Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.38 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN ĐƯỜNG

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN
CÁC TRƯỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2022


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN ĐƯỜNG

GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN
CÁC TRƯỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Ngành: CNDVBC & DVLS
Mã số: 9 22 90 02

Nguời hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS. Vũ Đức Khiển
2: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn

HÀ NỘI - 2022




LỜI CAM Đ OAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
TÁC IẢ LUẬN ÁN


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
A. MỞ Đ ẦU............................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 7
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI.......................................................................................................... 7
1.1. Những cơng trình nghiên cứu về lý luận giáo dục chủ nghĩa yêu nước..................7
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục chủ nghĩa u
nước................................................................................................................ 20
1.3. Những cơng trình nghiên cứu về giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
học viên Công an nhân dân............................................................................. 25
1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu................................................ 34
Tiểu kết chương 1.................................................................................................. 37
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA
YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAM......38
2.1. Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.......................................................... 38
2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên
Công an nhân dân hiện nay........................................................................................... 46
2.3. Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên Cơng an nhân
dân

hiện nay........................................................................................................... 52
2.4. Những hình thức chủ yếu trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên
Công an nhân dân hiện nay............................................................................. 63
2.5. Những nhân tố chủ yếu tác động đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên Công an nhân dân hiện nay..................................................................... 71
Tiểu kết chương 2.................................................................................................. 79
Chương 3 GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN CÁC
TRƯỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAM : THỰC TRẠNG , THÀNH TỰU VÀ MỘT SỐ HẠN CHẾ80
3.1. Khái quát một số đặc điểm của Thành phố Hồ Chí Minh và các trường
Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay................................... 80
3.2. Thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay................................................ 89
3.3. Những thành tựu và nguyên nhân thành tựu trong giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay........................................................................................................... 99
3.4. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay 105
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 115
Chương 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂN CAO HIỆU QUẢ GIÁO


DỤC CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN CÁC TRƯỜNG
CÔNG AN NHÂN DÂN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAM. .116
4.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức cho các chủ thể về giáo dục chủ nghĩa
yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay................................................................................... 117
4.2. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp, phương tiện
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng

an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.......................................... 133
Tiểu kết chương 4................................................................................................ 151
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 152
DANH MỤC CÁC CƠN TRÌNH N HIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ
CƠNG BỐ CỦA TÁC G IẢ LIÊN QUAN Đ ẾN LUẬN ÁN..............155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 156


A. MỞ Đ ẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho học viên các trường Cơng an nhân dân nói chung và giáo dục
chủ nghĩa yêu nước nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giáo dục, đào tạo của các
trường Cơng an nhân dân, giữ vai trị chủ đạo trong việc góp phần hình thành và phát triển ở học viên nhân cách
của người cán bộ, chiến sỹ Cơng an nhân dân. Từ đó góp phần đào tạo, cung cấp, bổ sung đủ nguồn nhân lực có
chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu của toàn lực lượng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, thế giới đang trải qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường:
xung đột dân tộc, tơn giáo, khủng bố quốc tế, chiến tranh kinh tế, chiến tranh mạng, các hoạt động can thiệp, tranh
chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên… diễn ra dưới những hình thức mới, gay gắt hơn. Những vấn đề toàn cầu
và an ninh phi truyền thống như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an
ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… diễn biến nghiêm trọng. Để phát triển đất nước, Việt Nam đang
mở cửa hội nhập, giao lưu hợp tác phát triển kinh tế đã mang lại cho đất nước nhiều thành tựu to lớn. Nhưng đất
nước cũng chịu ảnh hưởng bởi những tác động từ bên ngoài như mặc trái của nền kinh tế thị trường: phân hóa giàu nghèo, tham nhũng, tội phạm, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý;
các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang ngày đêm ra sức chống phá Đảng, Nhà nước bằng những âm mưu,
phương thức, thủ đoạn và đặc biệt là chiến lược “diễn biến hịa bình” nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam… các nhân tố trên đã tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
học viên các trường Cơng an nhân dân hiện nay.
Bên cạnh đó, những biến thể đa dạng, phức tạp, tinh vi của các loại hình tội phạm thời hội nhập, đặt lên
vai lực lượng Công an nhân dân Việt Nam trọng trách rất lớn. Giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội
là trách nhiệm to lớn và rất tự hào của lực lượng Cơng an nhân dân. Vì thế, việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước

cho học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng, cấp bách là một điều kiện tiên quyết để hình thành đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thông pháp luật và sắc xảo về nghệ thuật phòng ngừa,
đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự an tồn xã hội.
Do nhiều nguyên nhân, công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân
ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Bản thân
công tác trong trường Công an nhân dân, chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ cơng sức của mình vào nền
giáo dục nước nhà, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tự hào dân tộc cho học viên của các trường Công an nhân
dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đây là nơi đào tạo cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân cho các tỉnh từ
Quảng Trị tới Cà Mau. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Cơng an nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận án tiến sĩ, đây là nội dung hết sức cần
thiết, có ý nghĩa mang tính thời sự, ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học

6


viên các trường Công an nhân dân trên địabàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận án đưa ra một số giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án xác định và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa các cơng trình khoa học liên quan đến đề tài, phân tích, đánh giá những cơng trình
này theo những nội dung cụ thể của đề tài, kế thừa những quan điểm hợp lý, phù hợp với hướng nghiên cứu của
đề tài.
Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận chung về giáo dục chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Thứ ba, làm rõ thực trạng và chỉ ra thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh từ 2014 đến 2021.
Về không gian nghiên cứu: giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên chính quy hệ cao đ ng và đại học
của các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. (Trường Đại học An ninh nhân dân;
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân và Trường Cao đ ng Cảnh sát nhân dân II).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ s lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các kết quả điều tra nghiên
cứu của các nhà khoa học có liên quan đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như
sau:
- Phương pháp lịch sử và lơgíc: đây là phương pháp chủ yếu trong luận án, phương pháp này được sử
dụng khi phân tích làm rõ nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: phương pháp này được sử dụng vào q trình tìm hiểu các tư liệu
có liên quan đến lý luận giáo dục chủ nghĩa yêu nước, khi đánh giá về những kết quả đạt được, hạn chế trong
việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước tại các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


7


- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: thông qua các báo cáo tổng kết năm học của các trường Công an
nhân dân và các bài viết tham luận Hội thảo khoa học về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho học viên để rút ra các kinh nghiệm.
- Ngoài các phương pháp trên, trong luận án còn sử dụng phương pháp khác như phương pháp so sánh
và đối chiếu. Các phương pháp trên được tác giả sử dụng lồng ghép với nhau nhằm thực hiện những nhiệm vụ
luận án đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là, trên cơ sở hệ thống hóa, làm rõ các khái niệm về giáo dục, giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Tác giả
phân tích tầm quan trọng; nội dung và hình thức giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên; những nhân tố tác
động đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay.
Hai là, trên cơ sở phân tích tài liệu, đánh giá thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận án góp phần làm rõ thêm những hạn chế, tồn
tại trong nhận thức và hành động của bộ phận học viên Công an nhân dân về giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Từ
đó, luận án chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế cần phải giải quyết.
Ba là, luận án đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho
học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
- Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Luận án cung cấp luận cứ khoa học cho các ngành, các cấp, đặc biệt là ngành Giáo dục và Đào tạo;
ngành Công an trong việc hoạch định chương trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên, đây là những
công dân tương lai của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các
học viện, nhà trường và các đơn vị trong toàn ngành.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình khoa học đã cơng bố của tác giả có liên quan đến
luận án, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm có 4 chương, 15 tiết.

8


B. NỘI DUNG
Chương 1
TỔN QUAN TÌNH HÌNH N HIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những cơng trình nghiên cứu về lý luận giáo dục chủ nghĩa yêu nước
Các công trình nghiên cứu có liên quan đến cơ sở lý luận của chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ nghĩa
yêu nước, tác giả luận án chia thành các nội dung cơ bản để tiếp cận như sau:
1.1.1.

Các cơng trình nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước

Yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm
tồn tại của các quốc gia biệt lập. Yêu nước mang tính phổ biến của nhân dân các quốc gia, các dân tộc trên thế
giới. Yêu nước là một trong những giá trị tinh thần, là tình cảm và tư tưởng của các dân tộc. Tuy nhiên, tùy vào
quốc gia dân tộc mà tư tưởng đó ra đời sớm hay muộn, mức độ, cung bậc đậm nhạt khác nhau.
Trong tác phẩm “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, 1980) tác
giả Trần Văn Giàu cho rằng: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại
đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác, yêu nước trở
thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam” [61; tr. 101]. Đối với dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa
yêu nước không chỉ là tình cảm tự nhiên, mà cịn là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử đau
thương và hào hùng của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước đó khơng chỉ dừng lại ở những tư tưởng thuần túy mà còn
được biểu hiện ở những hành động thiết thực của cá nhân và cộng đồng người.
Tác giả Trần Xuân Trường trong tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008), đã luận giải cho chúng ta thấy được chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống

quan điểm, tư tưởng tình cảm của mỗi người đối với đất nước, dân tộc của mình, thể hiện ở tình yêu quê hương,
xứ sở, tiếng nói, văn hóa hay ở sự gắn bó vì lợi ích chung của cộng đồng, của quốc gia, dân tộc và cũng ở ý thức
xây dựng, bảo vệ đất nước. Hơn thế nữa, chủ nghĩa u nước cịn là một phạm trù lịch sử, hình thành phát triển,
luôn biến đổi qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc mình. Tinh thần u nước, lịng yêu nước có thể nảy sinh rất
sớm từ khi nhà nước mới hình thành, cộng đồng quốc gia mới xuất hiện, nhưng chủ nghĩa yêu nước đòi hỏi một
bước phát triển cao của tinh thần yêu nước, khi tình cảm yêu nước được nâng lên một trình độ nhận thức sâu
sắc, có hệ thống, chi phối một cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người. Bên cạnh đó, chủ nghĩa u
nước là tình cảm vừa có tính phổ qt và mang tính đặc thù riêng của các quốc gia, dân tộc, do điều kiện tự
nhiên, xã hội, đặc điểm tộc người và hoàn cảnh nội dung lịch sử cụ thể của từng nước quy định.
Trong cuốn sách “Mấy vấn đề về Chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1981) tác giả Trần Xuân Trường cũng đã làm rõ vấn đề chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sản
phẩm của một phong trào cách mạng sâu rộng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong mấy chục năm
qua. Tuy nhiên, dịng sơng mênh mơng của chủ nghĩa u nước Việt Nam có thể có một sức mạnh đến như vậy
chính là vì trong lịng nó khơng phải chỉ chứa đựng sức mạnh của thời đại mà cịn có cả sức mạnh của truyền
thống, sức mạnh của những tinh hoa của dân tộc ta đã được tích lũy lại trong hàng nghìn năm phát triển lịch sử.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra cho chúng ta thấy được chủ nghĩa yêu nước là cái dịng tư tưởng và tình cảm


bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của nước ViệtNam xưa kia. Trong ý thức thẩm mỹ của người
Việt Nam, cái cao quý và đẹp đẽ nhất là lòng yêu nước thương nòi, là hành động giết giặc cứu nước. Trí tuệ Việt
Nam sâu sắc nhất cũng là trí tuệ đánh giặc, giữ nước. Thần tượng anh hùng bền vững nhất trong trái tim của
Nhân dân cũng là thần tượng những anh hùng nghĩa sĩ xả thân vì nước vì dân. Đó chính là một nét đặc sắc nhất
trong đời sống tinh thần, trong văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam xưa kia.
Tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống và hiện đại” (Nxb Chính trị Quốc gia, 2002), tác
giả Phan Huy Lê, chủ nghĩa yêu nước truyền thống bao gồm tình yêu quê hương, đất nước, con người; ý thức
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; sự gắn bó cố kết cộng đồng, luôn hướng về dân và luôn lấy dân làm gốc; ý thức
bảo vệ lãnh thổ, quốc gia dân tộc, ý thức về độc lập dân tộc xây dựng đất nước. Chủ nghĩa yêu nước hiện đại
ngày nay là yêu nước gắn liền với yêu chế độ chủ nghĩa xã hội, ý chí tự lực, tự cường, tồn thể đồng bào đồn
kết một lịng, ra sức xây dựng đất nước ta giàu đẹp, văn minh sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế
giới.

Tác giả Nguyễn Trọng Phúc trong tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, và giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho quân và dân ta trong thời kỳ mới” (Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2006) đã chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng, tình cảm và tinh thần yêu nước với
chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả cũng đã luận giải “Yêu nước là tình cảm đặc biệt của con
người, của mỗi người đối với quê hương, đất nước, Tổ quốc mình. Ở Việt Nam tình cảm đặc biệt đó cịn phát
triển thành tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Như vậy, nó đã vượt ra khỏi trạng thái tâm lý, tình cảm
thơng thường của con người để đạt tới giá trị cao về tư tưởng, lý luận và chính trị”. Từ đó tác giả đã kh ng định
những giá trị đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: “Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống quý báu, là tài sản
tinh thần vô giá của dân tộcViệt Nam”; “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là chính trị - xã hội, là đạo đức, là văn
hóa, là nhân văn” [103; tr. 22-36].
Trong “Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003), dưới
góc độ tiếp cận của khoa học chính trị, các tác giả đã quan niệm chủ nghĩa yêu nước đó là một phạm trù thuộc
lĩnh vực ý thức xã hội, nó bao gồm tư tưởng và tình cảm của một dân tộc. Nội dung chính của chủ nghĩa u
nước là tình u và lòng trung thành với Tổ quốc. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử, tự nhiên
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc mà quá trình phát triển từ tình cảm yêu nước, tư tưởng yêu nước thành chủ nghĩa
yêu nước xuất hiện có khác nhau về nội dung, đặc điểm của chúng cũng không giống nhau. Đó là thể hiện mối
quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa yêu nước.
Nguyễn Hùng Hậu, “Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh” (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008) trong tác phẩm này tác giả đã đi sâu nghiên cứu phân tích, làm rõ khái niệm,
những truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam về lý tưởng cách mạng, về truyền thống yêu nước thương dân,
về giáo dục chủ nghĩa yêu nước và vai trò của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã có nhiều ưu điểm nổi bật. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cũng còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định. Những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở lý luận quan
trọng để tác giả luận án kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, trên cơ sở đó có thể đưa ra quan niệm đầy đủ về chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam và đặc trưng cơ bản của nó dưới góc độ tiếp cận, luận giải của phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.


1.1.2.


Các cơng trình nghiên cứu về cơ s hình thành chủ nghĩa yêu nước

Trong tác phẩm “Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003) tác giả Đào Duy Quát đã phân tích cơ sở hình thành của chủ nghĩa u nước Việt Nam đó là lịch sử dựng
nước, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở và cộng đồng. Lòng yêu nước thường bắt
đầu từ tình yêu quê hương xứ sở, nơi sinh ra, lớn lên của mỗi người; từ sự gắn bó giữa những thành viên của gia
đình, cộng đồng làng xã rồi đến quốc gia, dân tộc. Đây là cơ sở chung hình thành chủ nghĩa u nước. Cơ sở này
khơng hồn tồn giống nhau đối với các quốc gia, các dân tộc do điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử cụ thể khác
nhau quy định; lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, nước ta có vị trí địa lý chính trị, kinh tế rất quan trọng, do
đó lịch sử nước ta là lịch sử của dựng nước luôn luôn gắn liền với giữ nước; nền văn hóa thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nét tiêu biểu, đặc sắc của văn hóa dân tộc ta là sự phong phú, đa dạng
và thống nhất cao. Đặc điểm này được thể hiện trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt
Nam; quá trình hình thành và thống nhất sớm của quốc gia, dân tộc Việt Nam. Đây là quan niệm tổng quát, toàn
diện về đất nước, dân tộc và quốc gia, nó bao quát những yếu tố cơ bản về lịch sử, văn hóa, lãnh thổ và thể chế
nhà nước. Sự tự nhận thức này đạt tới trình độ khá tồn diện về quốc gia, dân tộc và là cơ sở hình thành chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.
Trong tác phẩm “Truyền thống yêu nước trong lịch sử Việt Nam” do Cao Minh tuyển chọn (Nxb Thanh
Niên, Hà Nội, 1999) có bài viết của tác giả Trần Văn Giàu “Sự hình thành về cơ bản của chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam” đã cho rằng: “Sự hình thành và phát triển của tư tưởng u nước đi đơi với sự hình thành
và phát triển của quốc gia dân tộc. Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu thời thịnh suy, lúc nào cũng chứng minh
rằng chủnghĩa yêu nước không phải chỉ là một số tình cảm thầm lặng hay bồng bột từng lúc, cũng không phải là
một triết lý để nhàn đàm, mà là hệ thống tiêu chuẩn để nhận định đúng sai, tốt xấu, nên chăng, là kim chỉ nam
cho hành động, như một bộ luật không thành văn mà được khắc trong tâm trí của người Việt Nam” [92; tr. 3334].
Tác giả Nguyễn Nam Thắng trong tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” (Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014) nhận xét: “Trong lịch sử phát triển của một cộng đồng người, không phải lúc
nào cũng đã xuất hiện khái niệm yêu nước và ý thức yêu nước. Khi một cộng đồng người cịn sống du canh, du
cư, nay đây mai đó, chưa có chỗ ở nhất định, thì chưa có ý thức về yêu nước. Lúc bấy giờ mới có ý thức về u
mến tộc người mình, u mến tín ngưỡng, tập qn của mình. Chỉ đến lúc cộng đồng đó sống định cư, có cương
vực cư trú cố định thì mới có ý thức về nước, về lãnh thổ cư trú riêng và sau đó mới hình thành tình cảm hoặc
tâm trạng yêu nước” [115; tr. 35-36].

Bàn về cơ sở hình thành của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tác giả Trần Văn Giàu trong tác phẩm “Giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011) đã phân tích nguồn gốc
lịch sử của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gồm 2 đặc điểm nổi bật: “thứ nhất, nước ta xuất hiện rất sớm, từ thời
thượng cổ, tên gọi nước Văn Lang; thứ nhì, nhìn đại thể, lịch sử nước ta là một chuỗi dài những cuộc khởi nghĩa
và những cuộc chiến tranh chống đô hộ, chống xâm lược của những nước lớn mạnh hơn nước ta gấp mấy chục
lần. Hai đặc điểm ấy quyết định sự sinh nở, sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một chủ nghĩa yêu
nước xuất hiện rất sớm và luôn được củng cố, dùi mài bởi vô số những cuộc khởi nghĩa chống đô hộ và nhiều
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thành một thứ vũ khí tinh thần cực kỳ sắc bén” [64; tr. 170-171].


Cùng chung với quan điểm của tác giả Trần Văn Giàu, trong tác phẩm “Tài liệu học tập chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam” dùng cho hạ sĩ quan - binh sĩ của Cục Tư tưởng văn hóa - Tổng cục Chính trị (Nxb Qn đội
nhân dân, Hà Nội, 2000), nhóm tác giả đã luận giải cơ sở hình thành của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đó là lịch
sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. “Chống ngoại xâm là đặc điểm chung của hầu hết các nước trên thế giới
trong quá trình tồn tại và phát triển. Song ở Việt Nam, lịch sử chống ngoại xâm có những đặc điểm riêng, biểu
hiện tập trung ở ba mặt sau: một là, dân tộc Việt Nam liên tục trải qua những cuộc chiến tranh, điển hình về tính
chất gay go ác liệt và sự gian khổ hy sinh; hai là, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu và chiến thắng những
kẻ địch điển hình về tính hung bạo và hiếu chiến, mạnh gấp hơn ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự,
trong đó có nhiều đế quốc phong kiến hùng mạnh bậc nhất ở phương Đông thời cổ, trung đại, những cường quốc
tư bản chủ nghĩa thời cận hiện đại; ba là, hàng nghìn năm xâm lược, đô hộ nước ta, các triều đại phong kiến
phương Bắc cũng như thực dân đế quốc phương Tây đều ra sức thực hiện chiến lược đồng hóa và chính sách
chia rẽ dân tộc ta, song tất cả âm mưu thủ đoạn của chúng đều không thực hiện được” [117; tr. 9-10]. Như vậy,
từ những đặc điểm trên đã tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử - xã hội Việt Nam đến đời sống tinh thần của
dân tộc, bồi dưỡng rèn luyện truyền thống đồn kết, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là cơ sở rất
quan trọng của quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2008) tác giả Trần Xuân Trường cho rằng cơ sở hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
truyền thống. Đó là vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Việt Nam. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đã tạo nên những
tiềm năng to lớn, cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Song,đây cũng là những khó khăn và thách thức rất lớn đối
với dân tộc ta. Tác giả đã luận giải: “trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng đất nước… chúng ta vừa tìm

cách thích nghi với điều kiện tự nhiên, vừa tìm cách khai thác điều kiện tự nhiên để phục vụ cho sự tồn tại, phát
triển của mình. Trong quá trình săn bắn, trồng trọt, chăn nuôi, những cư dân Việt Nam đã có cuộc sống ổn định,
với một nền sản xuất vật chất, những giá trị tinh thần mang bản sắc riêng và đạt đến trình độ cao của nền văn
minh lúa nước” [122; tr. 18]. Như vậy, từ thực tiễn đấu tranh chống lại điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, những
cư dân Việt Nam dần dần liên kết lại với nhau, cùng nhau làm thủy lợi, đắp đê sông, đê biển để chống đỡ lụt lội,
ngập úng, hạn hán. Nền kinh tế ngày càng phát triển, sự giao lưu giữa các vùng trong nước từng bước được mở
mang. Đó là quá trình từng bước tạo nên sự gắn bó giữa các dân cư, cộng đồng với nhau, là cơ sở hình thành tình
u q hương, đất nước, sự gắn bó keo sơn đùm bọc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
1.1.3.

Các công trình nghiên cứu về giáo dục chủ nghĩa yêu nước

Giáo dục chủ nghĩa yêu nước là hoạt động tự giác của các chủ thể với mục tiêu, yêu cầu, nội dung và
phương pháp cụ thể phù hợp với tình hình nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cũng như bất cứ loại giáo dục nào khác đều có chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục. Tuy nhiên
giữa chúng không thể có ranh giới tuyệt đối. Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ biện chứng tác động qua lại
lẫn nhau.
Nói về sự cần thiết của việc giáo dục truyền thống yêu nước cho Nhân dân, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kh ng định: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý.
Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày.
Nghĩa là phải ra sức giải thích,tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người


đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến. Tinh thần yêu nước chân chính khác h n với
tinh thần “vị quốc” của bọn phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế” [86; tr. 172].
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VIII) và Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (khóa IX) đã nêu rõ
nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa của nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường của dân tộc, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, thi đua yêu nước sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Nếu ai
đó đã tìm hiểu về chủ nghĩa u nước, tinh thần độc lập dân tộc của người Việt Nam thì khó có thể phủ định

được lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và từ đó sẽ có
nhận thức đúng đắn hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Trong tác phẩm “Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002) nhóm tác giả trình bày: “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước là một
nội dung cơ bản, có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng của quân đội ta”, tác
giả Nguyễn Tuấn Dũng cịn luận giải “cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng ln có vai trò to lớn trong nâng cao
sức mạnh tổng hợp của quân đội mà trước hết là sức mạnh chính trị - tinh thần, cơng tác giáo dục chính trị - tư
tưởng góp phần bảo đảm cho Qn đội ta hồn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó”
[33; tr. 45].
Trong bài viết “Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa theo mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” (Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số
4, tr. 89, 1997) tác giả Phùng Hữu Phú đã làm rõ vấn đề muốn phát huy chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện
hiện nay chúng ta không chỉ dừng lại ở việctuyên truyền, vận động, hô hào khẩu hiệu chung chung mà phải
chuyển hóa nhận thức thành hành động mang tính thực tiễn, thiết thực. Tác giả diễn giải: “Muốn phát huy chủ
nghĩa yêu nước trong thời kỳ mới thì phải biết kế thừa những giá trị tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc và
những tri thức của nền văn minh nhân loại, vừa phải bổ sung và làm phong phú thêm bằng những nội dung, hình
thức mới phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện hiện tại, phải làm cho mỗi người Việt Nam thấm nhuần mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, coi đó là lý tưởng, lẽ sống, là phương châm hành động
của mình” [102; tr. 89].
Trong cơng trình “Về chủ nghĩa u nước Việt Nam và Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ” (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006) tác giả Phan Ngọc Liên đã tiếp cận và có cái nhìn đúng đắn trong vấn đề giáo
dục truyền thống dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước nói riêng là yêu cầu quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của đất nước. Với nhiều hình thức, bằng nhiều thể loại văn hóa phong phú khác nhau, tổ tiên ta có
nhiều kinh nghiệm quý báu để giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ. Việc nghiên cứu, khai thác, chọn
lọc, sử dụng, phát huy các hình thức giáo dục này rất có ích cho cơng tác tư tưởng chính trị của chúng ta ngày
nay.
Trong “Tài liệu giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) tác giả
Đào Duy Quát đã chú trọng luận giải chủ nghĩa yêu nước trong toàn dân. Không ngừng bổ sung và phát huy chủ
nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, sống ở trong
nước cũng như ở nước ngoài, trong đoàn thể, trong Đảng cũng như ngoài đoàn thể, ngoài Đảng. Hễ là người Việt

Nam thì đều cần thấm sâu chủ nghĩa yêu nước chân chính. Để làm được việc đó thì nhiệm vụ hàng đầu là phải
đẩy mạnh và không ngừng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong toàn dân.
Trong tác phẩm “Tài liệu học tập chủ nghĩa yêu nước Việt Nam” dùng cho hạ sĩ quan - binh sĩ của Cục


Tư tưởng văn hóa - Tổng cục Chính trị (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000) nhóm tác giả cho rằng mơi
trường văn hóa là một cơ sở, điều kiện quan trọng cho giáo dục nói chung, giáo dục chủ nghĩa yêu nước nói
riêng. Muốn làm cho tư tưởng của chủ nghĩa yêu nước trở thành quy tắc hoạt động, tất yếu phải tạo ra môi
trường thuận lợi, làm cho mọi người, ở mọi lúc, mọi nơi đều có thể thu nhận được cảm xúc về tư tưởng chủ
nghĩa yêu nước. Vì vậy áp dụng mọi thành tựu khoa học kỹ thuật, mọi phương tiện thông tin đại chúng vào tuyên
truyền giáo dục chủ nghĩa yêu nước có tầm quan trọng đặc biệt, là trách nhiệm của mọi tổ chức, trước hết là các
tổ chức làm công tác tư tưởng - văn hóa. Kết hợp chặt chẽ giáo dục chủ nghĩa yêu nước với các đợt tuyên truyền
kỷ niệm nhân các ngày lễ, kết hợp nhà trường, gia đình, xã hội trong việc giáo dục, xây dựng con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa thấm sâu chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Luận án “Phát huy chủ nghĩa yêu nước của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, tác giả
Nguyễn Đình Bắc đã tập trung đi sâu phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn phát huy chủ nghĩa yêu
nước của thanh niên quân đội hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc nâng cao phẩm chất người
thanh niên thời đại Hồ Chí Minh và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
1.1.4.

Các cơng trình nghiên cứu về nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước

Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước là truyền thụ, bồi dưỡng những kiến thức, những giá trị, những đặc
trưng của chủ nghĩa yêu nước (cả truyền thống và hiện đại), những kinh nghiệm, tấm gương về chủ nghĩa yêu
nước của dân tộc được chọn lọc phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, là sự cụ thể hóa mục tiêu, yêu cầu giáo
dục đã được xác định. Nội dung này được xemnhư văn kiện cơ bản có “tính pháp lý”, là cơ sở để chủ thể giáo
dục và đối tượng giáo dục sử dụng trong việc truyền thụ và lĩnh hội suốt quá trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước.
Như vậy, việc lựa chọn nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước phải căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu giáo dục.
Lựa chọn đúng đắn nội dung giáo dục có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu
giáo dục. Nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước cần bám chắc vào những giá trị đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa

yêu nước Việt Nam, bao hàm cả chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
hiện đại. Nội dung giáo dục đó phải thể hiện đầy đủ chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp cơng nhân.
Trong “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần
thứ XI” có nêu rõ nội dung tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ
bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách
thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí cơng
nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hịa bình”, bạo loạn chính trị, khủng bố, tội
phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia.
Trong “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết thắng cho quân và dân ta hiện nay” do Phùng
Khắc Đăng chủ biên (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006) có bài viết “Một số vấn đề đổi mới nội dung,
phương pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước” của tác giả Thái Duy Tuyên, đã luận giải nội dung truyền thống yêu
nước trong giai đoạn hiện nay đó là lịng u nước thường được thể hiện qua sự hy sinh quên mình để bảo vệ và
xây dựng đất nước. Xưa nay lòng dũng cảm và ý chí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù xâm lược đã là niềm tự
hào của nhân dân ta. Nhưng việc xây dựng đất nướcgiàu mạnh phồn vinh, làm cho nhân dân ấm no, hạnh phúc
thì chúng ta chưa có nhiều thành tựu, chưa được kh ng định qua lịch sử. Hiện nay, trong điều kiện cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, lòng yêu nước phải được thể hiện ở việc xây dựng Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng và dân chủ văn minh.


Cũng theo tác giả Thái Duy Tuyên, nội dung giáo dục lịng u nước hiện nay có thể tóm tắt như sau:
“Lịng u thương bố mẹ, anh em, gia đình, bạn bè, bà con, đồng bào, nòi giống, dân tộc; lịng u hàng xóm,
thiên nhiên, cảnh vật của q hương, đất nước; lòng tự hào dân tộc, tự hào về các bậc anh hùng, hào kiệt danh
nhân văn hóa, về những thắng cảnh, sản vật phong phú của quê hương, đất nước; giáo dục ý chí kiên cường, bất
khuất, tơn vinh tinh thần vì nước qn mình, lịng cao thượng; giáo dục tinh thần lao động cần cù, sáng tạo để
phát triển nền văn hóa, để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp; giáo dục ý thức trân trọng và giữ gìn những
giá trị chân chính của tổ quốc; giáo dục lịng tự tơn dân tộc, biết giữ gìn màu cờ, sắc áo thể diện quốc gia, quan
tâm tới những vấn đề bức xúc của đất nước; giáo dục động cơ học tập đúng đắn, ý thức xây dựng, bảo vệ đất
nước bằng những việc làm thiết thực, vừa sức” [123; tr. 126-127].
Bài viết “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ” (Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 6, tr. 39-40, 2013) tác giả Lý Việt Quang đã lý giải vì sao giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên

lại ln được Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến vậy? Tác giả đã lý giải điều này dựa trên nhiều cơ sở
sau: “một là, Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ về vai trò và sức mạnh của tinh thần yêu nước trong cuộc đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; hai là, với Hồ Chí Minh, thanh niên có vai trị rất quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; ba là, Hồ Chí Minh ln ln đặt niềm tin ở thanh niên và chú
ý tìm ra, phát huy nhữngđiểm mạnh của thanh niên; bốn là, tấm lòng nhân ái, nhân văn của chủ tịch Hồ Chí
Minh” [106; tr. 39-40].
Tóm lại, các cơng trình khoa học nói trên, phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau và đã đạt được những kết
quả nhất định, góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Trên cơ sở đó, các cơng trình
nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng, làm sâu sắc thêm hệ thống lý luận chung về giáo dục chủ nghĩa yêu nước ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, góc độ tiếp cận và nhiều yếu tố khác,
nên những phân tích, luận giải trên bình diện triết học về vấn đề này cịn những mặt tồn tại, hạn chế nhất định.
Bên cạnh đó, tác giả luận án chưa thấy cơng trình chun biệt nào nghiên cứu trên phương diện triết học về giáo
dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân nói chung và học viên các trường Cơng an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay nói riêng có hệ thống, chi tiết. Do đó, chúng tơi sẽ tiếp thu những
cơng trình nghiên cứu trên có kế thừa, chọn lọc, bổ sung, để hoàn thiện việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay một
cách sâu sắc hơn, thấu đáo hơn.
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước
Trong bài viết “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí
quyết chiến, quyết thắng cho quân và dân ta hiện nay” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006) nhà nghiên cứu
Trần Bạch Đằng làm rõ nội dung thực trạng về chủ nghĩa yêu nước ngày nay đã có sự phát triển. Vì thế, giáo dục
chủ nghĩa u nước cũng phải có những điều chỉnh mới, những cái nhìn mới. Thời chiến tranh, u nước thì ít
nhất phải có một chút gan dạ, một chút hy sinh; cịn bây giờ thời bình, yêu nước biểu hiện trong sinh hoạt, trong
học tập và trong lao động hằng ngày. Chúng ta phảichuyển nội hàm của chủ nghĩa yêu nước lên một cung
bậc khác, đây cũng chính là q trình chủ yếu của sự phát triển dân tộc.
Ngoài ra, tác giả Đinh Hùng Tuấn trong tác phẩm“Vai trò, nội dung của giáo dục chủ nghĩa yêu nước và
xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng cho quân và dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”
(Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006) đã nói lên thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước hiện nay và xây dựng



ý chí quyết chiến quyết thắng là cơ sở để quân và dân ta kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, lập trường cách
mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và dân tộc. Bên cạnh đó tác giả cịn
cho rằng giáo dục chủ nghĩa yêu nước còn là cơ sở quan trọng góp phần xây dựng, củng cố sự đồn kết, thống
nhất cao về tư tưởng, tổ chức và hành động, nêu cao ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật, ý chí chịu đựng gian
khổ, vựợt qua khó khăn thử thách hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Trong cơng trình “Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002) Nguyễn Tuấn Dũng (chủ nhiệm đề tài), nhóm tác giả đã
nghiên cứu, điều tra, khảo sát từ thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước hiện nay để từ đó đưa ra những nguyên
nhân và kết quả đạt được. Trong những năm qua, giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong các đơn vị đã đổi mới về
nội dung, đa dạng về hình thức, cải tiến về phương pháp; đổi mới phương tiện là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của
tổ chức Đảng, tổ chức chỉ huy và của các tổ chức quần chúng ở các đơn vị. Có thể kh ng định rằng, giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho quân nhân là một nội dung lãnh đạo của tổ chức Đảng, một chương trình cơng tác của đội
ngũ cán bộ các cấp và là một phong trào của các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở trong quân đội những năm
qua.
Theo tác giả Phạm Thái Bình trong tác phẩm “Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức trong các
trường Công an nhân dân trên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (Tạp chí Cơng an nhân dân, số 1, 2009)
tác giả cho rằng song song với những thành tựu đã đạt được trong thời kỳ đổi mới thì vấn đề suy thối đạo đức là
rất nghiêm trọng. Từ đó, cần nêu rõ yêu cầu đổi mới nhận thức về công tác giáo dục đạo đức truyền thống yêu
nước với những giá trị truyền thống phổ biến của nhân loại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và giáo dục chủ nghĩa yêu nước nói riêng cho học viên Cơng an nhân
dân.
Trong bài viết “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nhằm nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên” (Tạp chí Cộng sản số 841, 2012) của tác giả Mai Thế
Dương. Bài viết đề cập đến công tác kiểm tra, giám sát trong thời gian qua đã có nhiều đóng góp tích cực quan
trọng trong đường lối lãnh đạo của Đảng, chỉ ra nguyên nhân những hạn chế, yếu kém của cán bộ, đảng viên bị
sa sút về phẩm chất đạo đức, thối hóa, biến chất, phai nhạt lý tưởng cách mạng và tinh thần u nước. Bên cạnh
đó, cơng tác xây dựng Đảng còn hạn chế, yếu kém, chậm khắc phục, tác giả còn đề cập đến Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI, để góp phần khắc phục những hạn chế này, nhằm ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần yêu nước của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tác giả đưa ra một số
nội dung để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, bài viết chỉ đề cập đến suy

thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần yêu nước của cán bộ, đảng viên, nhưng chưa đề cập đến tầng
lớp học viên, sinh viên hiện nay.
Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (nay là Tổng cục Chính trị Cơng an nhân dân) năm 2001
và 2005 có hai đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinhnhuệ, từng bước hiện đại” do tác giả Phạm Văn Dần làm chủ đề tài và “Xây dựng lực lượng Cơng an
nhân dân trong tình hình mới” của tác giả Trần Quang Trọng làm chủ nhiệm đề tài. Các cơng trình nghiên cứu
nói trên tuy khơng trực tiếp bàn về chủ nghĩa yêu nước nhưng đã nghiên cứu sâu về việc xây dựng lực lượng
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng Công an nhân dân
trong tình hình mới, các đề tài đều nhấn mạnh thực trạng việc xây dựng giáo dục, tư tưởng đạo đức, truyền thống


cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân trong đó có học viên Cơng an. Các đề tài đã phân tích tình
hình chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta cũng như các nước trong khu vực và thế giới, đã vạch rõ âm mưu thủ
đoạn đen tối của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang ngày đêm ra sức chống phá chế độ, chống phá
nhà nước ta, gây chia rẽ dân tộc, tơn giáo. Tác giả luận án đã đồng tình với những mục tiêu xây dựng rèn luyện,
giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ Cơng an nhân dân, trong đó có học viên Cơng an nhân dân. Khơng ngừng nỗ lực
học tập, rèn luyện để trở thành người Công an cách mạng, đủ đức, đủ tài, đủ bản lĩnh chính trị để bảo vệ vững
chắc an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an tồn xã hội.
Ngồi ra, cịn có nhiều cơng trình đi sâu nghiên cứu truyền thống xây dựng lực lượng Công an nhân dân
như: “Đạo đức và pháp luật với an ninh trật tự trong nền kinh tế thị trường” của tác giả Đặng Thái Giáp (Tạp
chí Cộng sản, số 12, 2000), “Tư cách người Cơng an cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của tác giả Trần
Quang Trọng (Đặc san Công an nhân dân, số 5, 2004), “60 năm những trang sử vẻ vang Công an nhân dân”
(Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005).
Trong “Báo cáo tổng kết công tác giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân” tác giả Trần Đại Quang cho
chúng ta thấy từ thực trạng giáo dục và đào tạo ở các trường Công an nhân dân hiện nay, những kết quả đã đạt
được vềcông tác giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân. Việc quán triệt, thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về giáo dục đào tạo đã thực thi và đạt hiệu quả. Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) đã đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhận thức về vai trị, vị trí cơng tác giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân
đã bắt kịp với những thay đổi, những xu thế mới của xu thế mới của giáo dục, đào tạo nước nhà cũng như các

nước trong khu vực; hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công an nhân dân tiếp tục phát triển và từng
bước kh ng định vị thế trong hệ thống giáo dục quốc dân. Các trường Công an nhân dân từng bước được quy
hoạch phù hợp với thực tiễn công tác chiến đấu, xây dựng lực lượng Công an nhân dân và cơ cấu về trình độ, lực
lượng, vùng miền; hệ thống các trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ phát triển mạnh mẽ, đáp ứng kịp
thời nhu cầu đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, chiến sỹ. Như vậy, “Báo cáo
tổng kết công tác giáo dục, đào tạo trong Công an nhân dân” cũng đã cho chúng ta thấy, đến nay hệ thống các
trường Công an nhân dân đã được quy hoạch cơ bản phù hợp và từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ,
chiến sỹ cho từng lực lượng, vùng miền và đáp ứng nhiệm vụ đặt ra cho công tác Cơng an. Hệ thống các trường
Cơng an nhân dân tích cực hội nhập và kh ng định vị trí, vai trò trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong cuốn “Phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội”, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2014) của tác giả Trần Thị Minh, tác giả tập trung phân tích những thành tựu và hạn chế trong phát triển văn
hóa, một số vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, tinh thần yêu
đất nước, con người của dân tộc Việt Nam. Đặcbiệt, phần thực trạng, tác giả đưa ra những số liệu cụ thể đánh giá
một số biểu hiện suy thối tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tinh thần dân tộc trong cán bộ, đảng viên, chỉ ra
những nguyên nhân của hiện tượng suy thối này như sau: “Đó là những tàn dư của xã hội cũ chưa cải tạo được hết,
những ảnh hưởng nặng nề của quá khứ lạc hậu, chậm phát triển vẫn đang tác động tiêu cực tới đời sống xã hội, các
quan hệ xã hội và lối sống của con người Việt Nam hiện nay” [93, tr. 96]. Tuy nhiên, do góc độ nghiên cứu khác
nhau nên phần thực trạng tư tưởng chính trị, tinh thần yêu nước tác giả có đề cập đến nhưng phân tích chưa sâu, chưa
cụ thể.


Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu phân tích trên, đã góp phần làm rõ thực trạng giáo dục chủ nghĩa
yêu nước, chỉ ra những nguyên nhân thành công, nguyên nhân còn tồn tại, hạn chế về giáo dục chủ nghĩa yêu
nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến thực trạng giáo dục chủ nghĩa yêu nước, những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên, sinh viên cịn ít đề cập đến. Do
đó, tác giả luận án kế thừa các cơng trình trên một cách chọn lọc và tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ thực trạng
giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
1.3.

Những cơng trình nghiên cứu về giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên Công an


nhân dân
Tác giả Võ Văn Sen trong bài viết “Những kinh nghiệm giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí
quyết chiến quyết thắng cho thanh niên, sinh viên các tỉnh miền Nam” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006)
đã góp phần làm rõ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có chiều sâu và rất đặc sắc. Vì vậy, khi giáo dục chủ nghĩa yêu
nước thì chúng ta cũng phải đi vào chiều sâu, không thể dừng ở hình thức. Về giải pháp, giáo dục chủ nghĩa yêu
nước trước tiên phải giáo dục về lịch sử. Cần nhận thức rằng giáo dục lịch sử khơng có


nghĩa là chỉ ở trong nhà trường, mặc dù trong nhà trường chúng ta phải làm rất nhiều. Đó là cơng việc của tồn
xã hội, trong đó Qn đội cũng có thể đóng góp vào việc giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, giáo dục
chủ nghĩa yêu nước còn phải đi vào chiều sâu. Nhiều người hiện nay bày tỏ tâm trạng băn khoăn, mất tin tưởng
vào thế hệ trẻ Việt Nam. Đây là một quan niệm không đúng. Dân tộc Việt Nam với sự tồn tại hàng nghìn năm đã
chứng tỏ có một bản lĩnh văn hóa rất độc đáo được truyền qua nhiều thế hệ.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước” (Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2006), tác giả Thái Duy Tun đã phân tích một cách có hệ thống và đưa ra một số giải
pháp cơ bản, việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước thường được bắt đầu từ việc cung cấp hệ thống tri thức dưới
những hình thức khác nhau: kể chuyện, tham quan, đọc sách báo… từ nhận thức mà chuyển thành thái độ, đây là
một quá trình tự vận động nội tại. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp nhận thức khơng chuyển thành thái độ được,
nói thì hay nhưng khơng làm được, hoặc làm lại dở. Vì vậy, muốn nhận thức được chuyển thành thái độ thì phải
có sự xúc cảm trong q trình nhận thức. Đó là điểm rất quan trọng cần đặc biệt chú ý. Cho nên yêu cầu của
công tác giáo dục là phải tạo ra xúc cảm, phải có sự tham gia của văn học nghệ thuật [123; tr. 127-128].
Trong tác phẩm “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết thắng cho quân và dân ta hiện nay”
do tác giả Phùng Khắc Đăng (chủ biên) có bài viết “Phát huy vai trị của hệ thống chính trị trong giáo dục chủ
nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng cho quân và dân ta hiện nay” (Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2006) của Nguyễn Ngọc Hồi, nội dung bài viết đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm phát huy vai trị của hệ
thống chính trị trong giáo dục chủ nghĩa yêu nước. Xây dựng các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị thật sự
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có nề nếp, có sứcsống, đủ sức thu hút các tầng lớp Nhân dân vào các tổ chức
khác nhau của hệ thống chính trị để tiến hành giáo dục; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững
mạnh, gắn liền với đẩy mạnh cải cách hành chính theo xu hướng xóa bỏ cơ chế xin - cho, đảm bảo cho những

người công chức hưởng lương từ sự đóng thuế của dân phải thực sự là cơng bộc của dân, phải đáp ứng những
u cầu chính đáng, những quyền lợi mà người dân được hưởng; bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới nội dung,
chương trình giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng trong hệ thống các nhà
trường (cả dân sự và quân sự), phải tích cực đổi mới nội dung và hình thức tiến hành giáo dục chủ nghĩa yêu
nước, xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng của các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị; việc giáo dục chủ
nghĩa yêu nước và xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng cho quân và dân ta ngày nay cần phải gắn liền với
việc tổ chức thành công trong thực tiễn cơng cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội; cần phải kết hợp chặt chẽ giữa
xây và chống trong công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến quyết thắng cho quân và
dân ta.
Trong tác phẩm “Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay” (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010), tác giả Trần Thị Anh Đào đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên hiện nay trong việc: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng dạy lý luận chính trị cho các trường đại học; đổi mới chương trình, giáo trình nội dung giáo dục lý luận
chính trị cho các trường đại học; hơn thế còn đổi mới phương pháp, đa dạng hóa phương tiện, hình thức giáo dục
lý luận chính trị trong các trường đại học; ngồi ra, xây dựng mơi trường giáo dục của gia đình, nhà trường, xã
hội theo hướng văn minh tiến bộ; và phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên đại học trong nhận thức, vận
dụng tri thức lý luận chính trị” [41; tr. 191-227]. Tác giả cũng


cho rằng, bản thân mỗi sinh viên phải thấm nhuần nguyên lý giáo dục “học đi đôi với hành” để thường xuyên
liên hệ thực tiễn, áp dụng những kiến thức lý luận chính trị vào thực tiễn cuộc sống hiện tại cũng như trong
tương lai.
Trong tác phẩm “Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thối tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống hiện
nay”, của tác giả Trương Giang Long, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012). Tác phẩm đã đề cập đến một số
bài viết về ngun nhân và tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên
hiện nay và đề ra một số giải pháp cơ bản. Cụ thể là Bài viết “Chủ động, sáng tạo tiến hành đồng bộ các giải
pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay” của Trương Giang Long, tác
giả chỉ ra những ngun nhân của tình trạng suy thối này và đưa ra một số giải pháp như: xây dựng Đảng về
mặt tư tưởng chính trị, xây dựng Đảng về mặt tổ chức, tăng cường sự giám sát của nhân dân.
Tác giả Đỗ Thị Sen với đề tài “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Công an nhân dân”

(luận văn thạc sỹ triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minnh, 2017) đã đề ra một
số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân: một là, phát huy vai trò “người thổi lửa” của giảng viên; hai là, phát huy vai trò tự học
của học viên, nhân rộng hơn nữa truyền thống yêu nước của dân tộc; ba là, phát động phong trào thi đua yêu
nước ở các trường Công an nhân dân phải thường xuyên, liên tục, phù hợp, hiệu quả, nhằm phát huy được sức
mạnh to lớn của cả dân tộc, tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự
lực tự cường, để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh đi đến thắng lợi; bốn là, trong công tác giáo dục chủ
nghĩa yêu nước chohọc viên phải tạo ra nhiều sân chơi, cách làm phong phú, nhiều mơ hình hấp dẫn để học viên
tích cực tham gia.
Trong cơng trình “Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của lực lượng Cơng an nhân dân trong
tình hình hiện nay”, (Bộ Công an, Hà Nội, 2006), Đặng Thái Giáp (Chủ nhiệm đề tài), đề tài đã đánh giá thực
trạng tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sỹ, kết quả các mặt công tác tư tưởng của lực lượng Công an nhân dân
từ năm 1996 đến nay làm cơ sở cho việc tổng kết Quyết định 556 và Chỉ thị 02 của Bộ Công an về công tác tư
tưởng trong Công an nhân dân. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn chỉ đạo công tác tư tưởng của lực
lượng Công an nhân dân trong thời gian qua. Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng của lực lượng Công an nhân dân trong thời gian tới.
Trong tác phẩm “Thanh niên Công an làm theo lời Bác” (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2008), gồm
những bài viết của lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (nay là Tổng
cục Chính trị Cơng an nhân dân). Tác phẩm đã phân tích ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của sáu điều Bác Hồ
dạy Công an nhân dân cũng như tầm quan trọng đối với thanh niên Công an trong thời đại mới. nhiều bài viết về
tấm gương đoàn viên, thanh niên tiêu biểu, thể hiện rõ nét phẩm chất người Công an cách mạng cần, kiệm, liêm
chính, mưu trí, dũng cảm, khơng quản ngại hy sinh hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân. Tác phẩm đã đề ra những
giải pháp hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả từ những mơ hình tiêu biểu, những điển hình tiên tiến để có thể nhân
rộng và trở thành tấm gương cho thanh niên Công an nhân dân học tập, và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, xứng đáng với danh hiệu “Cơng an nhân dân vì nước quên thân vì dân phục vụ”.
Trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học về công tác xây dựng lực lượng Công an nhân dân - Những vấn đề lý
luận thực tiễn” (Bộ Công an, Hà Nội, 2011) đã kh ng định công tác xây dựng lực lượng Cơng an nhân dân có vị


trí vai trị quan trọng trong tồn bộ cơng tác Công an, là yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh to lớn để lực lượng

Cơng an nhân dân hồn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội mà Đảng,
Nhà nước và Nhân dân giao phó. Các bài viết đã đánh giá một cách tồn diện về cơng tác xây dựng lực lượng
Cơng an nhân dân trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho các em học viên, từ
đó góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, và đã đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả cơng
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học viên Công an, xây dựng lực lượng Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Trong bài viết “Đổi mới giảng dạy các mơn lý luận chính trị trong các học viện, trường Công an nhân
dân” (Bộ Công an, Kỷ yếu Hội thảo, 2015), tác giả Trương Giang Long đã đưa ra một số giải pháp cơ bản đó là:
“trước hết, phải nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của giáo dục lý luận chính trị ở các trường Cơng
an nhân dân; giảng dạy lý luận chính trị khơng tách rời những quan điểm, nguyên tắc về xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng lực lượng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; cơ cấu lại nội dung, kiến thức các môn học lý luận ở các học viện, trường công an
nhân dân; đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị theo hướng nâng cao tính tích cực của người học, lý
luận gắn liền với thực tiễn; quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên giảng dạy lý luận chính trị trong các học viện,
trường Công an nhân dân cả về số lượng và chất lượng, năng lực và phẩm chất” [21; tr. 3-7]. Nghiên cứu cơng
trình này cho chúng ta thấy được cái nhìn sâu sắc về chủ nghĩa yêunước mà tác giả đã vạch ra để từ đó đề xuất
các giải pháp phù hợp trong các học viện, trường Công an nhân dân.
Ngồi ra, trong bài viết “Vai trị của đội ngũ giáo viên đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy các
mơn lý luận chính trị trong các học viện, trường Công an nhân dân giai đoạn hiện nay” (Bộ Công an, Kỷ yếu
Hội thảo, 2015), tác giả Vũ Đức Khiển cũng cho rằng việc giáo viên giảng dạy lý luận chính trị có vai trị rất
quyết định đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn học này. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ giáo viên lý luận
chính trị ở các trường nói chung và đội ngũ giáo viên lý luận chính trị ở các học viện, trường Cơng an nhân dân
nói riêng đang có những vấn đề bất cập. Vì vậy, để đáp ứng được chất lượng giảng dạy lý luận chính trị tác giả
cũng đã đưa ra những giải pháp cơ bản trong việc đội ngũ giáo viên giảng dạy lý luận chính trị đó là: “phải
thường xuyên được bồi dưỡng, tái đào tạo để không ngừng hồn thiện chun mơn và bản lĩnh chính trị; các học
viện, trường Công an nhân dân cần tạo điều kiện để giáo viên lý luận chính trị được tham dự đầy đủ các lớp tập
huấn do Bộ giáo dục tổ chức; tổ chức học tập, nghiên cứu các tài liệu lý luận tại bộ môn, tại trường; ba là, thực tế
hiện nay việc sát nhập ba môn mà thực chất là ba bộ phận cấu thành Chủ nghĩa Mác - Lênin hiện đang bất cập,
trong khi đó thời gian giảng bị rút ngắn” [21; tr. 11-12].
Đồng tình với quan điểm trên của các tác giả, tác giả Cấn Văn Chúc trong bài viết “Xây dựng, nâng cao

chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy lý luận chính trị trong các học viện, trường Cơng an nhân dân góp phần
thực hiện thắng lợi đổi mới giáo dục đào tạo” (Bộ Công an, Kỷ yếu Hội thảo, 2015); tác giả Nguyễn Quang Thứ
trong bài viết “Đổi mới phương pháp giảng dạy các mơn lý luận chính trị trong các học viện, nhà trường Công
an nhân dân trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay” (Bộ Công an, Kỷ yếu Hội thảo, 2015); tác giả
Tống Văn Khuông trong bài viết“Một số vấnđề về đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy các mơn lý luận
chính trị ở các trường Cơng an nhân dân theo hướng phát triển năng lực của người học” (Bộ Công an, Kỷ yếu
Hội thảo, 2015). Thông qua những bài viết trên các tác giả đã luận giải việc đổi mới phương pháp giảng dạy lý
luận chính trị trong các học viện, trường Công an nhân dân nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học


này.
Đa dạng hóa những hình thức, phương pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tác giả Đoàn Văn Thuận trong
bài viết “Một số vấn đề về tổ chức hoạt động nghiên cứu thực tế gắn với giảng dạy, học tập các học phần lý luận
chính trị tại Trường Cao đẳng cảnh sát nhân dân II” (Bộ Công an, Kỷ yếu Hội thảo, 2015) đã đề ra những hình
thức, phương pháp tổ chức cho học viên lao động, sản xuất giúp Nhân dân địa phương tiếp cận những cái mới,
cái chưa biết; tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa và các hoạt động
thanh niên tình nguyện; hơn thế, cịn tổ chức cho học viên thực hiện ba cùng: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với
quần chúng Nhân dân để nắm tâm tư, nguyện vọng và những khó khăn trong đời sống của Nhân dân, thơng qua
đó để nắm bắt tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh trật tự và ngoài ra tổ chức các hoạt động
giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao giữa học viên nhà trường với chính quyền và Nhân dân địa phương.
Như vậy, có thể nói tác giả đã luận giải việc đa dạng hóa những hình thức, phương pháp giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho học viên Trường Cao đ ng Cảnh sát nhân dân II thông qua tổ chức hoạt động nghiên cứu thực tế thực
tiễn tại địa phương và đã mang lại những kết quả hết sức thiết thực.
Cùng chung với quan điểm trên, tác giả Hà Trọng Thà trong bài viết “Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
trong giảng dạy” và tác giả Lê Trung Kiên với bài viết “Kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực tế chính trị - xã hội
cho học viên Trường Đại học Phịng cháy chữa cháy” (Bộ Cơng an, Kỷ yếu Hội thảo,2015), các tác giả đã cho
rằng việc giáo dục lý luận chính trị cần phải thơng qua các hoạt động thực tế nhằm giúp cho học viên củng cố
nhận thức, có điều kiện so sánh, đối chiếu giữa kiến thức đã học với tình hình thực tế ở địa phương, bước đầu
thâm nhập vào thực tế cuộc sống lao động, sản xuất thông qua việc tham gia các hoạt động xã hội ở địa bàn cơ
sở.

Tóm lại, có thể thấy rằng giáo dục chủ nghĩa yêu nước là một chủ đề được Đảng, Nhà nước ta quan tâm rất
nhiều, khơng chỉ vậy nó cịn là chủ đề nghiên cứu của nhiều nhà khoa học khác nhau. Qua những cơng trình
nghiên cứu của các tác giả ở trên đã đưa ra một số phương hướng và những giải pháp cụ thể để nâng cao công
tác giáo dục chính trị tư tưởng nói chung và giáo dục chủ nghĩa yêu nước nói riêng ở Việt Nam hiện nay. Các giải
pháp như: tăng cường công tác kiểm tra giám sát góp phần thúc đẩy, hồn thành nhiệm vụ của người đảng viên;
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trước tiên là cán bộ lãnh đạo, quản lý; coi trọng tăng cường hơn nữa công tác giáo dục
chủ nghĩa yêu nước để bồi đắp lý tưởng cách mạng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, tạo
sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước; đổi mới cơng tác tuyên truyền, giáo dục về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra các giải pháp thực thi hữu hiệu bằng các hoạt động thực tiễn như giáo
dục chủ nghĩa u nước thơng qua sinh hoạt Đồn, Hội, chủ yếu là qua những đợt sinh hoạt chính trị, cơng tác
của các đội thanh niên tình nguyện, giúp dân cứu đói, giải quyết hậu quả của thiên tai; tổ chức tham quan các di
tích, lịch sử cách mạng, tham gia các lễ hội truyền thống, cách mạng hay những tổ chức vui chơi của thanh niên,
tổ chức vềnguồn; sinh hoạt văn nghệ, văn hóa phù hợp với tuổi trẻ và có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục lịng
u nước; việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ được tiến hành thường xuyên trong dạy học ở
trường phổ thông, cao đ ng và đại học, đặc biệt qua các môn học khoa học xã hội và nhân văn… những giải pháp
này bước đầu góp phần nâng cao công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Tuy nhiên, do góc độ nghiên cứu


khác nhau, nên các cơng trình trên cịn bỏ ngỏ hoặc chưa đưa ra giải pháp giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên
các trường Công an nhân dân. Vì vậy, tác giả kế thừa chọn lọc và vận dụng những cơng trình trên, để tiếp tục nghiên
cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các
trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Từ sự tổng quan các cơng trình nêu trên, đối chiếu với mục đích, nhiệm vụ luận án, tác giả nhận thấy:
Thứ nhất, do những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, các cơng trình trên chưa đưa ra một sự xác
định hệ thống và đầy đủ về thực chất, nội dung của khái niệm chủ nghĩa yêu nước. Cụ thể là, chủ nghĩa yêu nước
thường chỉ được định nghĩa một cách khái quát với một nội dung xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Sự vận

động, biến đổi, kế thừa, nâng cao và mở rộng nội dung của chủ nghĩa yêu nước chưa được quan tâm đầy đủ; đặc
biệt là trong điều kiện hiện nay với những biến đổi rõ rệt trong các quan hệ quốc tế.
Thứ hai, mặc dù luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của giáo dục chủ nghĩa u nước, nhưng các
cơng trình trên chưa đi sâu xem xét giáo dục chủ nghĩa yêu nước như là một loại hình giáo dục đặc thù; tính đặc
thù của giáo dục chủ nghĩa yêu nước là ở chỗ, nó phải được thể hiện và thực hiện thông qua các hình thức giáo
dục xác định khác.
Thứ ba, các cơng trình trên không trực tiếp nghiên cứu vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên
các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, thực trạng, nghĩa là những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân và giải pháp cho giáo dục chủ nghĩa yêu nước chỉ được trình bày và đề xuất trong khn khổ của
những nghiên cứu nhằm phục vụ cho những đối tượng khác, không phải là học viên các trường Công an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an
nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cần được đặt trong bối cảnh kinh tế, xã hội, tình hình và những yêu
cầu về trật tự, an ninh của Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như hồn cảnh cụ thể của các trường Cơng an nhân dân
ở Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực hiện chức năng giáo dục, đào tạo.
Từ sự kế thừa các thành tựu của những người đi trước, căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ của luận án đã
gợi mở cho tác giả khá nhiều vấn đề cần tập trung đi sâu nghiên cứu và giải quyết:
Một là, làm rõ hơn thực chất, cơ sở hình thành, nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; đặc biệt là
chỉ ra sự kế thừa, đổi mới, nâng cao và mở rộng nội dung chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện hiện nay.
Hai là, trên cơ sở phân tích những đặc điểm công tác giáo dục, đào tạo của các trường Công an nhân dân
ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, luận án sẽ xác định nội dung và những hình thức cụ thể thích hợp để giáo
dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên.
Ba là, xác định và phân tích những nhân tố tác động tới công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học
viên các trường Công an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Bốn là, phân tích và đánh giá thực trạng bao gồm: những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong công
tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Năm là, đề xuất, phân tích những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Những vấn đề đặt ra trên đây là cơ sở trực tiếp để tác giả luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ
trong đề tài luận án.



Tiểu kết chương 1
Như vậy, giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên nói chung và học viên các trường Công an nhân
dân là nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết và mang tính thời sự đối với xã hội ở các giai đoạn lịch sử nhất định.
Đây là một nội dung trong mục tiêu giáo dục của nền giáo dục nước nhà. Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, các cấp, các ngành đã đào tạo ra các thế hệ thanh niên yêu nước, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, đạo đức tốt, tinh thơng về chun mơn, nghiệp vụ, có lối sống giản dị,… góp phần to lớn vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học của các tác giả có liên quan đến đề tài luận án “Giáo dục chủ
nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an nhân dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, là cơ sở quan
trọng để tác giả luận án tiếp thu, chọn lọc và kế thừa được nhiều kiến thức bổ ích và làm sâu sắc thêm những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bởi vì, đây là những tài liệu được các tác giả dày công nghiên cứu về mặt lý
luận cũng như từ thực tiễn. Các tài liệu ấy đã luận giải, minh chứng về những vấn đề có liên quan đến đề tài luận
án của tác giả như: chủ nghĩa yêu nước là gì? cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước và một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho tầng lớp thanh niên hiện nay trong đó có bộ phận
học sinh - sinh viên. Như vậy, trong những cơng trình đã được cơng bố, nhưng chưa có cơng trình nào đề cập
một cách có hệ thống, sâu sắc và trực tiếp về giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho học viên các trường Cơng an nhân
dân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.


Chương 2

NHỮNG VẤN Ề LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA
YÊU NƯỚC CHO HỌC VIÊN CÔNG AN NHÂN DÂN HIỆN NAM
2.1. iáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
2.1.1.

Về các khái niệm giáo dục; yêu nước

* Khái niệm giáo dục:

Trong tác phẩm “ ý luận và phương pháp nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị”, tác giả Phạm Huy Kỳ
cho rằng: “Giáo dục là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội những tri thức, kinh
nghiệm được tích lũy trong quá trình lịch sử - xã hội của các thế hệ lồi người. Nhờ có giáo dục mà trình độ
nhận thức và cải tạo thế giới của con người ngày càng được nâng lên từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhờ đó mà
xã hội lồi người khơng ngừng phát triển” [72; tr. 20]. Như vậy, giáo dục là sự truyền đạt những kinh nghiệm, tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác nhằm nâng cao trình độ nhận thức của con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Kế thừa khái niệm về giáo dục của các nhà khoa học, theo chúng tơi: Giáo dục là q trình tác động có mục
đích, có tổ chức, có nội dung bằng nhiều phương pháp khoa học của nhà giáo dục đến sự phát triển tinh thần, thể chất
của người được giáo dục, nhằm bồi dư ng cho họ có được những phẩm chất và năng lực như những yêu cầu đã đặt ra
* Khái niệm yêu nước
Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có của tất cả dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, sự hình
thành chủ nghĩa yêu nước sớm hay muộn, mức độ đậm nhạt, nội dung và hình thức biểu hiện cũng như chiều
hướng phát triển có sự khác nhau, điều đó thường tùy thuộc vào từng dân tộc và trong những điều kiện lịch sử cụ
thể.
Yêu nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài
dựng nước và giữ nước, trở thành tình cảm thiêng liêng trong mỗi chúng ta. Từ những thời xa xưa, trong tâm hồn
của người Việt Nam đã hình thành rất sớm một lịng u nước thương nịi rất nồng nàn và mãnh liệt. Lòng yêu
nước ấy là dịng tư tưởng và tình cảm bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của nước Việt Nam xưa
kia. Trong lý tưởng thẩm mỹ của người Việt Nam, cái cao quý đẹp đẽ nhất là lòng yêu nước, là hành động giết
giặc cứu nước. Trí tuệ Việt Nam sâu sắc nhất cũng là trí tuệ đánh giặc cứu nước. Thần tượng anh hùng bền vững
nhất trong trái tim của Nhân dân cũng là thần tượng những anh hùng xả thân vì nước, vì dân. Đó chính là nét đặc
sắc nhất trong đời sống tinh thần, trong văn hóa và tâm lý dân tộc Việt Nam.
Trong tư duy, tình cảm của người Việt Nam, khái niệm “yêu nước” có liên quan đến khái niệm “đất” và
“nước”. Tư duy “nước” đi vào tâm thức người Việt Nam một cách tự nhiên. Các nhà nghiên cứu kh ng định rằng
khác với nhiều dân tộc khác, “nước” là khái niệm thuần túy của người Việt có từ xa xưa, xuất phát từ địa lý tự
nhiên vùng sông nước và từ điều kiện canh tác đặc thù của trồng lúa nước. Yêu nước Việt Nam không phải chỉ là
khái niệm trừu tượng mà có nội dung rất cụ thể, vì nước là tập hợp của làng, làng là cộng đồng của dân. Do đó,
u nước là u làng, tình u đó được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử và văn hố chung. Đó là
mẫu số chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện sâu sắc trong các câu truyện huyền thoại
Việt Nam, trong lễ hội và phong tục tập quán Việt Nam. Văn hố có vị trí quan trọng trong sự phát triển của dân

tộc Việt Nam, trong đó yêu nước là bậc thang giá trị cao nhất của văn hố. Vì vậy, bảo vệ văn hoá dân tộc chủ


×