tế để tự khẳng định mình và tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá của thế giới. Trong quá trình ấy đòi hỏi mỗi quốc gia phải
không ngừng khai thác những lợi thế vốn có của mình để cạnh tranh với các quốc gia
khác.
Đối với Việt Nam một đất nước còn nghèo lại thiếu vốn cũng như khoa học công
nghệ, trong khi đó lao động chưa chó trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, trình độ quản
lý còn yếu. Ở giai đoạn hiện nay, để có thể tham gia vào thương mại quốc tế thì nước
ta chủ yếu tiến hành những ngành sản xuất tận dụng được lợi thế có nguồn lao động
dồi dào, đầu tư vốn ít, quay vòng vốn nhanh, tích cực thu hút đầu tư FDI để tiếp thu
công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý, đó là những ngành như chế biến thuỷ sản,


dệt may, giầy dép…
Trong đó, ngành Da- Giầy là một trong những ngành đang được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, cũng như các doanh nghiệp. Bởi đây là một ngành sản xuất hàng
tiêu dùng đem lại hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và
đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu của đất nước.
Nhưng trên thực tế do việc tìm đầu ra cho sản phẩm còn yếu cùng với sự lạc hậu
về kỹ thuật nên hầu hết các doanh nghiệp giầy Việt Nam vẫn đang hoạt động ở hình
thức gia công xuất khẩu là chủ yếu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu để hoàn

2
thiện hơn hoạt động gia công sau đó chuyển nhanh sang thành hoạt động xuất khẩu
trực tiếp đang là một yêu cầu cấp thiết với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần
vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng, một doanh nghiệp hiện đang hoạt động theo
mô hình gia công xuất khẩu để có thể nắm bắt những ưu điểm của hoạt động này mang
lại cho công ty nói riêng và những doanh nghiệp hoạt động theo mô hình này nói
chung. Đồng thời qua đó cũng thấy được hạn chế khi duy trì tiếp phương thức gia
công từ đó tìm ra những biện pháp để có thể góp phần hoàn thiện hoạt động gia công
xuất khẩu lớn mạnh tạo đà bước sang sản xuất xuất khẩu .
3. Đối tượng_phạm vi_phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoàn thiện hoạt động gia công xuất khẩu
Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề “ Hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ
phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng” chỉ đi sâu vào nghiên cứu hoạt động gia
công xuất khẩu. Đây là một bộ phận nhỏ của hoạt động thương mại quốc tế và là hình
thức đang được sủ dụng nhiều tại các công ty có qui mô nhỏ ở Việt Nam. Ngành nghề
được nghiên cứu ở đây là ngành Da- Giầy, là một ngành có đóng góp đáng kể vào
GDP hiện nay. Các biện pháp đưa ra nhằm hoàn thiện cho công ty cổ phần vật tư và
giầy dép xuất khẩu Hải Hưng cũng như những công ty có phương thức kinh doanh
tương tự.

Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp điều tra thu thập thông tin,
phỏng vấn trực tiếp, thống kê, phân tích tổng hợp để đưa ra các kết luận và các nhận
xét.
4. Ý nghĩa chuyên đề
Chuyên đề nghiên cứu về một hoạt động đang được áp dụng khá phổ biến trong
hầu hết các doanh nghiệp sản xuất Da- Giầy hiện nay. Do vậy nó có ý nghĩa trong việc
cung cấp những giải pháp giúp công ty có thể áp dụng trong quá trình sản xuất kinh

3
doanh, và đây cũng là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên những người muốn tìm
hiểu về hoạt động gia công xuất khẩu.
5. Kết cấu của chuyên đề
Chuyên đề có kết cấu gồm 3 phần:
Chương1. Lý luận chung về hoạt động gia công xuất khẩu của các ngành Da-
Giầy trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư
và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện hoạt động
gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng

4
Chương 1. Lý luận chung về hoạt động gia công xuất khẩu của ngành Da- Giầy
trong tiến trình hội nhập
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Khi xu thế hội nhập đang ngày càng trở nên phổ biến thì không có một lý do gì
mà một quốc gia lại đứng ngoài sân chơi đó. Việc hàng loạt các hiệp định song phương
đa phương đã được ký kết, cùng với việc mở rộng phạm vi của các liên kết quốc tế đã
cho thấy không khí sôi động của quá trình hội nhập. Và khi các quốc gia xoá nhoà dần
biên giới tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giao thương thì làm cho kinh tế toàn cầu tăng
trưởng. Đánh giá về tình hình kinh tế thế giới năm 2005, các tổ chức kinh tế quốc tế

đều thống nhất nhận định: mặc dù bị ảnh hưởng của giá dầu mỏ tăng cao kỷ lục, thiên
tai, lãi suất tăng và tình trạng mất cân đối về thương mại toàn cầu…song kinh tế thế
giới vẫn tiếp tục đà tăng trưởng đặc biệt trong những tháng cuối năm. Đó là do các
quốc gia trên thế giới đều hiểu muốn tăng trưởng phải tham gia vào tiến trình hội nhập,
nhận thức được điều này các quốc gia luôn đẩy mạnh hoạt động ngoại giao để có thế
gia nhập các tổ chức như WTO, APEC hay các liên kết khu vực như NAFTA, AFTA…
về cơ bản cuối cùng cũng để phát triển hoạt động thương mại và đầu tư của nước mình.
Xét riêng về hoạt động thương mại quốc tế khi các quốc gia giảm bớt các rảo cản
thương mại kỹ thuật, tạo điều kiện về thủ tục hành chính cũng như ưu đãi về thuế sẽ
làm cho thương mại phát triển theo xu hướng hợp tác. Vậy có phải chỉ những nước
mạnh có tiềm lực về kinh tế có thể tạo được thuận lợi cho các quốc gia khác thì mới
tham gia được vào quá trình hội nhập đó? Thực tế đã chỉ ra tất cả các quốc gia đều có
thể tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá do mỗi quốc gia đều có lợi thế tương đối riêng
của mình.
Gia công xuất khẩu là một ví dụ điển hình cho thấy các quốc gia đang phát triển
cũng có thể tham gia vào tiến trình hội nhập chung của thế giới. Khi các nước mạnh
giàu có về tài chính cũng như có trình độ khoa học công nghệ cao có thể dễ dàng thu

5
hút đầu tư cho phát triển sản xuất ngành công nghệ cao, thì những ngành sản xuất hàng
tiêu dùng hàng sinh hoạt sẽ được chuyển dần sang những nước phát triển ở mức độ
thấp hơn. Những nước này có lợi thế tương đối về nguồn lao động còn yếu về trình độ
cũng như năng lực chuyên môn nhưng lại có giá rẻ. Chính vì thế, những công việc
không đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao như dệt may, giầy da…là những công việc rất
phù hợp. Bên cạnh vấn đề việc làm thì đây là cơ hội cho các quốc gia này có thể tiếp
cận với môi trường kinh doanh quốc tế. Thông qua hình thức liên doanh liên kết với
các đối tác bên nước ngoài qua đó có thể học hỏi được kinh nghiệm trong tìm thị
trường tiêu thụ cũng như thị trường nguyên liệu cho sản xuất. Từ đó sau khi tham gia
gia công xuất khẩu trong một thời gian nhất định, khi đã có đủ tiềm lực các doanh
nghiệp nhân gia công thuê có thể tự đứng gia tham gia vào quá trình kinh doanh quốc

tế.
1.2. Hoạt động gia công xuất khẩu và vai trò của hoạt động gia công xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm
Gia công là hoạt động theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ
nguyên vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá
trình sản xuất. Khi hoạt động gia công vượt khỏi phạm vi quốc gia thì được gọi là gia
công quốc tế.
Gia công quốc tế là biến lao động tại chỗ thành nguồn thu ngoại tệ, đưa các yếu tố
sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng hoá, nhưng
không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ do tiền công (phí gia
công) đem lại. Vì vậy suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu lao
động, nhưng là lao động dưới dạng sử dụng (được thể hiện trong hàng hoá), chứ không
phải là xuất khẩu công nhân ra nước ngoài.
Gia công quốc tế nảy sinh do sự phát triển kinh tế của các nước không đồng đều,
bên cạnh các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, khoa học kỹ thuật phát triển, thu nhập
bình quân đầu người cao, cũng còn nhiều nước nghèo chậm phát triển, thu nhập bình

6
quân đầu người thấp nên hình thức gia công xuất khẩu được sử dụng rộng rãi. Hoạt
động gia công xuất khẩu nảy sinh từ nhu cầu của hai bên. Một bên cần lao động với
tiền lương thấp, một bên có sẵn lao động giá rẻ nhưng lại thiếu vốn, thiếu công nghệ kỹ
thuật, chưa có thị trường tiêu thụ. Vì vậy, có xu hướng chuyển dịch việc sản xuất
những mặt hàng cần nhiều lao động từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển.
1.2.2. Đặc điểm, vai trò hoạt động gia công xuất khẩu
Hoạt động gia công xuất khẩu có 4 đặc điểm chủ yếu sau:
Có sự xuất hiện của các nguyên vật liệu được nhập khẩu từ nước ngoài về, nước
nhận gia công có thể nhận cả máy móc, thiết bị, công nghệ, nước đặt gia công có thể
gửi kỹ thuật viên, chuyên gia sang kiểm tra giám sát.
Hàng hoá sản xuất ra để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu không dùng cho tiêu

dùng nội địa, như vậy gia công xuất khẩu gắn liền với việc xuất và nhập khẩu hàng
hoá.
Việc sản xuất hàng hoá phải theo đơn đặt hàng của bên đặt gia công. Bên nhận gia
công phải tuân theo yêu cầu của bên đặt gia công về chủng loại, số lượng, kiểu dáng,
mẫu mã, kích thước, chất lượng sản phẩm một cách nghiêm ngặt.
Lợi nhuận của gia công xuất khẩu chính là tiền công sau khi trừ đi các chi phí gia
công.
Vai trò của hoạt động gia công xuất khẩu:
Đối với bên đặt gia công: Việc thuê nước ngoài gia công cho mình có thể tìm
kiếm được nguồn lao động giá rẻ cho sản xuất thay thế cho nguồn lao động giá cao
trong nước, có thể phát triển được sản xuất, thu được lợi nhuận, chuyển giao được công
nghệ sang các nước kém phát triển.
Đối với các nước nhận gia công: Nhận gia công thuê cho nước ngoài trước hết
giải quyết được vấn đề việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động phổ thông
giúp giảm bớt vấn đề thất nghiệp. Bên cạnh đó các nước này có thể tiếp thu được kinh

7
nghiệm trong sản xuất cũng như việc tiếp cận thị trường, là bước đầu giúp các doanh
nghiệp còn chưa đủ điều kiện tiến hành sản xuất xuất khẩu.
1.2.3. Những hình thức gia công xuất khẩu
Gia công quốc tế là một hoạt động của thương mại quốc tế, căn cứ vào một số tiêu
thức nhất định mà người ta phân ra làm nhiều hình thức gia công khác nhau, thông
thường người ta lấy công đoạn sản xuất làm căn cứ chính.
Theo công đoạn sản xuất người ta chia gia công quốc tế thành 3 hình thức:
Một là, gia công chi tiết: Bên nhận gia công sẽ gia công một chi tiết sản phẩm mà
bên đặt gia công yêu cầu. Bên đặt gia công sẽ là bên giao nguyên liệu và mẫu chi tiết,
sau đó nhận chi tiết hoàn thành từ phía nhận gia công.
Hai là, gia công hoàn chỉnh sản phẩm: Bên nhận gia công nhận nguyên liệu
chính, phụ (nếu có) và tiến hành từ công đoạn đầu tiên đến công đoạn cuối cùng để tạo
sản phẩm hoàn chỉnh, sau đó đóng gói, kẻ ký hiệu mã (nếu có) rồi chuyển giao cho bên

đặt gia công, theo hợp đồng đặt gia công. Hình thức này áp dụng với hàng hoá thông
dụng, không phải là mũi nhọn hiện thời của bên đặt gia công và bên nhận gia công có
đầy đủ năng lực để hoàn chỉnh sản phẩm.
Ba là, gia công đảm nhận công đoạn: Bên nhận gia công sẽ gia công một phần sản
phẩm cho bên đặt gia công (có thể là công đoạn còn lại của sản phẩm, hoặc một phần
công đoạn trong quá trình chế tạo sản phẩm). Sau khi hoàn thành các công đoạn cần
gia công, bên nhận gia công sẽ giao lại các sản phẩm cho bên đặt gia công. Hình thức
này thường áp dụng với những hàng hoá mà bên nhận gia công không có khả năng đảm
nhận sản xuất toàn bộ sản phẩm hoặc tên sản phẩm gắn liền với danh tiếng của công ty
đặt gia công. Đây là hình thức khai thác triệt để lợi thế của bên đặt gia công về nhập
khẩu sản xuất, giá lao động rẻ, trình độ tay nghề đủ để gia công tốt phần công đoạn đó.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động gia công xuất khẩu
Là một bộ phận của thương mại quốc tế hoạt động gia công xuất khẩu chịu tác
động của rất nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố vĩ mô như môi trường sản xuất kinh

8
doanh của các doanh nghiệp đến những yếu tố vi mô đó là nội bộ sản xuất của công ty,
không chỉ là những tác động của môi trường nội địa mà còn có tác động của các quốc
gia khác trên thế giới.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Môi trường doanh nghiệp được hiểu là tổng hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội,
chính trị kinh tế, tổ chức và kỹ thuật, các tác động, các mối liên kết diễn ra bên trong
bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Môi trường đó bao gồm cộng đồng các doanh nghiệp có các mối liên hệ với nhau và
các mối liên hệ này phải được giải quyết theo những quan điểm truyền thống của một
quốc gia, một cộng đồng người. Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong một môi trường kinh
doanh nhất định và chịu sự tác động của môi trường kinh doanh đó. Tuy nhiên, khi
phát triển đến một mức độ nào đó thì doanh nghiệp tác động trở lại môi trường kinh
doanh.
Hoạt động gia công quốc tế là một bộ phận của thương mại quốc tế. Chính vì vậy

môi trường kinh doanh ở đây không đơn giản là trong nội bộ một quốc gia mà lớn hơn
nó chịu tác động của nhiều yếu tố như khác biệt về luật pháp, văn hoá, tập quán kinh
doanh…Trong đó hai yếu tố công nghệ và pháp luật là hai yếu tố tác động nhiều nhất
đến hoạt động này. Những quốc gia có công nghệ cao thường là những nước đặt gia
công và là những nước chủ động tìm được thị trường do vậy mà thường nhận được
khoản lợi nhuận lớn hơn, ngược lại những nước nhận gia công thường là những nước
có trình độ công nghệ kém hơn chỉ tiến hành nhập nguyên liệu và sản xuất theo các
mẫu đơn đặt hàng có sẵn chính vì vậy mà chỉ được hưởng một khoản phí gia công theo
một tỷ lệ nhất định thường là rất thấp.
Các yếu tố khác như chính trị như các chủ trương đường lối chính sách của Đảng
và nhà nước các qui định về thuế, về hải quan…đều tác động đến hoạt động này. Ví dụ
như qui định về thủ tục hải quan mà đơn giản thì sẽ khiến các doanh nghiệp nước ngoài
có thể dễ dàng hơn trong việc chuyển nguyên liệu sang hay nhập hàng về vì vậy thúc

9
đẩy hoạt động gia công phát triển. Những thủ tục hành chính phức tạp hay chính sách
không thông thoáng để khuyến khích các nhà đặt gia công sẽ làm giảm số lượng đơn
hàng. Yếu tố văn hoá gồm những yếu tố như : nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, thói
quen, phong tục…thường thì tác động nhiều hơn đến bên đặt gia công vì họ thường là
bên nghiên cứu về các loại kiểu dáng, mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu
dùng. Do vậy, bên nhận gia công chỉ bị ảnh hưởng gián tiếp.
Các nhân tố thuộc nội bộ công ty
Nếu các nhân tố bên ngoài công ty quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp thì các
nhân tố bên trong quyết định tiềm lực của doanh nghiệp đó. Nó quyết định đến khả
năng chịu rủi ro cũng như khả năng nắm bắt các cơ hội trong kinh doanh đặc biệt là
kinh doanh xuất khẩu. Các nhân tố này bao gồm: Năng lực sản xuất và trình độ công
nghệ, tình hình nhân sự, tình hình Marketing, tình hình tài chính.
Năng lực sản xuất và trình độ công nghệ : Đây là điều kiện để công ty gia công có
thể có được chi phí rẻ hơn, tăng lợi nhuận và tăng qui mô sản xuất. Nếu một công ty có
dây chuyền sản xuất hiện đại có khả năng tăng năng xuất thì sẽ tạo được ra nhiều việc

làm hơn cho công nhân đem về nguồn lợi nhuận lớn hơn do vậy tăng sức mạnh cho
công ty là điều kiện để công ty có thể chuyển tiếp sang xuất khẩu trực tiếp.
Tình hình nhân lực: Phản ánh thực tế về số lượng cũng như trình độ của cán bộ
công nhân viên của công ty. Hiệu quả của công việc tốt hay không thì cần phải xem
xem người tiến hành công việc đó như thế nào. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh
buôn bán xuất nhập khẩu thì nhân lực còn phải cần những người thực sự có trình độ,
kinh nghiệm trong việc ký kết các hợp đồng giao dịch. Việc nhận gia công tuy ít đòi
hỏi đến khả năng trên nhưng nếu nước nhận gia công mà không tiếp tục tiếp cận và học
hỏi thì sẽ mãi mãi ở vị trí của nước nhận gia công thuê cho nước ngoài, và cũng khó
nhận được những hợp đồng đặt hàng. Có thể nói yếu tố nhân lực là yếu tố đánh gía sự
năng động của một doanh nghiệp.

10
Tình hình Marketing: Ngày nay khi một doanh nghiệp bắt tay vào kinh doanh
luôn luôn có ý thức phải gắn kinh doanh của doanh nghiệp mình với thị trường. Bên
cạnh những yếu tố như nhân lực, tài chính, quản lý sản xuất thì chức năng Marketing là
một chức năng không thể tách rời bởi nó là chức năng kết nối hoạt động của doanh
nghiệp với thị trường. Trong hoạt động gia công , bên đặt gia công thường là bên chú
trọng nhiều hơn đến hoạt động này, tuy vậy bên nhận gia công cũng phải chú trọng vì
nếu không liên kết tốt với thị trường thì khó nhận được nhiều đơn hàng dành cho sản
xuất. Do vậy, doanh nghiệp đặt hàng luôn phải nghiên cứu xem nhu cầu của người tiêu
dùng là gì để có chiến lược sản phẩm cụ thể còn bên nhận gia công thì nghiên cứu cùng
công nghệ đó mình có thể đáp ứng được cho sản xuất của đối tác nào để tiến hành đàm
phán ký kết hợp đồng nhận gia công.
Tình hình tài chính: Được phản ánh qua các chỉ số doanh thu, lợi nhuận, tài sản…
là nhân tố phản ánh thực lực của doanh nghiệp. Nếu tài chính của doanh nghiệp đủ
mạnh sẽ có thể đầu tư tốt hơn cho dây chuyền công nghệ để sản xuất, sẽ có điều kiện
tạo mức sống tốt hơn cho lao động, đồng thời cũng tạo được niềm tin cho phía đối tác
khi tiến hành ký kết các hợp đồng.
1.3. Vị trí ngành Da- Giầy trong nền kinh tế quốc dân

1.3.1. Vị trí ngành Da- Giầy trong nền kinh tế
Trong giai đoạn hiện nay ngành Da- Giầy có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Đặc điểm của ngành là sử dụng nhiều lao động, khai thác nguồn nguyên liệu
trong nước, có lợi thế xuất khẩu và thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Hơn nữa đây
lại là ngành công nghiệp nhẹ có tỷ suất đầu tư vốn ít khả năng quay vòng vốn nhanh,
công nghệ không phải đầu tư quá nhiều nên có thể tạo tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế.
Nước ta mới trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập muốn phát triển kinh tế mà
tiềm lực còn chưa mạnh để phát triển những ngành công nghiệp cao ngay lập tức thì
Da- Giầy với những ngành Dệt may, Thuỷ sản là những ngành cần phát triển với

11
phương châm lấy ngắn nuôi dài, vừa chạy tắt vừa đón đầu. Có như vậy mới có thể
nhanh chóng phát triển kinh tế đất nước.
Hoạt động gia công xuất khẩu chỉ là một hoạt động nhỏ trong các hoạt động
thương mại quốc tế, tuy vậy những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì đây lại
là hoạt động có ý nghĩa khá quan trọng. Những ngành như may mặc hay da- giầy của
nước ta là những ngành có đóng góp không nhỏ vào GDP nhưng chủ yếu đang hoạt
động theo hình thức gia công xuất khẩu. Hiện có một số doanh nghiệp có ty đã có một
số công ty có thương hiệu như công ty Giầy Thượng Đình, Thuỵ khuê, Giầy Hà Nội…
nhưng mới chỉ gây dựng được thương hiệu trong nước, chưa khẳng định được vị tri của
mình trên thế giới. Ta vẫn sản xuất ra hàng hoá xuất đi nước ngoài nhưng với nhãn
hiệu là của các nước khác. Trước hết, tình hình đó phản ánh tình trạng Việt Nam chưa
có được hình ảnh trong con mắt của thị trường quốc tế, chưa có được uy tín để đối tác
tự tìm đến ta ký kết các hợp đồng bởi họ chưa có sự tin tưởng vào chất lượng cũng như
khả năng cung ứng hàng hoá của ta. Do vậy, hình thức gia công là hình thức được các
nước này lựa chọn khi tham gia kinh doanh với ta. Hiện tại, hình thức này tuy giá trị
kinh tế đem lại chưa thực sự cao như tự sản xuất xuất khẩu nhưng nó góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế- chính trị của đất nước.
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu giầy dép của toàn ngành Da - Giầy
VN năm 2006 đạt 3,59 tỷ USD tăng 20% so với năm 2005 với sản lượng xuất khẩu 579

triệu đôi giầy dép các loại. Túi cặp xuất khẩu đạt trị giá 503 triệu USD tăng 7 % so với
năm 2005.
Giầy thể thao vẫn là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt nam với 381 triệu đôi,
trị giá 2,63 tỷ USD chiếm 73 % tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành, giầy nữ với
số lượng 87 triệu đôi đạt trị giá 538 triệu USD chiếm gần 15% . Giầy vải vẫn tiếp tục
được duy trì , đặc biệt các loại giầy vải cao cấp thêu, in nổi và các loại giầy vải có mũ
từ da được nhiều khách hàng quan tâm. Năm 2006 đạt 25 triệu đôi, trị giá 217 triệu
USD chiếm 6,4 % tổng kim ngạch. Tuy số lượng giầy vải không tăng so với 2005 song

12
giá trị XK lại lớn hơn, điều đó cho thấy DN Việt nam đã XK giầy vải cao cấp thay thế
các loại giầy vải thấp cấp như trước đây. Các loại khác như: dép đi trong nhà, sandal,
dép đi biển đạt 75 triệu đôi, trị giá 202 triệu USD chiếm 5,6% tổng kim ngạch XK.
Đến hết năm 2006, toàn ngành đã trang bị trên 750 dây chuyền đồng bộ sản xuất
các loại giầy dép hoàn chỉnh với công suất 715 triệu đôi/năm.
Cụ thể vị trí ngành Da- Giầy Việt Nam được khẳng định qua sự đóng góp của
ngành vào tổng kim ngạch xuất khẩu.
Biểu đồ 01. Tỷ trọng ngành Da- Giầy Việt Nam trong Tổng kim ngạch
xuất khẩu năm 2006

1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành Da- Giầy
Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu dùng Da- Giầy:
Những nhân tố ảnh hưởng đến tiêu dùng giầy dép là: Giá bán, mức thu nhập bình
quân đầu người, uy tín sản phẩm, kiểu dáng chất lượng…Có thể thấy giầy dép là một
sản phẩm tiêu dùng thiết yếu nhưng cũng là một sản phẩm thời trang cho nên tuỳ vào

13
từng loại có kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng khác nhau mà giá bán của sản phẩm đó
khác nhau. Từ đó ảnh hưởng đến tâm lý và phân tầng người tiêu dùng. Những người có
thu nhập cao sẽ lựa chọn những sản phẩm có chất lượng tốt giá cao còn những người

có thu nhập thấp sẽ lựa chọn những sản phẩm có giá cả vừa phải. Nếu xem xét tiêu
dùng ra thị trường nước ngoài thì yếu tố uy tín nhãn hiệu hay có thể gọi là thương hiệu
và quan hệ thương mại là hai yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất
Sản xuất chịu tác động của rất nhiều yếu tố nhưng nổi bật nên các yếu tố: vốn,
công nghệ, và lao động. Ở nước ta do chủ yếu sản xuất theo mô hình gia công là chính
và chưa chủ động được nguồn nguyên liệu do vậy yếu tố nguyên liệu tác động không
nhiều nhưng trong tương lai khi chuyển sang tự sản xuất thì đây lại là một yếu tố quan
trọng. Vốn với ngành Giầy dép không đòi hỏi nhiều nhưng phải đủ cho quay vòng sản
xuất.Công nghệ cao hay thấp ảnh hưởng đến năng suất lao động ảnh hưởng sự phát
triển của ngành. Lao động không đòi hỏi tinh xảo khéo léo và thời gian đào tạo dài.
1.4. Một số thị trường Da- Giầy của Việt Nam trên thế giới
1.4.1. Thị trường Mỹ
Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển lớn nhất và cùng là nước tiêu dùng lớn nhất
trên thế giới. Đối với giầy dép một năm người dân Mỹ tiêu dùng 35 tỉ USD trong đo
35% là giầy thể thao, lượng tiêu thụ 7 đôi/người/năm. Nhưng do giá nhân công ở Mỹ
quá cao và chủ yếu 80% dân só Mỹ hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ vì vậy giầy dép
chủ yếu trên thị trường này là nhập nhập khẩu. Trong đó 76% là dép nam và 90% dép
nữ. Năm 2002 Mỹ nhập 1.898 triệu đôi (15,079tỷ USD) đến năm 2003 tăng 2 tỷ đôi
năm 2004 là 2,124 triệu đôi đến năm 2006 tăng lên 2.478 triệu đôi, tăng trưởng bình
quân đạt 4% năm. Sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Việt Nam tiếp tục gia
tăng với kim ngạch XK năm 2006 đạt 802 triệu USD tăng 30% so với năm 2005, chủ
yếu do các công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh, một vài công ty lớn của Việt
Nam gia công xuất khẩu những thương hiệu lớn như NIKE, Addidas, Rebook…và XK

14
qua hệ thống kênh phân phối chính của Mỹ, một số các DN có quy mô nhỏ tự sản xuất
mẫu mã và chào hàng trực tiếp tới các nhà nhập khẩu qua các hội chợ triển lãm tại Mỹ
hiện đang bước đầu triển khai song kết quả vẫn còn rất hạn chế. Các sản phẩm xuất
khẩu chính vào thị trường này là giầy thể thao, giầy da nam nữ, dép đi trong nhà, dép

đi biển. v.v Năm 2005, Việt Nam chỉ giữ ở vị trí thứ 4, cách xa vị trí thứ 3 của Braxin
trong bảng xếp hạng các nước đạt kim ngạch xuất khẩu giày dép lớn nhất sang Mỹ. Với
mức tăng 34,4% về kim ngạch trong 9 tháng năm 2006, Việt Nam vượt qua Braxin
dành vị trí thứ 3, đạt kim ngạch 726 triệu USD. Nhiều chuyên gia dự báo, hết năm
2007, Việt Nam sẽ đứng ở vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng, chỉ sau Trung Quốc
Biểu đồ 02. Các nước xuất khẩu giầy vào thị trường Mỹ
Người tiêu dùng Mỹ không khó tính, sử dụng nhiều chủng loại giầy dép khác
nhau với yêu cầu tiện lợi thời trang và có độ bền cao nhưng ưa giảm giá. Hiện Việt
Nam là một quốc gia xuất khẩu Giầy dép khá lớn vào thị trường Mỹ đặc biệt kể từ khi
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký kết và khi Mỹ thông qua PNTR cho Việt Nam
thì kim ngạch buôn bán hai nước tăng lên đáng kể. Trong tương lai đây là một thị
trường tiềm năng lớn của ngành giầy da Việt Nam bởi Việt Nam mới chỉ chiếm
khoảng 2% thị phần nhập khẩu giầy của Mỹ.

15
1.4.2. Thị trường EU
Eu là cộng đồng kinh tế do 6 nước thành viên ban đầu sáng lập ra sau đó tăng lên
thành 15 nước đến tháng 5 năm 2004 thì EU mở rộng ra thành 25 nước. Đây là thị
trường tiêu thụ đồ da lớn nhất trên thế giới chiếm 30% lượng giầy dép xuất khẩu toàn
cầu. Người tiêu dùng EU tiêu thụ 1,6 tỷ đôi giầy dép các loại hàng năm, bình quân 4,3
đôi một người một năm. Trong đó thị trường nội địa cung ứng được khoảng 30% còn
lại nhập khẩu. Trung Quốc là nước xuất khẩu giầy dép lớn nhất vào EU chiếm 46,9%
về lượng và 28,3% về giá trị. Việt Nam chiếm 19,6% về lượng và 28,3% về giá trị.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt nam dẫn đầu vẫn là các nước EU, trước đây
xuất khẩu giầy dép của Việt nam vào thị trường này chiếm hơn 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả ngành. Nhưng sang đến năm 2006 mặc dù tổng lượng xuất khẩu của
ngành sang EU có tăng nhưng chỉ chiếm 50% tổng kim ngạch của ngành Da- giầy do
ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá với giầy dép có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường
này.Tuy nhiên, sau khi có phán quyết cuối cùng của liên minh Châu âu là áp thuế
chống bán phá giá 10% đối với giầy mũ da xuất xứ Việt nam trong khi Trung quốc

chịu mức 16,5% thì tình hình xuất khẩu đã dần ổn định, khách hang đã quay trở lại
Việt nam để đặt hang vì vậy kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2006 vẫn đạt chỉ
tiêu như kế hoạch đề ra.
Bảng 01. Lượng giầy của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU
qua các năm
ĐVT: 1000 đôi
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Lượng giầy Việt Nam
xuất khẩu sang EU
qua các năm
217.044 234.700 264.421 268.701 294.212 329.517 461.324
Nguồn: Shoeinfonet.com

16
Theo bảng số liệu ta có thể thấy lượng giầy dép xuất khẩu giầy của Việt Nam
sang EU có xu hướng liên tục tăng với tốc độ bình quân đạt 1,1% đặc biệt từ sau năm
2004 thì tốc độ tăng cao hơn hẳn. Năm 2000 lượng giầy xuất khẩu đạt 217.044 nghìn
đôi nhưng đến năm 2006 thì đã đạt 461.321 nghìn đôi tăng gấp 2,12 lần.
Biểu đồ 03. Lượng giầy xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đến
năm 2006

Tuy nhiên sự gia tăng còn ở mức độ chậm chưa có sự đột biến cho nên các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải đẩy mạnh việc thâm nhập vào thị trường này nhiều hơn nữa.
Anh và Đức là thị trường phổ biến tiêu thụ nhiều giầy dép nhất. Khách hàng ở thị
trường này đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang nhiều khi yếu tố thời trang
còn quan trọng hơn giá cả. Khác với thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ giầy thể thao
lớn thì thị trường EU lại có xu hướng tiêu dùng giầy vải. Xu hướng này ngày càng tăng
và tỉ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng giầy dép hàng năm ở EU. Thị hiếu của người tiêu
dùng Eu luôn thay đổi, đặc biệt là về mẫu mốt. Và một điều quan trọng là người dân
EU thích tiêu dùng những hàng đã có thương hiệu. Hiện các nước Hàn Quốc, Đài Loan

là những nước nhập khẩu giầy dép của Việt Nam rồi tái xuất sang EU, hay nói cách
khác Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gián tiếp sang EU. Do vậy, các doanh nghiệp Việt

217.004
234.7
264.421
268.701
294.212
329.517
461.324
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
17
Nam nói riêng và doanh nghiệp sản xuất giầy cần chú trọng nâng cao chất lượng sản
phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực
tiếp thị, tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang EU, chủ động tìm kiếm đối tác
và bạn hàng.
1.4.3. Thị trường Nhật Bản
Với dân số trên 130 triệu dân và thu nhập bình quân đầu người cao hàng năm
Nhật Bản nhập một số lượng giầy dép khá lớn khoảng 350 triệu đôi, trung bình 3 đôi/

người/ năm. Giá lao động rất cao nên hầu như việc sản xuất giầy dép ở Nhật được dịch
chuyển sang các quốc gia Đông Á lân cận. Năm 2000 Nhật Bản nhập 15.469 triệu đôi,
năm 2001 nhập 16.331 triệu đôi, năm 2002 nhập 16.885 triệu đôi đến 2006 nhập 18468
triệu đôi. Đây là thị trường có nhiều tiềm năng vì thị phần của Việt Nam tại đây rất
thấp. Đứng đầu là Trung Quốc chiếm 68,7% thị phần nhưng giá trị kim ngạch thì chỉ
đạt ½ kim ngạch của Ý do Trung Quốc theo đuổi chiến lược giá rẻ. Đây là thị trường
khá khó tính yêu cầu chất lượng, chủng loại, màu sắc, chất liệu, sinh thái và nhiều ràng
buộc khác. Nhưng khi giầy dép Việt Nam đã thâm nhập được vào thì khả năng phát
triển rất cao. Thị trường Nhật với thị phần xuất khẩu chiếm hơn 3% vào năm 2006 vẫn
duy trì ở mức như những năm trước đây, các đối tác Nhật đang có xu hướng tìm kiếm
các đối tác thuộc da và sản xuất giầy tại Việt nam.
1.4.4. Một số thị trường khác
Đài Loan, Hồng Kông , Hàn Quốc và một số nước như Thái Lan, Malaysia…đầu
năm 90 đã có sự chuyển dịch ngành Da- Giầy sang Việt Nam và một số nước lân cậ.
Những nước này trở thành thị trường tiêu thụ là cầu nối giữa các nước Việt Nam,
Indonexia sang các nước Mỹ, EU, Nhật Bản. Những nước này, trước kia cũng sản xuất
để xuất khẩu nhưng khi kinh tế phát triển đã trở thành những nhà tiêu dùng trung gian,
hiện hầu hết đều thuê nước ngoài gia công sản xuất và phát triển theo những xu hướng
mới như Đài Loan trở thành trung tâm thiết kế mẫu mốt của châu Á nhất là giầy nữ.
Hàn Quốc phát triển mạnh về kiểu dáng giầy thể thao. Việt Nam hiện đang là đối tác

18
gia công thuê cho những nước này. Thông qua việc gia công thuê Việt Nam có thể tiếp
cận được với cách sản xuất, thiết kế và kinh nghiệm trong tiếp cận thị trường từ đó tiến
hành sản xuất xuất khẩu trực tiếp.

19
Chương 2. Thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và
giầy dép xuất khẩu Hải Hưng
2.1. Tổng quan về công ty

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng (Trước khi cổ phần hoá là
công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng), được thành lập ngày 15/12/1968. Lúc đầu công ty
có tên gọi là chi cục vật tư Hải Hưng trực thuộc Tổng cục vật tư với 150 cán bộ công
nhân viên. Nhiệm vụ chính của công ty là cung ứng thường xuyên, có kế hoạch vật tư
kỹ thuật cho các đơn vị sản xuất trong và ngoài tỉnh. Năm 1971 Chi cục vật tư Hải
Hưng đổi tên thành công ty vật tư kỹ thuật Hải Hưng bao gồm 6 phòng ban, 5 cửa hàng
và 5 trạm cung ứng vật tư nhằm phân phối kinh doanh, cung ứng vật tư kỹ thuật được
Bộ vật tư cung cấp cho các đơn vị sản xuất đông thời làm nhiệm vụ hạch toán kinh tế,
quản lý vật tư tài sản và lao động để phục vụ đầy đủ kịp thời và kinh tế nhất cho sản
xuất.
Năm 1980 Công ty vật tư trực thuộc liên hiệp cung ứng vật tư khu vực III Bộ vật
tư . Năm 1985 Bộ vật tư giải thể liên hiệp cung ứng vật tư khu vực III , công ty kỹ
thuật Hải Hưng trực thuộc Bộ vật tư.
Năm 1991 do sát nhập 3 Bộ: Vật tư, Ngoại thương, Thương nghiệp, công ty vật tư
tổng hợp Hải Hưng trực thuộc Bộ thương Nghiệp.
Năm 1992 Bộ thương nghiệp đổi tên thành Bộ thương mại và công ty cổ phần vật
tư Hải Hưng trực thuộc Bộ thương mại.
Năm 1986 cùng với việc chuyển đổi sang cơ chế quản lý kinh tế mới, công ty đổi
tên thành công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng. Lúc này công ty chuyển đổi sang cơ chế
quản lý từ cung ứng, phân phối theo kế hoạch vật tư kỹ thuật sang tự chủ hạch toán sản
xuất kinh doanh với chức năng chính là :

20
 Chủ động khai thác thị trường vật tư hàng hoá kim khí cung ứng đầy đủ
kịp thời nhu cầu cho sản xuất, xây dựng đời sống xã hội, đảm bảo yêu cầu về chất
lượng, số lượng, chủng loại.
 Chủ động hạch toán kinh doanh đảm bảo yêu cầu bảo toàn và phát triển
vốn kinh doanh có lãi, nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước, đảm bảo việc làm
và đời sống cho cán bộ công nhân viên.

 Tham gia vào ổn định giá cả vật tư kim khí trên thị trường, góp phần ổn
định tình hình kinh tế- chính trị- xã hội, tổ chức quản lý và an toàn tài sản, vật tư tiền
vốn lao động.
Năm 1994 Công ty ký hợp đồng với đối tác nước ngoài là Hàn Quốc tiến hành sản
xuất kinh doanh giầy vải phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đến năm 1997
do khủng hoảng tài chính mà đối tác nước ngoài phá sản làm cho công ty gặp rất nhiều
khó khăn, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, hàng trăm cán bộ công nhân viên công
ty đã quyết tâm chuyển hướng sản xuất từ giầy vải phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước sang sản xuất và gia công giầy thể thao cho đối tác nước ngoài là công ty
GINFUN TRADING CO., LTD của Đài Loan.
Trong năm 2005, Công ty đang tiến hành xây dựng thêm 9000 m
2
nhà xưởng
mua sắm thêm một dây chuyền sản xuất giầy thể thao đồng bộ, xây dựng khu nhà ăn
cho công nhân viên. Điều đó cho thấy công ty ngày càng khẳng định được mình trên
thị trường số lượng đơn đặt hàng tăng nhanh. Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của yếu tố
mùa vụ nên số lượng đơn đặt hàng giữa các mùa không đều nhau, có thời điểm phải
làm tăng ca kéo dài. Đơn vị cần có sự bố trí công việc hợp lý hơn giữa các đơn đặt
hàng trong các mùa vụ.
Việc nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới (gia nhập tổ chức
WTO, và diễn đàn hợp tác kinh tế APEC ) đã khiến cho việc cạnh tranh trong sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng thêm gay gắt. Hầu hết các doanh nghiệp
đều gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích nghi với môi trường kinh doanh mới, một

21
môi trường kinh doanh mà họ phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác nhau
trên thị trường không có sự bảo hộ của nhà nước như trước đây. Công ty cổ phần vật tư
và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng cũng như các doanh nghiệp khác phải đối mặt với
những thách thức của thị trường do đó phải tự đứng vững bằng chính đôi chân của
mình.

Năm 2005, cùng với xu thế tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước,
theo chủ trương của Đảng, nhà nước, Bộ thương mại có quyết định 4099 QĐ-BTM tiến
hành chuyển đổi công ty sang hình thức công ty cổ phần. Sau khi tiến hành cổ phần
hoá
Tên công ty: Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng
Tên tiếng anh: HAI HUNG MATERIALS AND SHOES EXPORT
JOINT STOCK COMPANY
Viết tắt: HMSC
Địa chỉ: Đường Quán Thánh- Phường Bình Hàn- Thành phố Hải
Dương- Tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320.852352/ 853372/ 855660/ 853490
Fax: 0320.850878.
Hiện công ty có 1 dây chuyền sản xuất giầy vải 1 dây chuyền sản xuất giầy thể
thao đồng bộ, 570 lao động sở hữu 1800 m
2
đất có 2,979 tỷ đồng là vốn lưu động.
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của công ty
Chức năng chính của công ty là:
Mua bán vật tư tổng hợp: kim khí, hoá chất, (được nhà nước cho phép), thiết
bị điện, phụ tùng thay thế, vật liệu xây dựng.
Mua bán máy móc, thiết bị cho xây dựng, vận tải
Xây dựng công trình, nhà ở, nhà xưởng, trang trí nội thất công trình
Sản xuất gia công và mua bán giầy dép vật tư dùng cho sản xuất giầy dép
Cho thuê văn phòng nhà xưởng…

22
Trong đó sản xuất giầy dép xuất khẩu vẫn chức năng chính của công ty.
Cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty
Sơ đồ 01. Cơ cấu tổ chức của công ty
Bộ máy tổ chức Công ty cổ phần vật tư và giầy dép xuất khẩu Hải Hưng sau khi

tiến hành cổ phần hoá như sau:

ĐH Cổ đông
Ban giám đốc
Ban kiểm soátHội đồng Quản Trị
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
kế toán
tài vụ
Phòng
kế
hoạch
xuất
nhập
khẩu
Xưởng
cơ khí
tổng
hợp
Xưởng
pha cắt
chuẩn
bị
Xưởng
may

giầy

Xưởng
gò ráp
hoàn
chỉnh
23
Hội đồng quản trị gồm có 7 người, ban kiểm soát có 3 người gồm 1 tổng giám
đốc 1 phó tổng giám đốc 1 kế toán trưởng. Trong đó tổng giám đốc là người được giao
trách nhiệm pháp nhân. Các đơn vị trực thuộc gồm có: Phòng tổ chức, hành chính (cả
bảo vệ), phòng kế toán tài vụ, phòng xuất nhập khẩu, xưởng cơ khí tổng hợp, xưởng
pha cắt - chuẩn bị, xưởng may mũ giầy, xưởng gò ráp hoàn chỉnh.
Đại hội cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan
có thẩm quyền cao nhất công ty. Đại hội có quyền quyết định các loại cổ phần và tổng
số cổ phần chào bán. Bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm thành viên HĐQT, thành viên ban
kiểm soát, quyết định sửa đổi bổ sung điều lệ của công ty, thông qua báo cáo tài chính
hàng năm, thông qua định hướng phát triển công ty, quyết định tổ chức lại, giải thể
công ty.
Hội đồng quản trị:
Là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty, quyết định chiến lược, kế hoạch phát
triển công ty. Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần chào bán của từng loại. Quyết
định đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính gần nhất của công ty. Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp
thị và công nghệ, thông qua hợp đồng mua bán, vay cho vay và các hợp đồng khác có
giá trị lớn hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị tài sản trong báo cáo gần nhất. Bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Tổng giám đốc, phó
tổng giám đốc, kế toán trưởng và những người quản lý quan trọng khác.
Ban kiểm soát:
Gồm có 3 thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu và bãi nhiệm với đa số phiếu
đại diện cho số cổ phần. Ban kiểm soát bầu 1 người làm Trưởng Ban kiểm soát. Ban

kiểm soát có quyền kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính. Thẩm định

24
báo cáo tài chính của Công ty. Thông báo Hội đồng quản trị, báo cáo Đại hội đồng cổ
đông về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tổng giám đốc:
Tổng giám đốc là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách
nhiệm trước HĐQT và trứơc pháp luật về thực hiện các quyền và ghĩa vụ được giao.
Phòng Tổ chức hành chính:
Phòng tổ chức hành chính quản lý nhân sự, điều phối bố trí lao động, chăm lo đời
sống cho cán bộ công nhân viên công ty như tổ chức ăn trưa, ăn ca, điều dưỡng, du
lịch, chăm sóc sức khoẻ, lên kế hoạch sản xuất điều hành chung, tham mưu cho Tổng
giám đốc về phương pháp tổ chức công ty.
Phòng kế toán, tài vụ:
Phòng tài chính kế toán tổ chức hạch toán, thực hiện các chế độ của Nhà nước,
tổng hợp số liệu , cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về công tác hạch toán kế toán
cho thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, cho nhu cầu quản lý, quản lý các hoạt động tài
chính, giám sát hiệu quả sử dụng vốn của công ty, xây dựng kế hoạch tài chính, thanh
quyết toán lương, thuế, lập kế hoạch thanh quyết toán.
Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu:
Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu nghiên cứu khảo sát thị trường, xây dựng các
chiến lược Marketing, xây dựng định mức, kế hoạch xuất nhập khẩu hàng hoá, vật tư
nguyên phụ liệu. Thực hiện vệc bán hàng mở rộng thị trường kinh doanh, quảng cáo
sản phẩm, tham mưu cho Tổng giám đốc về chiến lược sản xuất kinh doanh.
Xưởng cơ khí tổng hợp:
Sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản xuất, đảm
bảo điện nước cho sản xuất cũng như sinh hoạt của cán bộ công nhân viên và ngươì lao
động trong công ty.
Xưởng pha cắt chuẩn bị:


25

×