Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại tổng công ty xây dựng hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.35 KB, 69 trang )

LLỜI MỞ ĐẦU
Thực tế phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới cho ta thấy rõ một điều
rằng không có một nền kinh tế của một quốc gia nào có thể phát triển toàn diện
mà không có cơ sở vật chất kỹ thuật bền vững. Vì vậy hoạt động đầu tư là một
nhân tố cơ bản quan trọng quyết định tới chất và lượng của hệ thống cơ sở hạ
tầng nền kinh tế, là chìa khóa vàng của sự tăng trưởng đất nước.
Nước ta đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập nền kinh tế quốc tế, đầu tư
trong xây dựng được coi là cơ sở tiền đề để các ngành các lĩnh vực khác phát
triển. Tốc độ đầu tư tại các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế tăng
mạnh trong các năm qua. Trong quá trình thực tập tại Tổng công ty xây dựng Hà
Nội, em thấy Tổng công ty xây dựng Hà Nội là một trong những Tổng công ty
lớn nhất về xây dựng đã tạo lập thành công nhiều công trình cơ sở vật chất kỹ
thuật cho đất nước.
Là một sinh viên chuyên ngành quản lý kinh tế em đã tìm hiểu tình hình
đầu tư tại Tổng công ty xây dựng Hà Nội để có được cái nhìn tổng quan về hoạt
động đầu tư tại Tổng công ty và qua đó cũng giúp em nắm bắt được kiến thức
thực tế nhiều hơn. Từ đó củng cố được những kiến thức đã học ở trường lớp.
Thông qua quá trình thực tập em chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động đầu tư tại Tổng công ty xây dựng Hà Nội”. Với thời gian
thực tập có hạn, chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em còn có nhiều thiếu sót, em
rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các cán bộ, nhân viên của
Tổng công ty xây dựng Hà Nội và PGS-TS Phan Kim Chiến giảng viên trực tiếp
hướng dẫn em đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
1
PHẨN I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
I. Lý luận chung về hoạt động đầu tư.
1. Khái niệm phân loại hoạt động đầu tư.
1.1. Khái niệm về hoạt động đầu tư.


Đầu tư được thể hiện qua 2 hàm nghĩa:
Xét theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về
cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó là sự tăng thêm các tài sản tài
chính (tiền vốn) , tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất
khác ) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn
trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và
nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không
chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này
không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Xét theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn những nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng
các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân
2
lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực
sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
1.2. Phân loại và đặc điểm của đầu tư.
* Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại đầu tư được phân
thành các loại sau:
- Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính): là loại đầu tư trong đó người
có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định
trước (gửi tiết kiệm hoặc mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất phụ thuộc vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái
phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị
tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư .Với sự hoạt động của đầu tư tài

chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút một cách
nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Để giảm sự rủi
ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là nguồn cung cấp
vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
- Đầu tư thương mại: là đầu tư người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá
và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch giá khi mua và khi
bán. Loại đầu tư này không taọ ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng
tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua bán lại, chuyển giao
quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với
khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình
lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư, tăng
thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ
nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
3
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: trong đó người có tiền bỏ tiền ra
để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu
để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là
việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm
trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Loại đầu tư này gọi chung là đầu tư phát triển.
*Xét theo cơ cấu tái sản xuất có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư
theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng vốn
lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu
hồi vốn đủ lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo
chiều sâu đòi hỏi vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm
thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
*Theo phân cấp quản lý, điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo nghị
định số 12/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 phân thành 3 nhóm A, B, C tùy

thuộc vào tính chất quy mô của dự án, trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ
quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng , Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan
trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
*Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư, có thể phân chia
các hoạt động đầu tư thành đàu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát
triển khoa họ kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở vật chất hạ tầng (kỹ thuật và xã
hội)…Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Chẳng hạn đầu
tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát
triển sản xuất kinhh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển
khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác.
4
*Theo đặc điểm hoạt động và các kết quả đầu tư, các hoạt đọng đầu tư được
phân chia thành:
Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định
Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm các tài sản lưu động cho các cơ
sở hiện có, duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các
doanh nghiệp.
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện
cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành
thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư
cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài
hạn, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng
các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn thu hồi lâu (nếu có thể thu
hồi).
Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm của
quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa ra các kết quả nói chung vào
hoạt động.
*Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã

hội có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư thương mại và đầu tư sản
xuất.
Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và
hoạt động đầu tư để thu hồi đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp
do thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ
chính xác cao.
5
Đầu tư sản xuất là loại dầu tư dài hạn , vốn đầu tư lớn , thu hồi chậm, thời
gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu
tư phức tạp và phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai
không thể dự đoán hết và dự doán chính xác được (về nhu cầu, đầu ra đầu vào ,
cơ chế, chính sách …). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự
đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong
tương lai xa, xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm
bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư
hoạt động hết đời của mình.
Trong tế người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại.
Tuy nhiên trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật
chất cụ thể một cách trực tiếp, những gia trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ
là sự phân phối lại thu nhập giữa các nghành, các địa phương, các tầng lớp dân
cư trong xã hội.
Do đó trên giác độ điều tiết vĩ mô, Nhà nước thông qua các cơ chế chính
sách của mình để làm sao để hướng được các nhà đầu tư vào lĩnh vực thương
mại mà còn cả lĩnh vực sản xuất, theo định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong cả nước .
*Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của
các kết quả đầu tư. Có thể phân chia thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư thương
mại), đầu tư dài hạn (như đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng cơ sở hạ
tầng, đầu tư trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật…)
* Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành đầu

tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều
hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các
6
chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại với lãi suất thấp cho
các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội, là việc các cá
nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu trái phiếu… để hưởng
lợi tức (gọi là đầu tư tài chính).
Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều
hành quá trình thực hiện và vận hành quá trình đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được
phân thành hai loại: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
* Theo nguồn vốn
- Vốn huy động trong nước: vốn tích lũy của Ngân sách, của doanh
nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư.
- Vốn huy động từ nước ngoài: vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Phân loại này cho thấy tình hình huy động từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi
nguồn vốn đối với phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương.
* Theo vùng lãnh thổ ( theo tỉnh và vùng kinh tế của đất nước).
Cách phân loại này thể hiện tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng
kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế xã hội ở
từng địa phương.
II. Hiệu quả của hoạt động đầu tư.
1. Khái niệm về hiệu quả đầu tư.
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các
mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kêt quả đó
trong những điều kiện nhất định. Những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt
chẽ vào mục tiêu hoạt động của mỗi cấp.
Để xác định hiệu quả đầu tư cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả
7

Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục
tiêu khác nhau thì tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, khi mục tiêu thay đổi thì tiêu
chuẩn hiệu quả cũng thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo để
thực hiện mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một phương án nào đó luôn luôn dựa trên phân
tích mục tiêu. Phương án nào có có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều
nhất vào việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
* Nguyên tắc thống nhất giữa các lợi ích
Theo nguyên tắc này, một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết
hợp trong đó các loại lợi ích. Bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp và lợi ích
xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét trong
phân tích hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Theo nguyên tắc “lợi
ích”, hiệu quả tài chính không thể thay thế cho hiệu quả kinh tế quốc dân và
ngược lại trong việc quyết định cho ra đời một phương án hành động của doanh
nghiệp.
Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài: không thể hy sinh lợi ích lâu dài để
lấy lợi ích trước mắt. Kết hợp đáng đắn giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài
là phương án được coi là có hiệu quả. Trong quan hệ giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài thì lợi ích lâu dài là cơ bản.
Về kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cũng như lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần. Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án cần đặt trong mối
quan hệ với phân tích với các lợi ích khác mà phương án mang lại. Bất kỳ một
sự hy sinh nào đều giảm hiệu quả chung của phương án đó. Trong đại bộ phận
các trường hợp, lợi ích xã hội đóng vai trò quyết định
8
* Nguyên tắc về chính xác và khoa học
Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dựa trên một hệ thống các
chỉ tiêu có thể lượng hóa được và không thể lượng hóa được, tức là phải kết hợp

phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Không thể thay thế phân
tích định lượng bằng phương pháp phân tích định tính khi phân tích định lượng
chưa đủ để đảm bảo chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng
như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính toán hiệu quả phải được
xác định chính xác, tránh chủ quan tùy tiện.
* Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế
Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả
kinh tế phải được dựa trên cơ sở các thông tin thực tế, đơn giản và dễ hiểu.
Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy đủ các
thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác.
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau. Ta xét một số loại hiệu quả mà trên góc độ chủ thể nhận
được kết quả (lợi ích) và bỏ chi phí để đạt được kết quả đó, có khái niệm hiệu
quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân.
2. Phân loại hiệu quả đầu tư.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và nghiên cứu kinh tế, các nhà
kinh tế đã phân loại hiệu quả đầu tư theo các tiêu thức sau:
-Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ
thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả quốc phòng.
-Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư của dự án của
từng dự án, từng doanh nghiệp, từng nghành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
9
-Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu
quả tài chính hay còn được gọi là hiệu quả hạch toán kinh tế là hiệu quả kinh tế
được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt
động đầu tư còn được gọi là hiệu quả tổng hợp được xem xét trên toàn bộ nền
kinh tế.
-Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và

hiệu quả gián tiếp.
-Theo cách tính toán có hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Hiệu
quả tuyệt đối trong đầu tư được tính bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, hiệu
quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí.
Trong phần nghiên cứu này em đi sâu nghiên cứu trên giác độ lợi ích đó
là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
2.1.Hiệu quả tài chính trong hoạt động đầu tư
2.1.1. Khái niệm: Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh
doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một
doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi
ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp,
những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực
tiếp.
Hiệu quả tài chính được ký hiệu là E
tc
của hoạt động đầu tư là mức độ đáp
ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời
sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở
vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với
định mức chung. Chúng ta có thể biểu diễn khái niệm qua công thức sau.
10
Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư
E
tc
=
Số vốn đầu tư mà cơ sở thực hiện để tạo ra các kết quả trên
Trong đó:
E
tc

là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đạt
được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải
sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu
quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Trong đó chỉ tiêu biểu
hiện bằng tiền là được thể hiện một cách rộng rãi nhất. Tuy nhiên tiền có giá trị
thay đổi theo thời gian nên sử dụng các chỉ tiêu bằng tiền phải đảm bảo tính so
sánh về mặt giá trị theo thời gian với việc sử dụng tỷ suất sinh lời được xác định
tùy vào nguồn vốn huy động
2.1.2. Các tiêu chuẩn xác định hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư
* Đối với dự án đầu tư
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án gồm có:
- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án.
Đây là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi
nhuận thuần tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động của
từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần phản ánh hiệu quả hoạt động
của toàn bộ công cuộc đầu tư (quy mô lãi của cả đời dự án). Các chỉ tiêu này có
thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai.
-Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư còn gọi là hệ số thu hồi vốn đầu
tư.
11
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm
Wipv
Ivo
RRi
 
=
 ÷
 
trên

một đơn vị vốn đầu tư và mức thu nhập thuần tính trên một đơn vị vốn đầu tư
NPV
npv
Ivo
 
 ÷
 ÷
=
 ÷
 ÷
 
Trong đó:
I
vO
:Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại( dự án bắt đầu đi vào hoạt động)
W
IPV
: Lợi nhuận thuần năm I tính chuyển về thời điểm hiện tại
NPV: Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại
-Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có (
re
)
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần hàng năm tính trên một đơn vị vốn
tự có của năm đó

i
i
w
E
Ei

r =
trong đó:
Ei
r
:Tỷ suất sinh lời vốn năm i
i
E
: Vốn tự có bình quân năm i
i
w
:Lợi nhuận thuần năm i
Nếu tính cho cả đời dự án chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần cho cả đời
dự án tính trên một đơn vị vốn tự có bình quân năm và cả đời dự án .

E
PV
NPV
npv
E
=
-Chỉ tiêu số vòng quay của vốn lưu động
12
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn đầu tư, vốn lưu động quay vòng càng
nhanh càng cần ít vốn và trong điều kiện khác không đổi. Công thức tính chỉ
tiêu này như sau:

ci
W
ci
W

i
o
L =
Trong đó
O
i
: Doanh thu thuần năm i
W
Ci
:Vốn lưu động bình quân năm i của dự án
Hoặc
c
pv
W
c
W
pv
O
L =
Trong đó:
pv
O
: Doanh thu thuần bình quân năm I của dự án
pv
c
W
: Vốn lưu động bình quân năm của cả đời dự án
- Chỉ tiêu tỷ số lợi ích trên chi phí ký hiệu
B
C

 
 ÷
 
Chỉ tiêu này phản ánh giữa lợi ích thu được với chi phí bỏ ra, dự án có hiệu quả
khi
1
B
C

.Dự án không có hiệu quả khi
1
B
C
<
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư
Chỉ tiêu này cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã
bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T


tuổi thọ của dự án hoặc T

T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì
hiệu quả của dự án càng cao
- Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ ký hiệu IRR
Hệ số hoàn vốn nội bộ là lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính
chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu
13
cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR

r giới hạn. Dự án không có

hiệu quả khi IRR< r giới hạn. Tỷ suất giới hạn được xác định căn cứ vào các
nguồn vốn huy động của dự án. Chẳng hạn dự án vay vốn đầu tư, tỷ suất giới
hạn là mức lãi suất vay, nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư tỷ suất giới hạn là mức
chi phí cơ hội của vốn, nếu huy động vốn tù nhiều nguồn thì tỷ suất giới hạn là
mức lãi suất bình quân của các nguồn huy động.vv….
- Chỉ tiêu điểm hòa vốn
Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi
phí bỏ ra. Điểm hòa vốn được biểu hiện bằng chỉ tiêu hiện vật (sản lượng tại
điểm hòa vốn) và các chỉ tiêu giá trị (doanh thu tại điểm hòa vốn). Nếu sản
lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hòa
vốn thì dự án có lãi (có hiệu quả) và ngược lại và nhỏ hơn dự án bị lỗ (không có
hiệu quả). Điểm hòa vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao,
thời gian thu hồi vốn càng ngắn hạn.
* Đối với doanh nghiệp
Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của đầu tư được tính như sau:
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư)
Tính cho từng năm :
m m
j i
j=1 1
W W
i
j
i i
i
vb vr ve Vhd
RR
I I I I
=
   

 ÷  ÷
   
= =
+ −
∑ ∑
trong đó:
W
j
:Lợi nhuận thuần của dự án j
Tổng lợi nhuận thuần của các dự án hoạt động năm i
I
vb
:Vốn đầu tư thực hiện nhưng chưa phát huy tác dụng đầu năm của doanh
nghiệp
I
vr
:Vốn đầu tư thực hiện trong năm của doanh nghiệp
14
I
ve
: Vốn đầu tư chưa phát huy được tác dụng ở cuối năm của doanh nghiệp
+Tính bình quân

Pv
vhdpv
W
I
RR =
I
vhdvp

: Vốn đầu tư phát huy đựơc tác dụng bình quân năm thời kỳ nghiên cứu
được tính theo cùng mặt bằng cùng lợi nhuận thuần.
W
PV
:Lợi nhuận bình quân năm của thời kỳ nghiên cứu tính theo giá trị của mặt
bằng hiện tại của tất cả các dự án hoạt động trong kỳ.
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời tăng thêm của vốn tự có của doanh nghiệp do đầu tư
từng năm hoặc bình quân năm trong thời kỳ nghiên cứu.
( )
t
E
r∆
( )
1
0
i i i
E E E
r r r K

∆ = − >
( )
1
0
t
E E
t t
E
r r r K

∆ = − >

Trong đó:
K - Hệ số mức ảnh hưởng của đầu tư
i - Năm nghiên cứu
i-1: Năm trứơc năm nghiên cứu
t - Thời kỳ nghiên cứu
t-1: Thời kỳ trước thời kỳ nghiên cứu
- Chỉ tiêu số lần quay vòng tăng thêm của vốn lưu động từng năm hoặc bình
quân năm
( )
WCt
L∆
thời kỳ nghiên cứu:
( )
WCi
W W 1
0
Ci Ci
L L L K

∆ = − >
( )
W W 1
W
0
Ct Ct
Ct
L L L K

∆ = − >
-Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm kỳ nghiên cứu (t) so với kỳ trước (t-1)

15
( )
1
0
t t
T T T K

∆ = − <
- Chỉ tiêu mức hoạt động hoà vốn giảm
1
0
t t
xp xp xp
K
XP XP XP

 
   
∆ = − <
 ÷  ÷
 
   
 
- Mức tăng năng suất lao động của doanh nghiệp từng năm hoặc bình quân năm
thời kỳ nghiên cứu so với trước thời kỳ do đầu tư
( )
1
0
Li Li Li
E E E K


∆ = − >
( )
1
0
Lt Lt
Lt
E E E K

∆ = − >
Trong đó :
Lt
E∆
: Mức tăng năng suất lao động bình quân năm thời kỳ t so với thời kỳ (t-1)
Li
E∆
: Mức tăng năng suất lao động năm i so với năm (i-1)
2.1.3. Các phương pháp phân tích hiệu quả tài chính
Phương pháp phân tích đầu tư đơn trong điều kiện an toàn
Nôi dung của phần này tập trung vào việc đánh giá lợi ích tuyệt đối và
tương đối của dự án đầu tư hay lựa chọn phương án đầu tư tối ưu khi có nhiều
phương án loại bỏ nhau.Và có các phương pháp sau:
-Các phương pháp phân tích hiệu quả tài chính giản đơn:
+Phương pháp hệ số hoàn vốn giản đơn
+Phương pháp thời gian hoàn vốn
-Các phương pháp giá trị tương đương
+Phương pháp giá trị hiện tại thuần
+Phương pháp giá trị hiện tại thuần hàng năm
+Phương pháp giá trị tương lai
-Phương pháp tỉ suất hoàn vốn nội bộ

-Phương pháp tỉ số lợi ích
16
-Phương pháp hoàn vốn đã được chiết khấu
Các phương pháp phân tích đầu tư đơn trong điều kiện không an toàn.
-Phương pháp phân tích điểm hòa vốn
-Phương pháp phân tích độ nhạy cảm
-Phương pháp xác suất
Nhận xét: Các phương pháp này chỉ cho ta những kết luận chính xác trong
điều kiện những số liệu về lợi ích và chi phí của dự án được dự đoán một cách
chắc chắn, môi trường hoạt động của dự án ít biến động
2.2. Hiệu quả kinh tế quốc dân
2.2.1. Khái niệm: Hiệu quả kinh tế quốc dân được hiểu là hiệu quả kinh tế xã hội
là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể được
hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ mà người đại diện cho nó là Nhà
nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội
xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu
quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước,
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải được xem
xét từ hai góc độ người đầu tư và nền kinh tế.
Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp thì mục đích cụ thể thì có
nhiều, nhưng quy tụ lại là doanh thu lợi nhuận. Khả năng sinh lời của dự án là
thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu
tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư vào đó. Tuy
nhiên không phải mọi hoạt dộng đầu tư có khả năng sinh lời đều tạo ra những
ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế xã hội. Do đó trên góc độ quản lý vĩ mô
cần xem xét về mặt kinh tế xã hội của nhà đầu tư, xem xét những lợi ích xã hội
do hoạt động đầu tư mang lại. Điều này giữ vai trò quan trọng để các cấp có
17
thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội của đầu tư là sự

chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với sự đóng góp
mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra để thực hiện hoạt động đầu tư. Những lợi
ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của hoạt động đầu tư đối với việc
thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, các chủ trương chính sách của Nhà nước
như : góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh… Ngoài ra cũng có
thể được đo lường bằng mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có
việc làm, mức tăng thu ngoại tệ. Chi phí mà xã hội phải gánh chịu trong hoạt
động đầu tư được thực hiện bao gồm : tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất,
sức lao động… mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng vào công việc khác
trong tương lai không xa.
2.2.2. Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân
Đối với mọi quốc gia, mục tiêu chủ yếu của nền sản xuất xã hội là tối đa
hoá phúc lợi. Mục tiêu này thường được thể hiện qua các chủ trương chính sách
và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Các kế hoạch dài hạn đề ra
phương hướng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược trong thời gian dài (từ 10 năm trở
lên). Các kế hoạch trung hạn nêu lên các bước đi tương đối cụ thể trong thời
gian từ 5 năm đến 10 năm. Các kế hoạch hay chương trình kinh tế ngắn hạn
được đưa ra nhằm điều chỉnh kịp thời các sai lệch cũng như bổ sung các khiếm
khuyết phát hiện trong quá trình thực hiện kế hoạch. Ở nước ta đang phát triển,
các mục tiêu chủ yếu được đề cập trong kế hoạch phát triển dài hạn được đo
lường bằng các tiêu chuẩn sau:
- Nâng cao mức sống dân cư : Được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ
thể về mức tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
18
- Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đống góp của công
cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh
công bằng xã hội.
- Gia tăng số lao động và việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu

của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động thiếu việc
làm.
- Tăng thu và giảm tiết kiệm ngoại tệ : Những nước đang phát triển không chỉ
nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu hạn chế nhập khẩu
là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia
này.
- Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác là:
Tận dụng hay khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới được phát hiện
Nâng cao năng suất lao động , đào tạo lao động có trình đọ tay nghề cao, tiếp
nhận chuyển giao kỹ thuật để hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nênf kinh tế.
- Phát triển các nghành công nghiệp chủ đạo có tác dụng gây phản ứng dây
chuyền thúc đẩy phát triển các nghành nghề khác.
- Phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa
thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế .
*Mục tiêu của việc phân tích hiệu quả kinh tế xã hội
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng kế hoạch của
mình, tuy mức độ và cách thức can thiệp của nhà nước vào quá trình lập và thực
hiện kế hoạch có khác nhau. Ở một số nước, Nhà nước chỉ xây dựng các kế
hoạch định hướng. Ở một số nước khác, Nhà nước ẩn định các chỉ tiêu kế hoạch.
Dù là trong điều kiện kế hoạch định hướng hay kế hoạch mệnh lệnh, khi
xem xét lợi ích kinh tế xã hội do dự án đem lại đều phải xác định vị trí của dự án
trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân. Nói cách khác phải xem xét việc
19
thực hiện dự án có đóng góp gì cho việc kế hoạch kinh tế quốc dân (dự án có sản
xuất loại sản phẩm thuộc diện ưu tiên kế hoạch hay không? Dự án có phục vụ
cho việc sản xuất các sản phẩm thuộc diện ưu tiên hay không?). Tiếp đến là xem
xét mức độ đóng góp cụ thể của dự án vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của đát nước thông qua hệ thống các chỉ tiêu định lượng như mức
đóng góp cho ngân sách, mức tiết kiệm ngoại tệ cho nền kinh tế, số lao động có
việc làm nhờ việc thực hiện dự án.

*Các phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư.
Việc các định đúng đắn giá trị kinh tế phần nào góp phần vào việc đánh giá
chính xác hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu tư. Phần còn lại là áp dụng các
phương pháp phân tích hiệu quả cho phù hợp để lựa chọn được những dự án có
những đóng góp lớn nhất vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra.
+ Xuất phát góc độ các nhà đầu tư.
Dưới góc độ của nhà đầu tư, lợi ích kinh tế của dự án được xem xét biệt
lập với các tác động của nền kinh tế đối với dự án như : trợ giá đầu vào, bù giá
đầu ra của Nhà nước… Phương pháp được áp dụng là dựa vào trực tiếp số liệu
của các báo cáo tài chính của dự án đầu tư để tính các chỉ tiêu định lượng và
thưc hiệc các xem xét mang tính định tính sau đây :
Thứ nhất, mức đóng góp chi ngân sách Nhà nước, đó là các khoản nộp
vào ngân sách khi các dự án đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động như thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế đất, lệ phí chuyển tiền… từng năm và
cả đời dự án.
Thứ hai, số chỗ làm việc tăng lên từng năm hoặc cả đời dự án (tổng số và
tính bình quân trên một đơn vị vốn đầu tư).
Phương pháp tính như sau :
Số lao động tăng thêm = Số lao động thu hút thêm – Số lao động mất việc làm
20
Thứ ba, số ngoại tệ thu được từ hoạt động đầu tư từng năm và cả đời dự
án ( tổng số và tính bình quân trên một đơn vị vốn đầu tư ).
Phương pháp tính như sau :
Số ngoại tệ thực thu = Tổng thu ngoại tệ - Tổng chi ngoại tệ
Thứ tư, mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu
tư từng năm và cả đời dự án.
Thư năm, mức năng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động : thể
hiện ở các chỉ tiêu bậc thợ bình quân thay đổi sau khi đầu tư so với trước khi đầu
tư và mức thay đổi này tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
Thư sáu, tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường. Công thức

tính như sau :
Mức độ chiếm Doanh thu do bán sản phẩm của cơ sở tại thị trường này
lĩnh thị trường =
do đầu tư Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cùng loại tại thị trường này
Thứ bảy, nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất : thể hiện ở mức thay đổi
cấp bậc công việc bình quân sau khi đầu tư tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
Thứ tám, nâng cao trình độ quản lý của lao động quản lý : thể hiện ở sự
thay đổi mức đảm nhiệm quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài sản cố
định của lao động quản lý sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư.
Thứ chín, các tác động đến môi trường sinh thái.
Thứ mười, đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của đát nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
trong từng thời kỳ.
+ Xuất phát từ góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước của địa phương và của
ngành.
21
Đối với cấp quản lý vĩ mô của Nhà nước, của địa phương và của ngành,
khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của đầu tư phải tính đến mọi chi phí trực tiếp
và gián tiếp có liên quan đến việc thực hiện đầu tư (chi phí đầy đủ), mọi lợi ích
trực tiếp và gián tiếp (lợi ích đầy đủ) thu được do dự án đem lại.
Chi phí ở đây bao gồm chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành
và của đất nước. Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao
động, địa phương và cả nền kinh tế được hưởng.
Để xác định các chi phí, lợi ích đầy đủ của các công cuộc đầu tư phải sử
dụng các báo cáo tài chính, tính lại các đầu vào và đầu ra theo giá xã hội (giá ẩn,
giá tham khảo). Không sử dụng giá thị trường để tính chi phí và lợi ích kinh tế
xã hội vì giá thị trường chịu sự chi phối của các chính sách tài chính, kinh tế của
Nhà nước. Do đó, giá trị thị trường không phản ánh đúng chi phí xã hội thực tế.
Tiền lương thường không phản ánh đúng năng suất lao động mà thường thấp
hơn (có nơi, có lúc cao hơn) trong khi giá của một số yếu tố khác lại quá cao.

Vì vậy khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những công cuộc đầu tư
có tầm cỡ lớn, bao quát một vùng, một ngành rộng lớn hay quan trọng đối với
nền kinh tế thì phải điều chỉnh lại các giá này theo chi phí xã hội, phải lưu ý đến
các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến dự án và ngược lại.
Để giảm nhẹ quá trình tính toán, các khoản thu chi chiếm tỷ trọng nhỏ,
những giá thị trường của các đầu vào, đầu ra khác biệt ít với chi phí xã hội thì
không cần điều chỉnh.
Nhận xét: Đưa ra các phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân đó
chính là cơ sở để đưa ra quyết định đầu tư. Phân tích kinh tế xã hội là đánh giá
các tác động của dự án đối với nền kinh tế quốc dân, cân nhắc đầy đủ chi phí và
lợi ích của dự án xét trên quan điểm toàn bộ nền kinh tế, ở đây dự án được đánh
giá tùy theo sự đóng góp của nó cho mục tiêu phát triển khác nhau của đất nước.
22
*Mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc của những
nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại
diện là Nhà nước. Hiệu quả tài chính được xét theo quan điểm toàn thể
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ
giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
Đó là mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
23
PHẨN II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TẠI TỔNG
CÔNG TY XÂY DỰNG HÀ NỘI
I. Vài nét về Tổng công ty xây dựng Hà Nội
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng công ty xây dựng Hà Nôi
Tổng công ty xây dựng Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc
Bộ xây dựng được thành lập vào năm 1958, với gần 50 năm kinh nghiệm công
ty đã trở thành một trong những tổng công ty hàng đầu tại Việt Nam được tín
nhiệm và có định hướng phát triển hiệu quả.

Hiện nay Tổng công ty xây dựng với bề dày kinh nghiệm thực tế, sự hiểu
biết và kỹ năng tích luỹ được trong gần 50 năm đang dẫn đầu trong công cuộc
tôn tạo cảnh quan tự nhiên và môi trường chúng ta đang sống hôm nay và mai
sau. Tạo dựng cơ sở tương lai để nghành xây dựng phát triển.
Công trình tôn tạo đất nước ta không chỉ đòi hỏi sâu sắc tri thức kỹ thuật
hoặc kỹ năng về thiết kế kiến trúc mà còn là một hệ thống quan điểm về cuộc
sống.
Duy trì với ý tưởng trên, Tổng công ty xây dựng Hà Nội luôn mong muốn
đem vốn kiến thức và kinh nghiệm của mình để mở một hướng mới trong việc
tạo lập cơ sở kết tầng hạ tầng hiện đại, xây dựng những trung tâm thương mại,
trung tâm công nghiệp và các khu đô thị góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng
nền kinh tế nước nhà, nhằm đuổi kịp và vượt sự phát triển của các nước trong
khu vực và thế giới.
Duy trì vị trí hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng và đáp ứng kịp thời những
đòi hỏi của thời kỳ phát triển Tổng công ty không ngừng nâng cao trình độ,
đồng thời áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất trong hoạt động của mình.
24
Đạt được những thành tích to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước, nhiều tập thể cá nhân của tổng công ty xây dựng Hà Nội vinh dự được
Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương cao quý, tiêu biểu là các tập thể:
* Tổng công ty xây dựng Hà Nội: Huân chương lao động hạng nhất năm
1995.
* Công đoàn tổng công ty xây dựng Hà Nội : Huân chương lao động hạng
III năm 1995.
* Tổng công ty xây dựng Hà Nội : Huân chương độc lập hạng III năm
2002 và Huân chương độc lập hạng II năm 2004.
* Nhiều bằng khen và cờ của Chính phủ và Bộ xây dựng tặng.
* Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 9001-2000
Sự ra đời và phát triển của Tổng công ty xây dựng Hà nội gắn liền với sự phát
triển của đất nước của thời kỳ mở cửa, đã tạo lập được các cơ sở kết cấu hạ tầng

hiện đại, xây dựng được các trung tâm thương mại, khu công nghiệp và các khu
đô thị lớn, điều đó đã góp phần vào việc thay đổi bộ mặt của đất nước là nền
tảng cho các lĩnh vực kinh tế khác phát triển
2. Giới thiệu chung về tổng công ty xây dựng Hà Nội
2.1.Tên doanh nghiệp : TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG HÀ NỘI
-Mã số thuế: 0100106338.
-Tên giao dịch bằng tiếng Anh.
HANOI CONSTRUCTION CORPORATION
-Tên viết tắt: HACC.
-Năm bắt đầu sản xuất kinh doanh:1995.
2.2. Địa chỉ doanh nghiệp.
*Trụ sở chính: 57 Quang Trung, Quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội .
Số điện thoại: 04.8226660
25

×