Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.14 KB, 91 trang )

Lời nói đầu
Thương mại quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành
công của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đặc
biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng
hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. ở
nước ta ngành tinh dầu là một ngành có lịch sử phát triển chưa lâu
nhưng sản phẩm tinh dầu của Việt Nam trong những năm qua đã có
mặt nhiều nơi trên khắp năm châu.
Tinh dầu là một sản phẩm tự nhiên được chiết suất từ thực vật và
được sử dụng rộng rãi trong kỹ nghệ chế biến thực phẩm, mỹ phẩm,
dược phẩm Trong đời sống không thể thiếu sự có mặt của tinh dầu,
nhưng không nước nào có đủ tinh dầu cần thiết. Các nước nhiệt đới
nói chung có lợi thế hơn các nước hàn đới và ôn đới không những ở
chủng loại mà chất lượng tinh dầu cũng ưu việt hơn.
Việt Nam là một nước có nhiều loại cây tinh dầu mọc hoang dã
cùng với một số loại đã được trồng. Nguồn lợi từ sản xuất và xuất
khẩu tinh dầu rất lớn và rất hiệu quả. Hiện nay đã có rất nhiều công ty
trong và ngoài nước tham gia việc sản xuất và xuất khẩu tinh dầu làm
cho thị trường này trở nên đa dạng, phong phú và sôi động.
Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên (viết tắt là
ENTEROIL) là một Công ty có bề dày kinh nghiệm trong công tác thu
mua xuất khẩu tinh dầu. Từ Trung tâm liên kết khoa học sản xuất tinh
dầu và lương thực đến Công ty tinh dầu (1988) và hiện nay là Công ty
tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên (1997) Công ty đã trở thành đơn vị
kinh doanh đầu tiên có hiệu quả ở Việt Nam. Tuy nhiên. trong điều
kiện cơ chế thị trường hiện nay sự tranh mua tranh bán diễn ra cực kỳ
phức tạp và lộn xộn, gây ra những đảo lộn hụt hẫng trong công tác thu
mua và xuất khẩu tinh dầu. Do không hiểu biết về tính chất, thời vụ
1
các loại tinh dầu về khả năng sản xuất tinh dầu tại các nước trên thế
giới của một số Công ty trong nước khi tham gia xuất khẩu tinh dầu đã


làm cho tình hình sản xuất tinh dầu ở nước ta trở nên hỗn loạn không
có mục đích lâu dài và mất ổn định về phương hướng và chiến lược
nuôi trồng các cây thảo mộc để chiết xuất tinh dầu. Công ty tinh dầu
và các sản phẩm tự nhiên đã phải đổi mới các biện pháp tổ chức thu
mua tinh dầu xuất khẩu đa dạng hoá các phương thức mua bán xuất
khẩu để phát triển nguồn hàng ổn định xuất khẩu.
Từ thực tiễn như vậy, trong phạm vi kiến thức được học tôi đã lựa
chọn đề tài: “Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của
Công ty tinh dầu và các sản phẩm tự nhiên thuộc trung tâm khoa
học tự nhiên và công nghệ quốc gia” cho chuyên đề thực tập. Một số
phương pháp được sử dụng để nghiên cứu là phương pháp thống kê
kinh tế, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp so sánh và sử dụng lý luận về kinh doanh xuất
nhập khẩu. Mục đích của đề tài này là phân tích tình hình thực tế của
Công ty giai đoạn 1995 - 1999 tìm hiểu thành công và những vấn đề
tồn tại của Công ty từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu tinh dầu với lợi ích kinh tế cao nhất góp phần xây dựng nền kinh
tế ngày càng vững mạnh.
Bố cục của bài viết như sau:
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TINH DẦU TẠI
CÔNG TY TINH DẦU VÀ CÁC SẢN PHẨM TỰ NHIÊN.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA
CÔNG TY TINH DẦU VÀ CÁC SẢN PHẨM TỰ NHIÊN.
Do thời gian có hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên chuyên
đề không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự nhận xét góp ý
của thầy cô và các bạn.
2
CHƯƠNG I
I-/ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

XUẤT KHẨU.
1-/ Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông
qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng
biệt của các quốc gia.
Tiền đề xuất hiện trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng
dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng dồi dào. Sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước ngày càng tăng. Hay nói cách khác chuyên môn hoá gắn
chặt với thương mại.
Thương mại xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất các
khu vực và các nước. Vì điều kiện sản xuất rất khác nhau giữa các nước nên mỗi
nước dựa vào điều kiện thuận lợi của nước mình chuyên môn hoá sản xuất một
mặt hàng cụ thể và xuất khẩu sản phẩm hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập
từ những nước khác.
Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam-Smith thì thương mại quốc tế
giữa các nước với nhau phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của từng nước làm cơ sở.
Mỗi nước có lợi thế khác nhau nên sản xuất những sản phẩm khác nhau và đem
trao đổi cho nhau thì các bên đều có lợi.
Song như chúng ta đã biết phần lớn số lượng những mặt hàng đưa vào buôn
bán không xuất phát từ điều kiện tự nhiên vốn có của sản xuất. Tại sao mỗi nước
có trình độ thấp kém như nước ta lại có thể hy vọng buôn bán có lợi với các
nước có nền công nghiệp phát triển như Đức, Nhật, Pháp, ?
Nhà kinh tế học Anh David Ricardo đã trả lời câu hỏi này đầu tiên bằng lý
thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn
hoá sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh
cao nhất) thì thương mại có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có
hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm
thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo lợi ích cho

mình. Khi tham gia vào thương mại quốc tế quốc gia có hiệu quả thấp trong sản
xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá và xuất khẩu các loại hàng mà
3
việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản
xuất chúng bất lợi lớn nhất.
Để đơn giản David Ricardo đề cập đến hai nước và hai mặt hàng và tính
mọi chi phí bằng số giờ lao động.
Ví dụ: Lợi thế so sánh tuỳ thuộc vào chi phí so sánh.
BẢNG 1: LAO ĐỘNG CẦN THIẾT ĐỂ SẢN XUẤT MỘT ĐƠN VỊ SẢN PHẨM
CỦA DAVID RICARDO
Quốc gia
Sản phẩm
Ở Mỹ Ở Châu Âu
- Một đơn vị lương thực 1 giờ lao động 3 giờ lao động
- Một đơn vị quần áo 2 giờ lao động 4 giờ lao động
Nhìn vào bảng trên ta thấy Mỹ có chi phí lao động thấp hơn cả về lương
thực và quần áo. Năng suất lao động của Mỹ gấp từ 2 đến 3 lần Châu Âu (2 lần
về quần áo, 3 lần về lương thực) thế nhưng cả hai bên Mỹ và Châu Âu đều có
lợi khi buôn bán với nhau. Mỹ chi phí cho một đơn vị lương thực là 1 giờ lao
động, cho 1 đơn vị quần áo là 2 giờ lao động. Châu Âu chi phí cho 1 đơn vị
lương thực là 3 giờ lao động và cho 1 đơn vị quần áo là 4 giờ lao động. Ricardo
đã chứng minh một cách chắc chắn rằng cả Mỹ và Châu Âu đều có lợi nếu Mỹ
chuyên môn hoá về lương thực còn Châu Âu chuyên môn hoá về quần áo. Mỹ
xuất khẩu lương thực để trả tiền nhập khẩu quần áo từ Châu Âu kết quả của mở
rộng thương mại giữa hai khu vực là có lợi vì Mỹ mua quần áo qua đường
thương mại rẻ hơn sản xuất trong nước Châu Âu được lợi qua việc chuyên môn
hoá sản xuất quần áo và mua lương thực rẻ hơn qua đường thương mại rẻ hơn
sản xuất trong nước. Từ đó ta thấy tiền lương thực tế sau khi có thương mại cao
hơn trước khi có thương mại ở cả Mỹ và Châu Âu. Do chuyên môn hoá sản xuất
và thương mại làm cho mức sản xuất mở rộng trên thế giới cả về lương thực và

quần áo từ đó tạo cho mọi người có cuộc sống khá hơn.
Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nguyên nhân khác để có
thương mại quốc tế. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối trong hai nơi
giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác nhau về sở thích.
Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được.
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương
mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều
hơn mức có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể
tiêu dùng với gianh giới của khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước khi thực
hiện chế độ tự cung, tự cấp, không buôn bán với các nước khác.
4
Những lợi ích mà thương mại quốc tế đem lại đã làm cho thương mại và thị
trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm
nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa
học công nghệ. Thương mại quốc tế là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các
nước trên thế giới, vừa là hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội.
2-/ Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu
thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản
xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra
giữa các cá thể riêng biệt mà có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự
điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, xuất khẩu có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội
của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ
thuộc rất lớn vào lĩnh vực kinh doanh này. Đối với những nước mà trình độ phát
triển kinh tế còn thấp như nước ta những nhân tố tiềm năng là: tài nguyên thiên
nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiết hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả
năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp kết hợp
chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra
sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch

với các nước giàu.
a. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước hết
chúng ta cần phải nhập khẩu một lượng lớn máy móc trang thiết bị hiện đại từ
bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn cho nhập khẩu thường
dựa chủ yếu vào các nguồn vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu.
Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn nguồn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có
hạn hơn nữa nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy nguồn vốn
quan trọng để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là, nước nào gia tăng được
xuất khẩu thì nhập khẩu cũng tăng theo. Ngược lại nếu nhập khẩu nhiều hơn
xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu
đến nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu đóng góp vào việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
5
Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu
hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Ngày nay đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để
tổ chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự tác động này thể hiện ở các điểm:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho phát
triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất ổn định và phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản

xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
* Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị
trường ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá
xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả, do đó phụ thuộc rất lớn vào
kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến nâng cao chất lượng công nghệ sản
xuất. Mặt khác xuất khẩu trong nền kinh tế còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải
đổi mới hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh đòi hỏi nâng cao tay
nghề người lao động.
* Xuất khẩu có tác động tích cực với việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống của nhân dân.
Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu với nhiều công đoạn
khác nhau thu hút một số lượng lớn lao động với thu nhập không thấp tăng giá
trị ngày công lao động tăng thu nhập quốc dân nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người lao động.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước,
nâng cao địa vị và vai trò của quốc gia trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quĩ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận
tải quốc tế. Ngược lại chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta vừa kể
trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
6
Đối với nước ta, hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu
quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát
triển của Việt Nam so với thế giới.
b. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp.
Ngày nay xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung

của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp việc xuất khẩu các loại hàng hoá và
dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường,
mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước và nước ngoài trên cơ
sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ
rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh tăng cường uy tín kinh doanh của
doanh nghiệp trên thị trường.
Thông qua hoạt động xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều kiện giữ
gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ phát triển hệ thống các
kênh phân phối sản phẩm.
Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ
năng quản lý chuyên môn chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu,
bán hàng trên thị trường quốc tế quản lý và dự đoán những xu hướng biến động
của tỉ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh nghiệp có được nguồn ngoại
tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá
trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều
lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên tạo ra
ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
ngày càng phong phú của nhân dân vừa tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo
điều kiện thu lợi nhuận cao.
3-/ Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu.
a. Theo hình thức quản lý của Nhà nước, phân thành:
* Xuất khẩu mậu dịch: hàng hoá xuất khẩu mậu dịch là hàng hoá Nhà nước
trực tiếp quản lý theo kế hoạch, định hướng phát triển nền kinh tế quốc dân.
* Xuất khẩu phi mậu dịch: hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch là những hàng
hoá Nhà nước không quản lý trực tiếp, không nằm trong kế hoạch định hướng
của Nhà nước.
b. Theo khối lượng hàng hoá xuất khẩu, phân thành:

7
* Xuất khẩu chính ngạch: Đây là phương thức xuất khẩu theo thông lệ
quốc tế. Thông thường hình thức này được áp dụng với những đơn vị kinh
doanh mang tính chất lớn, có thị trường ổn định.
* Xuất khẩu tiểu ngạch: Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá khi xuất
khẩu phải có tờ khai xuất khẩu tiểu ngạch và biên lai nộp thuế xuất khẩu tiểu
ngạch.
c. Theo mức độ quản lý của Nhà nước, phân thành:
* Xuất khẩu có hạn ngạch (Quota): là hình thức xuất khẩu phải do Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt căn cứ vào đề nghị của Bộ Thương mại và Uỷ ban
kế hoạch Nhà nước.
* Xuất khẩu tự do: là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá xuất khẩu không
thuộc diện mặt hàng được Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch.
d. Theo nguồn gốc và hình thức giao hàng, phân thành:
* Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức đơn vị ngoại thương đã đặt mua sản
phẩm của các đơn vị sản xuất trong nước (mua đứt). Sau đó xuất khẩu những
sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của đơn vị mình.
Các bước tiến hành:
+ Ký kết hợp đồng nội, mua hàng, trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất
trong nước.
+ Ký kết hợp đồng ngoại, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước
ngoài.
* Xuất khẩu uỷ thác: trong hình thức này đơn vị ngoại thương đóng vai trò là
trung gian xuất khẩu, làm thay cho đơn vị sản xuất (bên có hàng) làm thủ tục cần
thiết để xuất hàng và hưởng phần trăm phí uỷ thác theo giá trị hàng xuất khẩu.
Các bước tiến hành:
+ Ký kết hợp đồng uỷ thác xuất khẩu cho đơn vị sản xuất trong nước.
+ Ký kết hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền.
+ Nhận phí uỷ thác từ đơn vị sản xuất trong nước. Ưu điểm của hình thức
này là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra xuất khẩu không phải là

người chịu trách nhiệm cuối cùng.
Đặc biệt, người này không cần huy động vốn để mua hàng, tuy hưởng phí ít
nhưng nhận tiền nhanh, cần ít thủ tục và ít phải chịu rủi ro.
* Xuất khẩu gia công uỷ thác: Trong hình thức này, đơn vị ngoại thương
đứng ra nhập nguyên vật liệu hay bán thành phẩm về cho công ty gia công sau
8
đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài, phần trăm uỷ thác và gia
công phí được thoả thuận trước giữa hai bên và trả cho đơn vị ngoại thương.
Các bước tiến hành:
+ Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với các đơn vị trong nước.
+ Ký hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu.
+ Giao nguyên liệu gia công (định mức kỹ thuật đã được thoả thuận gián
tiếp giữa đơn vị sản xuất trong nước với bên nước ngoài và đơn vị hưởng phí gia
công uỷ thác).
Ưu điểm của hình thức này là không cần bỏ vốn kinh doanh nhưng hiệu
quả kinh tế tương đối cao, rủi ro ít, thanh toán khá đảm bảo vì đầu ra chắc chắn.
Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi làm nhiều thủ tục về nhập và xuất, các cán bộ
kinh doanh phải có nhiều kinh nghiệm.
* Bán buôn đối lưu (hàng đổi hàng): là hình thức giao dịch mà trong đó
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương. Ở đây mục đích xuất khẩu không
phải nhằm thu một khoản ngoại tệ mà nhằm thu một lượng hàng hoá có giá trị
xấp xỉ lô hàng đã xuất.
Nội dung của một số nghiệp vụ buôn bán đối lưu:
+ Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng: hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những
hàng hoá dịch vụ có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng
thời và không dùng tiền làm trung gian mua bán.
+ Trong nghiệp vụ bù trừ: hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi
giá trị hàng giao, đến cuối kỳ hạn hai bên mở so sổ đối chiếu giá trị hàng giao
với giá trị hàng nhận. Sau khi bù trừ tiền hàng mà có số dư thì tiền đó được giữ

lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ.
+ Trong nghiệp vụ mua đối lưu thường một bên giao thiết bị cho bên kia
rồi mua lại thành phẩm hoặc bán thành phẩm.
+ Trong nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ bên nhận hàng chuyển khoản nợ
về tiền hàng cho một bên thứ ba.
+ Trong giao dịch bồi hoàn: người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những
dịch vụ hoặc ưu huệ.
* Xuất khẩu theo Nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký theo
Nghị định thư giữa hai Chính phủ. Xuất theo hình thức này có nhiều ưu đãi như
khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu), giá cả
nhìn chung dễ chấp nhận.
9
Tóm lại, với các hình thức xuất khẩu trên việc áp dụng hình thức nào còn
phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp và phải đáp ứng được yêu cầu của cả hai
bên sản xuất, gia công trong nước cũng như bên nước ngoài.
II-/ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU.
1-/ Nghiên cứu thị trường.
Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất
cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường
theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản
phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó.
Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị
trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận
này giúp cho quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch Marketing.
Công tác nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi quan trọng sau:
1. Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của công ty?
2. Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu?
3. Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước đòi hỏi của thị trường?
4. Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp?

Công việc đầu tiên của người làm công tác nghiên cứu thị trường là thu
thập những thông tin có liên quan đến thị trường và mặt hàng mình quan tâm.
Về mặt phương pháp luật người ta phân biệt hai phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu văn phòng hay nghiên cứu tại bàn.
- Nghiên cứu hiện trường.
a. Phân tích về cung cầu và các điều kiện thị trường.

Phân tích tình hình “cung”.
Trước hết cần phải biết rõ tình hình cung toàn bộ tính ra được số lượng
cung tức là cần xác định:
- Khối lượng toàn bộ hàng hoá bán ra hiện nay trên thị trường.
- Diễn biến tình hình bán hàng trong 5 năm cuối.
- Sự phân bố số hàng bán ra theo qui trình phân phối.
- Giá bán trung bình của các sản phẩm tương tự.
- Sản phẩm của hàng ở vào giai đoạn nào trên thị trường.
- Cấu trúc của “cung” nghĩa là xác định tình hình cạnh tranh trên thị
trường.

Phân tích tình hình “cầu”:
10
Từ những thông tin về những hàng hoá đang bán, cần xác định xem những
sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Phân tích cầu là xác định:
- Người tiêu dùng là ai, họ phân nhóm như thế nào.
- Nhịp điệu mua hàng.
- Lý do mua hàng của khách.
- Đường biểu diễn đời sống của sản phẩm có khả năng kéo dài không?

Phân tích các điều kiện thị trường.
Cần phải xác định và phân tích cẩn thận tất cả những điều kiện mà việc
thương mại hoá sản phẩm có thể gặp. Đó là:

- Điều kiện về qui chế và pháp lý.
- Điều kiện về tài chính.
- Điều kiện về kỹ thuật.
- Điều kiện về con người, tâm lý,
b. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường.
Nghiên cứu về giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là một vấn đề rất
quan trọng đối với bất cứ một đơn vị kinh doanh xuất khẩu nào. Giá cả hàng hoá
trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới và
có ảnh hưởng đối với hiệu quả kinh doanh xuất khẩu.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên
thị trường thế giới. Giá đó được dùng trong giao dịch thương mại thông thường,
không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và được thanh toán bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi.
Xu hướng biến động giá cả của các loại hàng hoá thế giới rất phức tạp. Có
lúc tăng, giảm cá biệt có trường hợp ổn định nhưng nói chung xu hướng đó có
tính chất tạm thời.
Để có thể dự đoán được xu hướng biến động của giá cả theo từng loại hàng
hoá trên thị trường thế giới, phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình
hình thị trường từng loại hàng hoá, đồng thời đánh giá chính xác các nhân tố tác
động đến xu hướng biến đổi giá cả.
c. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao trên một thị
trường nhất định (thế giới, khu vực, dân tộc, ) trong một thời gian dài nhất định
(thường là 1 năm).
Dung lượng thị trường không cố định mà nó thay đổi tuỳ theo tình hình do
nhiều tác động của nhiều nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Các
11
nhân tố làm cho dung lượng thị trường thay đổi có rất nhiều nhóm nhưng ta có
thể chia làm 3 nhóm, căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của nó đối với thị trường.
- Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất

chu kỳ như vận động của tình hình kinh tế của các nước trên thế giới đặc biệt là
các nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình phân phối sản phẩm và
lưu thông hàng hoá.
- Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của duy lượng thị
trường như tiến bộ khoa học công nghệ, các giải pháp, chế độ chính sách của Nhà
nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng ảnh hưởng của hàng hoá thay thế.
- Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường.
Nhóm nhân tố này có thể kể ra: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra biến đổi
về cung cầu đối với từng loại hàng hoá nhất định.
Như vậy khi nghiên cứu thị trường hàng hoá khác nhau các doanh nghiệp
phải căn cứ vào các đặc điểm của từng thị trường để đánh giá đúng ảnh hưởng
của các nhân tố và xác định nhân tố nào có ý nghĩa quyết định tới xu hướng vận
động của thị trường trong giai đoạn này và giai đoạn tới trong kinh doanh xuất
khẩu, việc nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà doanh nghiệp có
thể đề ra những quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ
giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.
2-/ Lựa chọn bạn hàng và phương thức giao dịch.
Việc lựa chọn bạn hàng theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường
khi lựa chọn bạn hàng các doanh nghiệp thường lưu tâm tới mối quan hệ cũ của
mình. Các bạn hàng thường được phân theo khu vực thị trường và phụ thuộc vào
sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế.
Phương thức giao dịch thường là những phương thức mà doanh nghiệp sử
dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường
thế giới. Hiện nay có nhiều phương thức giao dịch khácn hau như giao dịch
thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch hội chợ và triển lãm, Tuỳ
thuộc vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch
sao cho thực hiện tốt nhất các mục tiêu sản xuất kinh doanh.
3-/ Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị
trường, đơn vị kinh doanh sẽ lập phương án kinh doanh mặt hàng xuất khẩu đó.

Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục tiêu
xác định trong kinh doanh. Việc lập phương án kinh doanh gồm các bước:
a. Đánh giá thị trường và thương nhân.
12
Trong bước này người lập dự án rút ra những kết luận cụ thể về thương
nhân, thị trường trong nước và nước ngoài. Từ đó xây dựng phương hướng kinh
doanh, chiến lược kinh doanh cụ thể phù hợp.
b. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình về
mặt hàng, nguồn hàng (số lượng, chất lượng, chủng loại, khả năng thu mua để
xuất khẩu, ) thời cơ thời điểm để thu mua tập trung nguồn hàng và giao dịch
cho khách. Đồng thời lựa chọn phương thức kinh doanh nào có hiệu quả nhất
(uỷ thác, liên doanh, liên kết, mua đứt bán đoạn) và phải tính đến tỷ suất ngoại
tệ (tỉ giá hối đoái giữa tiền Việt nam đồng thu về để có một đơn vị ngoại tệ).
c. Mục tiêu phương án và sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là
mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả ra sao, sẽ xâm nhập
vào thị trường nào, các khoản thuế phải nộp ra sao,
Sau khi xác định một số mục tiêu cụ thể trên ta có thể sơ bộ đánh giá hiệu
quả kinh doanh thông qua nhiều chỉ tiêu khácnhau trong đó chủ yếu là:
- Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn.
- Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ.
- Chỉ tiêu điểm hoà vốn.
d. Biện pháp thực hiện.
Những biện pháp này là những công cụ để đạt được mục tiêu đề ra. Những
biện pháp này có thể bao gồm biện pháp trong nước (đầu tư vào sản xuất cải tiến
bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua, ) và cả những biện pháp nước
ngoài (đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, ).
4-/ Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
a. Chào hàng.

Chào hàng là lời đề nghị của nhà sản xuất gửi cho khách hàng biểu thị ý
muốn bán hàng hoá hoặc dịch vụ theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời
gian giao hàng phương thức thanh toán.
b. Đàm phán và ký kết hợp đồng.
Sau khi nhận được thư trả lời của bên kia hai bên tổ chức đàm phán thương
lượng đề nghị để đi đến một thoả thuận chung về điều kiện mua bán và ký kết
hợp đồng.
13
Đàm phán là việc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà
kinh doanh để đi đến ký kết hợp đồng. Trong thương mại quốc tế có 3 hình thức
đàm phán sau:
- Đàm phán thư tín.
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp.
Mỗi hình thức đàm phán đều có ưu nhược điểm nói riêng của nó. Tuỳ từng
hoàn cảnh, trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho thích hợp.
Nếu quan hệ thường xuyên và là bạn hàng truyền thống với nhau thì chọn hình
thức đàm phán qua điện thoại tiện hơn.
Tiếp theo công việc đàm phán các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất
khẩu, trong đó qui định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá
cho người mua. Người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang
giá trị bằng phương thức thanh toán quốc tế.
Thông thường, trong một hợp đồng xuất khẩu phải có các nội dung sau:
a) Phần mở đầu của hợp đồng xuất khẩu.
- Số hợp đồng.
- Ngày và nơi ký hợp đồng.
- Tên, địa chỉ đầy đủ, Telex, Fax, đại diện của các bên.
b) Điều kiện tên hàng.
c) Điều kiện số lượng.
d) Điều kiện về qui cách phẩm chất hàng hoá.

e) Điều kiện về giá cả.
f) Điều kiện về bao bì, đóng gói, ký mã hiệu.
g) Điều kiện về cơ sở giao hàng.
h) Điều kiện về thời gian, địa điểm, phương tiện giao hàng.
i) Điều kiện về thanh toán.
k) Điều kiện về bảo hành hàng hoá (nếu có).
l) Điều kiện về khiếu nại và trọng tài.
m) Điều kiện về các trường hợp bất khả kháng.
n) Chữ ký của hai bên.
Với những hợp đồng phức tạp nhiều mặt hàng thì có thêm các phụ kiện là
bộ phận không tách rời của hợp đồng.
14
5-/ Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi ký hợp đồng xuất khẩu, bên xuất khẩu và nhập khẩu phải tiến hành tổ
chức thực hiện hợp đồng. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu.
Xin giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để
tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Nếu hàng hoá
có trong Nghị định thư thì không cần xin giấy phép. Hiện nay một số hàng hoá
không nằm trong danh mục quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước thì cũng
không cần xin giấy phép.
Hiện nay việc cấp giấy phép xuất khẩu được qui định như sau:
- Bộ Thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu
dịch hay cả lô hàng.
- Tổng cục Hải quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch:
Hồ sơ xin giấy phép gồm:
+ Đơn xin giấy phép xuất khẩu.
+ Phiếu hạn ngạch.
+ Bản sao hợp đồng đã ký kết với nước ngoài hay bản sau L/C
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh xuất nhập khẩu một

hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định.
Bước 2: Chuẩn bị hàng hoá.
Các doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất khẩu phải ký kết hợp đồng
mua bán để thu gom hàng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau. Sau đó hàng hoá
phải qua khâu bao bì đóng gói, ghi ký mã hiệu dùng với điều khoản về qui cách
phẩm chất hàng hoá và bao bì, đóng gói, ký mã hiệu hàng hoá trong hợp đồng đã ký
kết.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu không phải làm nhiệm vụ
thu gom hàng mà chỉ phải chuẩn bị hàng hoá.
Bước 3: Kiểm định hàng hoá.
Trước khi xuất khẩu các nhà xuất khẩu có nghĩa vụ kiểm tra số lượng phẩm
chất, trọng lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra này được tiến hành ở hai cấp: ở cơ
sở và ở cửa khẩu nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản
xuất.
Bước 4: Thuê phương tiện vận chuyển.
15
Tuỳ theo các thoả thuận trong hợp đồng mà người xuất khẩu hoặc người
nhập khẩu có trách nhiệm thuê tàu. Trong trường hợp trách nhiệm thuê tàu là
thuộc nhà xuất khẩu cần cân nhắc các khả năng sau:
- Nếu hàng hoá có khối lượng nhỏ, không cồng kềnh có thời gian không
quá gấp thì nên thuê tàu chợ. Tàu chợ là loại tàu để chở hàng chạy thường xuyên
theo một tuyến nhất định, ghé vào các cảng qui định theo lịch trình định trước.
- Nếu hàng hoá có khối lượng lớn, cồng kềnh đòi hỏi những điều kiện đặc
biệt nào đó về vận chuyển thì nên thuê tàu chuyến. Tàu chuyến là tàu chuyên
chở hàng hoá trên biển không theo một lịch trình định trước. Mặc dù thuê tàu
chuyến đòi hỏi chi phí khá cao so với tàu chợ nhưng có thể vận chuyển với khối
lượng lớn, công tác bảo quản bảo vệ hàng trong vận chuyển bốc dỡ cũng dễ hơn
hiệu quả hơn.
Bước 5: Mua bảo hiểm cho hàng hoá.
Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường được chuyên trở chủ yếu bằng

đường biển thường gặp rất nhiều rủi ro. Do vậy phải mua bảo hiểm hàng hoá.
Nếu mua bảo hiểm thuộc trách nhiệm của người xuất khẩu thì cần tuân thủ
nguyên tắc đảm bảo an toàn cho hàng hoá vận chuyển vừa tiết kiệm chi phí bảo
hiểm. Việc mua bảo hiểm loại nào cần căn cứ vào tính chất hàng hoá, tình trạng
bao bì, tình hình an ninh, chính trị xã hội các nước có liên quan, tình hình thời
tiết. Có 2 loại hợp đồng bảo hiểm thường được dùng:
- Hợp đồng bảo hiểm bao.
- Hợp đồng bảo hiểm chuyến.
Bước 6: Làm thủ tục hải quan.
Thủ tục hải quan là cách thức để Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu gồm:
- Khai báo và tiếp nhận hồ sơ hải quan.
+ Người xuất khẩu phải tự khai thác các đối tượng làm thủ tục hải quan
theo mẫu tờ khai do Tổng cục trưởng cục Hải quan qui định.
+ Nộp và xuất trình bộ hồ sơ Hải quan: đối với hàng hoá xuất khẩu, bộ hồ
sơ gồm:
• Tờ khai hải quan.
• Hợp đồng thương mại.
• Bản kê chi tiết (đối với hàng hoá không đồng nhất).
• Các giấy tờ khác (đối với hàng hoá xuất khẩu có điều kiện hoặc có
qui định riêng).
16
- Xuất trình và kiểm tra hàng hoá:
+ Xuất trình đầy đủ hàng hoá để cơ quan hải quan kiểm tra theo thời gian
và địa điểm quy định.
+ Bố trí phương tiện và nhân công phục vụ việc kiểm tra hàng hoá của cơ
quan hải quan.
- Thông báo thuế, thu thuế và nộp thuế:
Việc thông báo thuế, thu thuế, nộp thuế tiến hành theo qui định của Luật
thuế xuất khẩu và các luật thuế khác có liên quan.

- Giải phóng hàng hoá.
+ Đối với hàng hoá xuất khẩu, không có thuế, hàng hoá được miễn thuế,
hàng có thuế suất bằng không, hàng gia công, hàng đặc biệt khác sẽ được giải
phóng ngay sau khi có kết luận về kết quả kiểm tra của cơ quan hải quan.
+ Đối với hàng hoá xuất khẩu thuộc diện có thuế, hàng hoá được giải
phóng sau khi đã nộp thuế. Hàng có thời gian ân hạn thuế được giải phóng hàng
sau khi nhận được thông báo nộp thuế.
- Kiểm tra sau khi giải phóng hàng: doanh nghiệp có trách nhiệm lưu giữ
hồ sơ hải quan của những lô hàng đã giải phóng trong thời hạn 5 năm kể từ ngày
giải phóng hàng và có trách nhiệm xuất trình bộ hồ sơ cùng sổ sách chứng từ
liên quan khác cho cơ quan hải quan khi cơ quan hải quan yêu cầu.
Bước 7: Giao hàng lên tàu:
Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao hàng lên tàu
là thuộc trách nhiệm của bên bán hay bên mua.
Nếu việc giao hàng thuộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu thì cần thiết phải
xem xét theo dõi bốc xếp hàng qua cơ quan điều độ cảng để tổ chức vận chuyển
hàng hoá bố trí lực lượng xếp hàng lên tàu. Sau khi bốc xếp thì thực hiện thanh
toán phí bốc xếp và lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển nên là vận
đơn hoàn hảo đã bốc hàng và có thể chuyển nhượng được.
Bước 8: Làm thủ tục thanh toán.
Có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các
giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài
nên thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế phức tạp hơn rất nhiều.
Phương thức thanh toán thông thường được sử dụng là phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng và thanh toán bằng phương pháp nhờ thu.
* Thanh toán bằng thư tín dụng:
17
Thư tín dụng là một loại giấy mà ngân hàng đảm bảo hoặc hứa sẽ trả tiền
(Letter of credit - LC) Thanh toán tiền hàng bằng L/C là một phương thức thanh
toán đảm bảo hợp lý, thuận tiện an toàn, hạn chế rủi ro cho cả hai bên.

- Người xuất khẩu: đôn đốc người nhập khẩu mở L/C đúng hạn và nội dung
như hợp đồng đã quy định. Sau khi nhận được L/C người xuất khẩu phải kiểm
tra so sánh với nội dung trong hợp đồng nếu chưa phù hợp phải yêu cầu bên
nhập khẩu sửa lại.
Có L/C người xuất khẩu tiến hành làm những công việc thực hiện hợp
đồng. Đến thời hạn giao hàng, cùng với việc giao hàng người xuất khẩu phải lập
bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với nội dung trong L/C.
Người nhập khẩu: việc đầu tiên phải làm là mở L/C. Thời gian mở L/C nếu
hợp đồng không qui định gì thì phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Thông
thường L/C được mở khoảng 15-20 ngày trước khi đến thời gian giao hàng. Cơ
sở để mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Giấy xin mở tín dụng
khoản nhập khẩu kèm theo bản sao hợp đồng sau khi được cơ quan quản lý kế
hoạch thu chi ngoại hối xét duyệt được chuyển đến ngân hàng ngoại thương
cùng với hai uỷ nhiệm chi: một uỷ nhiệm chi để ký quĩ theo qui định về việc mở
L/C và một uỷ nhiệm chi trả thủ tục phí cho ngân hàng về việc mở L/C. Khi
chứng từ gốc từ nước ngoài đến ngân hàng ngoại thương, đơn vị kinh doanh
phải kiểm tra chứng từ và nếu hợp lệ thì trả tiền cho ngân hàng. Sau đó đơn vị
kinh doanh mới nhận được chứng từ để đi nhận hàng.
* Thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
Nếu hợp đồng xuất khẩu qui định thanh toán tiền hàng bằng phương thức
nhờ thu thì ngay khi giao hàng bên xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ
và phải xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác ngân hàng đổi tiền hộ. Chứng từ
thanh toán phải hợp lệ chính xác và nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm thu
lại vốn. Sau khi nhận chứng từ ở ngân hàng ngoại thương đơn vị kinh doanh
nhập khẩu được kiểm tra chứng từ trong thời gian nhất định. Nếu trong thời gian
này đơn vị kinh doanh nhập khẩu không có lý do chính đáng từ chối thanh toán
thì ngân hàng xem như yêu cầu đòi tiền là hợp lệ.
Quá thời hạn qui định cho việc kiểm tra chứng từ mọi tranh chấp giữa bên
bán và bên mua về việc thanh toán tiền hàng sẽ được trực tiếp giải quyết giữa
các bên đó hoặc qua cơ quan trọng tài.

18
III-/ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
HÀNG HOÁ.
A-/ Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
Mỗi một chủ thể hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối nhất định của
môi trường bao quanh nó. Đó là tổng hợp các yếu tố có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp qua lại lẫn nhau. Chính những nhân tố này qui định xu hướng và trạng
thái hành động của chủ thể. Trong kinh doanh thương mại quốc tế đặc biệt là
trong lĩnh vực xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu sự chi phối của
các nhân tố bên trong lẫn nhân tố bên ngoài nước. Các nhân tố này thường
xuyên biến đổi và vì vậy làm cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu ngày càng
phức tạp hơn. Để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đòi hỏi các nhà kinh
doanh phải nắm bắt và phân tích được ảnh hưởng của từng nhân tố cá biệt tới
hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kì cụ thể.
1. Nhân tố kinh tế - xã hội trong nước.
a. Trạng thái của nền kinh tế trong nước.
* Dương lượng sản xuất:
Dượng lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản xuất
hàng xuất khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn hàng. Tuy nhiên doanh nghiệp
phải đương đầu với tính cạnh tranh cao hơn trong việc tìm bạn hàng xuất khẩu
và nguy cơ phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới.
* Tình hình nhân lực:
Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp trong nước xúc tiến xuất khẩu các mặt hàng có sử dụng sức lao động. Về
mặt ngắn hạn nguồn nhân lực được xem như là không biến đổi vì vậy chúng ta ít
tác động tới sự biến động của hoạt động xuất khẩu. Nước ta nguồn nhân lực dồi
dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử dụng
nhiều lao động như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, và gia công xuất khẩu.
* Nhân tố công nghệ:

Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã
hội mang lại nhiều lợi ích, trong xuất khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao. Nhờ
sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương
có thể đàm phán trực tiếp với khách hàng qua Telex, điện tín, Fax, giảm bớt
những chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất khẩu. Các nhà kinh doanh dễ dàng
nắm bắt các thông tin về thị trường một cách chính xác kịp thời. Bên cạnh đó
yếu tố công nghệ còn tác động tới quá trình sản xuất gia công chế biến hàng xuất
khẩu, khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá,
19
các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngành ngân hàng, Đó cũng chính là các yếu tố tác
động đến xuất khẩu.
* Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường sá, bến bãi, hệ thống vận
tải, hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng, có ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu. Nếu hệ thống này hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả hoạt động xuất khẩu
ngược lại sẽ kìm hãm hoạt động xuất khẩu.
b. Các chính sách và qui định của Nhà nước.
Thông qua việc đề ra các chính sách và qui định của Nhà nước thiết lập
môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp nên nó
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác động
của các chính sách dưới các khía cạnh sau:
* Tỉ giá hối đoái:
Tỉ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỉ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai
nước với nhau.
Tỉ giá hối đoái và chính sách tỉ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để thực
hiện chiến lược hướng ngoại đẩy mạnh xuất khẩu. Một tỷ giá hối đoái chính thức
được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỉ giá hối đoái thực tế.
Nếu tỉ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỉ giá hối đoái thực tế tăng lên thì
các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm

ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do mức lạm
phát trong nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được
phải bán lại với tỉ giá hối đoái chính thức cố định không được tăng lên để bù lại
chi phí sản xuất cao hơn. Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng
giá cả xuất khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn nhưng kết quả khả
năng chiễm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo
ngoại hối và lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỉ giá hối đoái thực tế
giảm so với tỉ giá hối đoái chính thức khi đó sẽ có lợi hơn cho các nhà xuất khẩu.
* Thuế quan và hạn ngạch (quota):
Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại thị trường xuất
khẩu cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuế xuất khẩu và hạn ngạch.
Thuế xuất khẩu tăng có xu thể làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm
nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Còn hạn ngạch là hình thức hạn chế về số
lượng xuất khẩu có tác động một mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất khẩu
trực tiếp mặt khác tạo cơ hội thuận lợi cho người xin được hạn ngạch xuất khẩu.
20
* Các chính sách khác của Nhà nước:
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng mặt hàng chủ lực trực tiếp
gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín
dụng xuất khẩu chính sách trợ cấp xuất khẩu cũng góp phần to lớn tác động tới
tình hình xuất khẩu của một quốc gia. Bên cạnh các chính sách trên nhóm các
chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống
hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất
khẩu.
Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất khẩu của Nhà nước
cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt từ khi ra đời Nghị định
57/2000 NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi
hành thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng một bước. Họ
được kinh doanh tất cả những hàng hoá mà pháp luật không cấm tạo ra môi
trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp.

2. Nhân tố tài nguyên và địa lý.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm
cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần
tác động ảnh hưởng đến loại hàng qui mô hàng xuất khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát
triển nền kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là
điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế
hoặc thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như vận tải ngân hàng,
3. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng vì
vậy mà mỗi biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những
ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất
khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể nước ngoài nên nó càng rất
nhạy cảm. Bất kì một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm
phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế, của các nước khác đều
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu nước ta.
B-/ Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp.
1. Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính.
Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống CBCNV nhằm mục
đích thực hiện hoạt động của doanh nghiệp. Để quản lý tập trung thống nhất
phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy
doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố
21
quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ
chức hợp lý có cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt
động kinh doanh. Ngược lại, nếu cơ cấu tổ chức xệch xoạc cách điều hành kém
cỏi sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh.
2. Nhân tố con người.
Con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất
khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh yếu tố con người bởi vì nó là chủ thể

sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động. Ảnh hưởng của nhân tố này thể
hiện qua hai chỉ tiêu: đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần
làm việc biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí
phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng
điều hành công tác các nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả hoạt động. Để nâng cao
vai trò của nhân tố con người các doanh nghiệp một mặt phải nâng cao nghiệp
vụ của họ mặt khác phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân bao gồm cả lợi
ích vật chất và lợi ích tinh thần.
3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào
hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Mạng lưới kinh doanh rộng lớn là điều
kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tạo nguồn hàng vận chuyển làm
đại lý xuất khẩu, Do vậy mạng lưới kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh không hợp lý sẽ gây cản trở
cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thương trường.
4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm: các máy móc
thiết bị, hệ thống kho tàng, nhà xưởng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu
mua hàng, các đại lý, chi nhánh và trang thiết bị của nó, cùng với vốn lưu động
là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định qui mô, tính chất
lĩnh vực hoạt động xuất khẩu và vì vậy góp phần quyết định hiệu quả kinh doanh.
III-/ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH DOANH THƯƠNG MẠI QUỐC
TẾ CỦA DOANH NGHIỆP.
1-/ Quan niệm về hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kì nền sản xuất nào nói
chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh tế trong
kinh doanh thương mại quốc tế vì: nâng cao hiệu quả kinh tế trong kinh doanh
thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc
22

tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Ngân cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện qui luật tiết kiệm.
Hiệu quả kinh tế - xã hội chủ yếu được thẩm định bởi thị trường là tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương hướng hoạt động kinh doanh thương mại quốc
tế. Đánh giá kết quả hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ căn cứ vào mức độ lợi
nhuận, tuy rằng lợi nhuận là lý do tồn tại của doanh nghiệp mà còn đánh giá cả
hiệu quả kinh tế xã hội nữa. Đó là chỉ tiêu về tiết kiệm lao động xã hội hay tăng
năng suất lao động xã hội.
Hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế cũng như hiệu quả
kinh tế của bất kỳ hoạt động kinh tế nào được biểu hiện ở mối tương quan giữa
kết quả sản xuất và chi phí sản xuất mới chỉ đặc trưng được mặt lượng của hiệu
quả kinh tế. Cùng với sự biểu hiện về mặt số lượng hiệu quả kinh tế của bất kỳ
hoạt động kinh tế nào còn có tính chất lượng. Tính chất lượng của hiệu quả là
tiêu chuẩn của hiệu quả. Tiêu chuẩn là căn cứ cơ bản và chủ yếu để nhận thức rõ
thực tế khách quan, đảm bảo nhận thức chính xác sự vật hoặc hiện tượng nghiên
cứu và phân biệt chúng đúng sai.
Khi xác định hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế cần phải tính toán
hiệu quả của tất cả các chi phí lao động xã hội không phải chỉ ở từng khâu riêng
biệt của chi phí lao động xã hội mà tất cả các khâu của nền kinh tế quốc dân có
liên quan không chỉ tính bởi các kết quả những lợi ích về mặt kinh tế mà còn
phải tính toán đến tất cả các phương diện chính trị xã hội. Như vậy khi xem xét
hiệu quả kinh tế của kinh doanh thương mại quốc tế không những phải nắm
vững tiêu chuẩn hiệu quả mà còn quán triệt quan điểm toàn diện.
Tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh trong thương mại quốc tế được biểu hiện
gián tiếp thông qua một hệ thống chỉ tiêu. Nếu tiêu chuẩn biểu hiện mặt chất
lượng của hiệu quả thì hệ thống chỉ tiêu đặc trưng số lượng của hiệu quả kinh tế
của doanh nghiệp thương mại quốc tế.
2-/ Phân loại hiệu quả kinh tế.
Trong công tác quản lý phạm trù hiệu quả kinh tế của kinh doanh thương
mại quốc tế được biểu hiện những đặc trưng ý nghĩa cụ thể khác nhau. Việc

phân loại hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế theo những tiêu
thức khác nhau có tác dụng thiết thực trong công tác quản lý thương mại. Nó là
cơ sở để xác định các chỉ tiêu, mức hiệu quả và những biện pháp nâng cao hiệu
quả trong kinh doanh thương mại quốc tế.
a. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân.

23
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động kinh
doanh của từng doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Biểu hiện chung của hiệu quả cá
biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Hiệu quả kinh tế - xã hội mà kinh doanh thương mại quốc tế đem lại cho
nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc tế vào việc
phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế tăng năng suất lao động,
b. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong
những điều kiện cụ thể về tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật trình độ tổ chức
và quản lý lao động quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của
mình với một chi phí cá biệt nhất định và với mục đích là thu được lợi nhuận lớn
nhất.
Suy cho đến cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội. Nhưng tại mỗi
doanh nghiệp mà chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phí đó lại được thể hiện
dưới các dạng chi phí cụ thể như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động sống,
chi phí hao mòn máy móc thiết bị, chi phí ngoài sản xuất, Bản thân mỗi loại
chi phí trên lại có thể được phân chia chi tiết tỉ mỉ hơn. Đánh giá hiệu quả kinh
tế hoạt động xuất khẩu không thể không đánh giá hiệu quả hoạt động tổng hợp
của các loại chi phí trên đây nhưng lại cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng
loại chi phí.
c. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể
bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Người ta xác

định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào
đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục
tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương
vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải
bỏ chi phí, chi với một lượng lớn hay nhỏ đều phải tính toán hiệu quả tuyệt đối.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác hiệu quả so sánh chính là
mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Mục đích chủ yếu của
việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án để từ đó cho
phép lựa chọn một phương án có hiệu quả cao nhất.
3-/ Các chỉ tiêu hiệu quả.
a. Chỉ tiêu về lợi nhuận.
24
Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh ở
công ty. Lợi nhuận là mục đích của kinh doanh là chỉ tiêu hiệu quả có tính chất
tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Tính toán lợi
nhuận có liên quan đến tính toán doanh thu và chi phí.
• Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Tổng doanh thu là tonà bộ số tiền thu được qua việc bán hàng hoá hoặc
dịch vụ trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Tổng chi phí gồm chi phí lưu thông, chi phí cho hoạt động dịch vụ tiền bị
phạt, các chi phí khác, trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).
• Lợi nhuận xuất nhập khẩu:
Lợi nhuận = ∑ pqt - ∑ F
P : là đơn giá hàng xuất (nhập) khẩu.
q : là khối lượng hàng xuất (nhập) khẩu.
t : là tỉ giá hối đoái ở thời điểm thanh toán.
F : là chi phí xuất (nhập) khẩu.
b. Mức doanh lợi xuất khẩu:
D

x
= x 100%
Trong đó:
D
x
: doanh lợi xuất khẩu.
T
x
: thu nhập về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển
đổi ra tiền Việt Nam theo tỉ giá công bố của Ngân hàng ngoại thương (sau khi
trừ mọi chi phí bằng ngoại tệ).
C
x
: tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
c. Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu
được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho
việc sản xuất bằng hàng hoá xuất khẩu đó (giá trị dân tộc của hàng hoá).
H
x
=
Trong đó:
H
x
: hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu.
T
x
: doanh thu (tính bằng ngoại tệ do xuất khẩu đơn vị hàng hóa, dịch vụ).
C
x

: tổng chi phí của việc sản xuất đơn vị sản phẩm xuất khẩu bao
gồm cả vận tải đến cảng suất (giá trong nước).
25

×