Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

tiểu luận môn lý luận nhà nước và pháp luật đề tài án lệ lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.02 KB, 55 trang )

download by :


LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật vốn biểu thị ý chí của giai cấp thống trị và thể hiện quá trình phát triển của
một đất nước bằng việc điều chỉnh những mối quan hệ trong xã hội. Xã hội ngày càng
phát triển, vai trò pháp luật ngày càng được xem trọng. Song vì thế việc xuất hiện
những mối quan hệ xã hội phức tạp và thực tế cao đòi hỏi Pháp luật phải có sự can
thiệp kịp thời và cụ thể. Án lệ ra đời trở thành một phần không thể thiếu cho nền tư
pháp hiện đại, là sự bổ sung cho hệ thống pháp luật quốc gia bên cạnh các văn bản quy
phạm pháp luật, góp phần đưa pháp luật đi vào đời sống thực tiễn.
Ở một số nước hiện nay, đã và đang vận dụng án lệ vào việc xét xử để bù đắp những

khiếm khuyết, lỗ hổng mà bộ luật khơng thể bao qt hết được. Song đó. ở Việt Nam,
việc sử dụng án lệ vẫn chưa được phổ biến rộng rãi như nước khác. Vấn đề sử dụng án lệ
ở Việt Nam cịn đang ở q trình thảo luận thử nghiệm ở mức độ nhất định. Vì ta cho
rằng, án lệ sẽ phá vỡ đi tính thống nhất, đồng bộ và các quy tắc án lệ là các quy tắc ngầm
định (implicit rule) tồn tại trong các bản án dẫn đến việc nhận thức và xác định mức độ
khái quát, phạm vi áp dụng của một quy tắc rất khó khăn, phức tạp và thường gây ra
nhiều tranh cãi. Vì thế, việc áp dụng án lệ ở Việt Nam cịn vẫn mơ hồ, chưa định hình cụ
thể. Nhưng khơng vì thế ta bác bỏ án lệ, bằng việc ban hành Nghị quyết 249NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nghị quyết đã
nêu rằng: "Tịa án tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ...từng bước thực hiện cơng khai hóa bản án”. Việt
Nam đang từng bước thừa nhận các bản án thông qua những lần công bố án lệ điển hình
như. Ngày 17/10/2016 Chánh án Tịa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định
698/QĐ-CA năm 2016, Tịa án nhân dân tối cao, đã cơng bố thêm 04 án lệ hay tại Quyết
định 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 Tịa án nhân dân tối cao đã thơng qua 06 án lệ.
Với mục đích nghiên cứu tổng quát về án lệ và đề cập vấn đề sử dụng án lệ ở Việt Nam,
nhóm mong muốn rằng đề tài Án lệ - Lý luận và thực tiễn sẽ khai thác chủ đề theo khía
cạnh mới cùng với việc nêu quan điểm khách quan về việc áp dụng án lệ vào xét xử. Đây
là một đề tài ln được bàn luận vì những câu hỏi xoay quanh về việc Việt Nam có nên


áp dụng rộng rãi án lệ khơng. Để có thể trả lời câu hỏi đó thì xin mời cơ và các
i
i

download by :


bạn cùng theo dõi bài tiểu luận của nhóm. Trong q trình làm bài, nhóm sẽ khơng thể
tránh khỏi những sai sót nhất định nên mong cơ sẽ đưa ra những lời nhận xét góp ý
chân thành để nhóm có thể chỉnh sửa hồn thiện bài làm hơn.
Thay mặt nhóm nghiên cứu

Nguyễn Thanh Mai

iii

download by :


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TANDTC
Civil Law
Common Law
Nghị quyết
04/2019/NQ-HĐTP

BLDS
TAND
Viện KSND
HĐTD

GĐT
TTLT
UNDP

iv

download by :


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT........................................................................ iv
MỤC LỤC................................................................................................................... v
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ............................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÀ NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA ÁN LỆ....................1
1.1. Khái quát......................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm.................................................................................................. 1
1.1.2. Đặc điểm của án lệ.................................................................................... 1
1.1.3. Phân loại án lệ........................................................................................... 2
1.2. Nguồn gốc....................................................................................................... 3
PHẦN II: LÝ LUẬN VỀ ÁN LỆ................................................................................ 5
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC VÀ NGUYÊN TẮC HÌNH THÀNH ÁN LỆ..................5
2.1. Cấu trúc của án lệ............................................................................................ 5
2.1.1. Phần bắt buộc (ratio decidendi)................................................................. 5
2.1.2. Phần khơng bắt buộc (obiter dictum)........................................................ 5
2.2. Tiêu chí hình thành án lệ................................................................................. 6
2.3. Quy trình lựa chọn án lệ.................................................................................. 8
CHƯƠNG 3: NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG ÁN LỆ.................................................. 10
3.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ dựa trên nguyên tắc các vụ việc giống nhau phải
được giải quyết như nhau..................................................................................... 10

3.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ của các quốc gia trong hệ thống Common Law....10
3.2.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Anh........................................................... 11
3.2.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Mỹ............................................................. 12
3.3. Nguyên tắc áp dụng án lệ của các quốc gia trong hệ thống Civil Law..........13
3.3.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Pháp.......................................................... 14
3.3.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Đức........................................................... 14
CHƯƠNG 4: Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA ÁN LỆ............................................ 15
4.1. Ý nghĩa của án lệ........................................................................................... 15
4.1.1. Án lệ bổ sung cho những lỗ hổng, làm cụ thể hơn những điểm chưa rõ
ràng của luật thành văn..................................................................................... 15
v

download by :


4.1.2. Án lệ nâng cao khả năng sáng tạo và trình độ của thẩm phán.................15
4.1.3. Án lệ nâng cao trình độ của luật sư......................................................... 15
4.1.4. Án lệ tạo ra sự thống nhất và khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải
trong hoạt động xét xử giữa các cấp tòa án....................................................... 16
4.2. Hạn chế của án lệ.......................................................................................... 16
4.2.1. Tính khoa học không cao........................................................................ 16
4.2.2. Thủ tục áp dụng án lệ phức tạp............................................................... 16
4.2.3. Đòi hỏi sự sáng tạo, sự hiểu biết sâu sắc về luật pháp............................. 17
PHẦN III: ÁN LỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIỄN Ở THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM........................................................................................................................... 18
CHƯƠNG 5: ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT.....................................18
5.1. Đặc điểm án lệ trong hệ thống thơng luật...................................................... 18
5.1.1. Vai trị án lệ trong hệ thống pháp luật Anh.............................................. 19
5.1.2. Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.................................. 22
5.2. Đặc điểm án lệ trong hệ thống dân luật......................................................... 24

5.2.1. Án lệ không bắt buộc - không phải là nguồn luật chính thức..................25
5.2.2. Những Tịa án có thẩm quyền tạo ra án lệ trong hệ thống Dân luật.........27
CHƯƠNG 6: THỰC TIỄN SỬ DỤNG ÁN LỆ TẠI VIỆT NAM...........................30
6.1. Quá trình hình thành và phát triển án lệ ở Việt Nam.....................................30
6.2. Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ tại Việt Nam....................................... 31
6.3. Thực tiễn áp dụng án lệ tại Việt Nam............................................................ 34
6.3.1. Thống kê số lượng án lệ và bản án sử dụng án lệ.................................... 34
6.3.2. Tình hình áp dụng án lệ vào hoạt động xét xử........................................35
6.3.3. Tình hình áp dụng án lệ trong học tập, nghiên cứu Pháp luật:................36
6.3.4. Những điểm tích cực và hạn chế trong việc áp dụng án lệ tại Việt Nam . 37

PHẦN IV: MỞ RỘNG.............................................................................................. 41
CHƯƠNG 7: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP..................................................................... 41
PHẦN V: KẾT LUẬN............................................................................................... 44
KẾT LUẬN............................................................................................................. 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................. 45
1. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT........................................................... 45
2. SÁCH VÀ TẠP CHÍ........................................................................................ 45

vi

download by :


PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ ÁN LỆ
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÀ NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA ÁN LỆ
1.1. Khái quát
1.1.1. Khái niệm
“Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cơng bố là án lệ để các Tịa án
nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.”

1

Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được định nghĩa rằng: “Án lệ là việc làm luật của
tịa án khi cơng nhận và áp dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử, vụ việc đã
được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những trường hợp có tình tiết
hoặc vấn đề tương tự sau này.”

2

Theo từ điển Luật học Anh án lệ được hiểu là: “Bản án hoặc quyết định được nêu ra
để chứng minh cho một quyết định trong một vụ việc gần tương tự sau đó.”

3

Từ những khái niệm được trích ở phía trên, ta có thể ngầm hiểu án lệ là một hình thức
pháp luật nói lên những quyết định, phán quyết, giải thích pháp luật của cơ quan xét
xử hoặc cơ quan hành chính cấp cao thơng qua các bản án, từ đó được dùng để giải
quyết các vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự.
1.1.2. Đặc điểm của án lệ
Có thể nói, hệ thống pháp luật khác nhau nên quan niệm về án lệ sẽ khác nhau để phù hợp
với từng quốc gia nhưng nhìn chung, án lệ sẽ có một số đặc điểm chung nhất đinh: Thứ
nhất, án lệ phải là một bản án chứa đựng quyết định, phán quyết của tòa án. Những bản
án này phải gồm những cách thức chung về việc xét xử, ra quan điểm chung được tòa án
áp dụng để giải quyết vấn đề pháp luật. Án lệ hình thành dựa trên những vụ việc

1 Điều 1 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP
2 West Group St. Paul MN (2004), Black's Law Dictionary

3 Dictionary of Law (1993) 4th Edition, printed and published in England
1

download by :


hoặc do thẩm phán ban hành. Vì thế, giữa án lệ và thẩm phán có sự mật thiết với nhau.
Điển hình như với những các quốc gia áp dụng Thơng Luật (Common Law), thẩm
phán có một vai trị tích cực trong việc phát triển các quy định luật pháp. Ví dụ các
yếu tố xác định tội danh sát nhân phần nhiều dựa trên tiền lệ tư pháp hơn là dựa vào
định nghĩa văn bản luật ban hành. Đảm bảo tính nhất quán, tòa án tuân theo các tiền lệ
được thiết lập bởi các tòa án cấp cao hơn trong việc tương tự.
Thứ hai, quy định về việc ban hành một án lệ. có một lưu ý rằng khơng phải bản án nào
cũng có thể trở thành án lệ. Án lệ phải được thơng qua một số trình tự thủ tục nhất định
tuỳ theo quy định của mỗi quốc gia. Vì án lệ do thẩm phán tạo ra nên nhiều nơi và nhiều
lĩnh vực quy định án lệ có giá trị thấp hơn luật thành văn để tránh sự lạm quyền của thẩm
phán. Tuy rằng án lệ có tính cụ thể do ban hành dựa trên vụ việc xét xử nhưng đồng thời
nó cũng phải đảm bảo được tính khái qt cao để có thể đảm bảo việc xét xử cho các vụ
việc tương tự. Thông thường, khi xét xử một vụ việc nào đó, thẩm phán sẽ quan tâm đến
hai vấn đề: vấn đề sự kiện và vấn đề pháp lý. Đối với những vụ xét xử đơn thuần chỉ liên
quan đến việc xác định chất pháp lý của sự kiện và đã có quy định trong văn bản pháp
luật hay tiền lệ trước đó để áp dụng, tịa án sẽ không tạo ra án lệ khi giải quyết các vụ việc
này. Song đối với những bản án liên quan đến pháp lý nhưng mà vẫn chưa có quy tắc tiền
lệ để giải quyết thì lúc này án lệ sẽ ra đời.

Thứ ba, án lệ mang tính bắt buộc và tham khảo. Án lệ là cơ sở cho các tòa án cấp dưới
vận dụng khi xét xử một vụ án tương tự. Cơ sở này có có thể mang tính bắt buộc hoặc là
nguồn tham khảo cho các thẩm phán. Một án lệ sẽ được hình thành dựa trên ba yếu tố:
các tình tiết của vụ việc; lý lẽ hoặc lập luận; cuối cùng là quyết định của tòa án. Ở những
vụ việc việc xét xử đầu tiên vốn chỉ tạo ra khuôn mẫu hay phác thảo nên một quy tắc chứ

chưa phải là một quy tắc hoàn hảo, án lệ được hình thành phải trải qua hàng loạt các vụ
việc tương tự về sau. Các thẩm phán sau này khi giải quyết một vụ việc cần phải xác định
và đánh giá lý lẽ tương tự, nếu vụ việc này tương tự thì sẽ áp dụng lý lẽ trong bản án
trước để giải quyết vụ việc hiện tại, nếu không tương tự thì khơng áp dụng.

1.1.3. Phân loại án lệ

2

download by :


Thơng thường, án lệ sẽ phân thành ba loại chính bao gồm: Án lệ bắt buộc, Án lệ để giải
thích và Án lệ gốc được vận dụng theo sự áp đặt, bắt buộc hoặc tham khảo lựa chọn.
-

Án lệ bắt buộc: Là án lệ mà tòa án bắt buộc phải tn theo ví dụ, tồ án cấp
thấp hơn bị giới hạn bởi một cách áp dụng của một tòa án cấp cao hơn trong
một vụ xét xử tương tự.

-

Án lệ để giải thích: Là án lệ chỉ có thể được áp dụng cho một quy định pháp
luật hiện đã có rồi.

-

Án lệ gốc: Là án lệ tạo ra và áp dụng một quy định mới của pháp luật.

1.2. Nguồn gốc

Án lệ vốn được hình thành rất sớm trong xã hội trong khoảng thế kỷ thứ III Trước
Công Nguyên (thời La Mã cổ đại) nhằm để điều chỉnh những mối quan hệ phù hợp
với sự phát triển của xã hội nhưng dưới hình thức là các sắc dụ hoặc phán quyết.
Nhưng nguồn gốc chính thức của án lệ được bắt nguồn từ nước Anh. Bắt nguồn từ
khoảng năm 1066, án lệ được xem là hệ quả của của quá trình xây dựng chế độ phong
kiến tập trung của Hoàng gia Anh.
Sau khi đánh bại qn Anglo-Saxon, William I lên ngơi hồng đế. Vốn là một người có
tinh thần hịa giải nhân dân nên đã không áp đặt luật lệ của người Norman (nơi nguồn cội
của ông) lên người dân, cũng như không bắt bãi bỏ tập quán truyền thống nơi đây. Bên
cạnh đó, ơng cho phép giữ ngun pháp luật ở Anh và hệ thống tịa án ở các địa phương.
Chính vì thế luật pháp ở Anh khơng có sự thống nhất - tiền đề cho sự xuất hiện của Án lệ.
Song song với đó, ơng cho lập nên cung điện Buckingham nhằm xét xử những vấn đề của
người Norman. Tới thế kỉ XII, tịa Hồng gia đã thay mặt nhà vua giải quyết được nhiều
vấn đề và dần quy mô của tịa Hồng gia ngày càng được mở rộng về mặt quyền hành và
cả quy mô cơ cấu tổ chức thể hiện bằng việc thẩm phán Hoàng gia Anh trở thành thẩm
phán “lưu động” đi xét xử khắp đất nước và họ làm quen với các tập quán khác nhau. Cứ
thế, tịa Hồng gia ngày càng chiếm ưu thế, sự tín nhiệm người dân khắp nơi và cuối cùng
đã trở thành cơ quan xét xử duy nhất ở quốc gia.

3

download by :


Sau khoảng thời gian được tiếp xúc với nhiều tập quán khác nhau, các vị thẩm phán
thường sẽ tập trung ở Westminster để thảo luận và trao đổi về các tập quán tại các
vùng mà mình đã xét xử, từ đó tạo ra một cơ sở chung về các quyết định, phán quyết
cho các thẩm phán khác tham khảo và áp dụng xét xử cho các vụ việc có tình tiết
tương tự khi họ gặp sau này. Cách này ngày càng được phổ biến và tạo thành một tiền
lệ và khuôn mẫu nhất định cho các thẩm phán dựa theo đó mà đưa ra phán quyết hợp

lý. Họ cũng đồng thời lập nên nguyên tắc tiền lệ - tiền lệ phải được tôn trọng nhằm
đảm bảo cho việc đưa ra phán quyết mang tính khn mẫu.
Về sau ngun tắc này được cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Vua công nhận
như một nguyên tắc xét xử chung cho người dân trên khắp lãnh thổ quốc gia Đây cũng
chính là nguồn gốc của sự ra đời của tiền lệ pháp. Thơng qua tiền lệ pháp, các thẩm
phán có thể dễ dàng xét xử các vụ việc mà khơng cịn gặp những bất cập khó khăn
như trước. Từ việc đó, luật của tịa Hồng gia dần trở thành luật chung của quốc gia,
kể từ lúc này, hệ thống pháp luật của nước Anh cơ bản được thống nhất. Có thể nói sự
ra đời của tiền lệ pháp đã đáp ứng được nhu cầu thống nhất luật pháp của chế độ quân
chủ ở Anh trong thời kì này. Ngồi ra, tiền lệ pháp còn đề cao vai trò của thẩm phán
bằng việc xây dựng và đóng góp những quy tắc mới trong việc xét xử bản án. Bên
cạnh đó cịn là sự kế thừa từ tập quán pháp. Sự kế thừa này là một điều tất yếu vì đây
chính là đặc điểm mang tính lịch sử của pháp luật Anh, đó là tình kế thừa và "tính kết
nối bền vững khơng thể phủ nhận được với quá khứ”. Cũng từ đây, hệ thống pháp luật
mang tên “Thông luật” (Common Law) dựa trên nền tảng này đã ra đời và được hiểu
là truyền thống pháp luật dựa trên các án lệ.

4

download by :


PHẦN II: LÝ LUẬN VỀ ÁN LỆ
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC VÀ NGUYÊN TẮC HÌNH THÀNH ÁN LỆ
2.1. Cấu trúc của án lệ
Khi nghiên cứu án lệ, người ta thường đề cập đến những vấn đề về bối cảnh vụ việc,
luật áp dụng, giải thích luật và áp dụng vào bối cảnh vụ việc. Ngoài ra, các nhà nghiên
cứu cũng cho ra có một cặp phạm trù có thể được áp dụng để bóc tách những yếu tố
quan trọng trong vụ việc, hiểu thêm về án lệ: Phần không bắt buộc (obiter dictum) và
Phần bắt buộc (ratio decidendi). Với việc lập ra cấu trúc này, ta xác định phần nào của

bản án sẽ được tuân theo trong lần xét xử sau, không phải bất cứ nội dung nào nêu
trong bản án, phán quyết của Tịa án thì đều được coi là có giá trị ràng buộc đối với
các Tịa án cấp dưới khi xét xử một vụ án sau này.
2.1.1. Phần bắt buộc (ratio decidendi)
Phần này được hiểu như là một quy tắc pháp lý bắt buộc cho những bản án về sau
cũng như đóng vai trị là lý do quyết định của bản án. Để một bản án có thể trở thành
án lệ hay khơng thì khi thẩm phán đưa ra những phán quyết, quyết định họ cần phải
chứng minh được những lập luận, quan điểm của mình trở nên thuyết phục. Trong đó
những điểm lập luận đóng vai trị quan trọng chính là phần ratio decidendi. Việc xác
định phần bắt buộc là vấn đề phức tạp bởi vì khơng có một tiêu chí nào cố định cho
việc nhận diện các tình tiết mà Thẩm phán đưa vào để đưa ra quyết định của vụ án.
2.1.2. Phần không bắt buộc (obiter dictum)
Khi thẩm phán đưa ra những lập luận quan điểm của mình thì bên cạnh những điểm
đóng vai trị quan trọng - ratio decidendi thì phần cịn lại chính là obiter dictum. Đây
là những phần căn cứ không bắt buộc đối với quyết định của Tòa án. Những phần này
thường không ảnh hưởng nhiều đến phán quyết của thẩm phán, có thể có hoặc khơng
trong bản án.

5

download by :


Trong đó, obiter dictum được chia làm hai loại:
-

Loại thứ nhất là các quy tắc được thẩm phán đưa ra mà không dựa trên các sự
kiện pháp lý của vụ kiện

-


Loại thứ hai là các quy tắc pháp lý do thẩm phán đưa ra dù đã dựa trên các sự
kiện pháp lý của vụ kiện, nhưng không phải là cơ sở của quyết định tòa án.

Khi một phán quyết được đề ra thường sẽ rất phức tạp, các cơ quan tài phán có thể viết rất
dài dịng và đơi khi khơng rõ ràng. Vì thế, thơng qua cấu trúc trên ta có thể dễ dàng biết
được phần quan trọng bắt buộc trong lập luận phức tạp đó. Nhưng một vấn đề xảy ra rằng
có thể đối với mỗi người khi đọc những lập luận thì họ sẽ phân tách khác nhau. Tùy thời
điểm đọc mà lúc này ta cho rằng đoạn lập luận đó thuộc phần obiter dictum nhưng có thể
tương lai sự phát triển của luật quốc tế lại khiến cho đoạn đó thành ratio decidendi. Vì thế
nên cặp phạm trù này mang tính tương đối, nhưng vẫn hữu ích.

2.2. Tiêu chí hình thành án lệ
Án lệ ngày nay đã và đang đóng một vai trị vơ cùng quan trọng trong việc xét xử vụ
việc bên cạnh những nguồn luật khác. Do vậy, việc xây dựng và ban hành án lệ phục
vụ cho việc xét xử tại các nước đã và đang ngày càng được quan tâm. Để cấu thành
nên một án lệ ở mức độ hoàn chỉnh nhất định, mỗi quốc gia sẽ có những tiêu chí khác
nhau nhưng nhìn chung các nước sẽ có nhiều điểm tương đồng sau:
Thứ nhất, nội dung của án lệ phải chứa đựng vấn đề pháp lý. Để có thể trở thành án lệ
thì trước hết sự kiện hay tình huống pháp luật phải nảy sinh từ trong thực tế cùng với
việc những phán quyết, quyết định của thẩm phán sẽ là cơ sở cho những bản án sau
này. Khi một vụ việc được xét xử mà vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy
định đề cập hoặc đề cập ở mức độ chưa chi tiết không phù hợp với bản án thì khi này
vai trị của thẩm phán sẽ được đề cao thơng qua việc phải tìm ra giải pháp để giải
quyết vụ việc cụ thể đó. Từ đó những phán quyết của thẩm phán lúc này về vụ việc sẽ
là tiền đề của án lệ tương lai.

6

download by :



Thứ hai, nội dung án lệ phải chứa đựng các quan điểm pháp luật. Ở tiêu chí này, quan
điểm pháp luật là bắt nguồn từ việc xét xử một bản án cụ thể được khái quát lên trở
thành những quy tắc chung để các thẩm phán khác có thể tham khảo hoặc làm theo ở
những bản án sau. Ở mỗi bản án khi trở thành án lệ đều thể hiện những quan điểm,
đánh giá của thẩm phán đối với câu hỏi pháp luật đặt ra một cách rõ ràng, dứt khoát.
Quan điểm của thẩm phán đối với vấn đề pháp lý mới nảy sinh trong vụ án sẽ được
chấp nhận khi thẩm phán có những lập luận đưa ra trong một án lệ hợp lý và có logic.
Thứ ba, Đa số nguồn gốc của án lệ thường là bản án của Tòa án cao nhất trong hệ thống
Tòa án. Tại Việt Nam theo Nghị quyết số 74/QĐ-TANDTC năm 2012 về việc phê duyệt
Đề án “Phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao” quy định: “Quyết định trở thành án
lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và
4

Quyết định giám đốc thẩm của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao được Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua khi hội đủ ba điều kiện sau: Là quyết định
chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số các văn bản quy phạm pháp luật
(Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) về một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật đề cập hoặc đề cập cịn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc
có mâu thuẫn; Được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao hoặc các Thẩm phán
viện dẫn làm căn cứ trong phần lập luận, quyết định của bản án, quyết định về vụ án cụ
thể; Là Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao sau cùng về vấn đề pháp
5

lý đó mà được các Tồ án khác vận dụng giải quyết vụ việc có nội dung tương tự” . Đối
với quy định trên, ta thấy rằng chỉ có những quyết định Tịa án nhân dân tối cao mới có
thể trở thành án lệ. Quy định này cũng có phần hợp lý vì nhằm đảm bảo tính đồng nhất và
chặt chẽ bình đẳng tránh việc tạo ra những án lệ không phù hợp. Tuy nhiên, tiêu chí này
đã được bác bỏ cụ thể, điểm c, khoản 2, Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy

định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn “Lựa chọn
quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán

4 Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014 thì trong cơ cấu tổ chức của Tịa án

nhân dân tối cao đã khơng cịn các Tịa chun trách, mà chỉ có Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
bộ máy giúp việc và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
5 Điểm d Khoản 3 mục I Điều 1 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC năm 2012 về việc Phê duyệt Đề án “Phát triển
án lệ của Tòa án nhân dân tối cao.

7

download by :


Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực
của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và cơng bố án lệ để các Tịa án nghiên cứu,
áp dụng trong xét xử”. với điều luật mới, án lệ khơng cịn bị hạn chế về nơi ban hành nữa
mà bây giờ khơng chỉ Tịa án nhân dân tối cao ban hành nữa mà chỉ cần là bản án trong
hệ thống tịa án của Việt Nam thì đều có thể chấp thuận trở thành án lệ.

Thứ tư, các án lệ phải phát sinh từ những tranh chấp có thật. Tất nhiên án lệ bắt nguồn
từ những vụ việc nảy sinh trong thực tế, chính vì thế Tịa phá án chỉ có thể đưa ra
những lập luận trong khi thực hiện việc xem xét kháng cáo của một tranh chấp thực tế
hoặc trong trường hợp đưa ra giải thích luật khi Tòa án cấp dưới cần ý kiến về một
vấn đề pháp lý mới phát sinh trong quá trình giải quyết một vụ kiện. Chính những lập
luận này sẽ trở thành án lệ. Tương tự, Việt Nam cũng đã có quy định về việc này: “Có
giá trị làm rõ quy định của pháp luật cịn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích
các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật
cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề

6

chưa có điều luật quy định cụ thể” .
2.3. Quy trình lựa chọn án lệ
Cụ thể ở đây, ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về quy trình trên ở Việt Nam. Theo Nghị quyết
04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thì Án lệ được
quy định hình thành như sau:
Bước 1: Rà sốt, phát hiện bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành án lệ.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có thể gửi những quyết định, bản án có hiệu lực
pháp luật chứa các quan điểm, phán xét của họ về Cơ quan cao nhất - Tòa án nhân dân
tối cao. Từ đây, các tịa án khác sẽ rà sốt, kiểm định để xem rằng những phán quyết,
quan điểm của thẩm phán trong bản án đó có phù hợp với đáp ứng các tiêu chí để lựa
chọn án lệ rồi sẽ gửi lên Tòa án nhân dân tối cao xem xét.
Bước 2: Lấy ý kiến đối với quyết định, bản án được đề xuất lựa chọn, phát triển thành
án lệ.

6 Khoản 1, Điều 2 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
8

download by :


Những bản án được lựa chọn, đề xuất sẽ được tải lên các cổng thơng tin điện tử của
Tịa án nhân dân tối cao để các cá nhân tổ chức có thể vào đóng góp ý kiến trong
khoảng 30 ngày.
Bước 3: Tạo ra Hội đồng tư vấn án lệ
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thành lập ra Hội đồng tư vấn án lệ gồm tối thiểu 09
thành viên. Chủ tịch Hội đồng tư vấn án lệ là Chủ tịch của Hội đồng khoa học Tòa án
nhân dân tối cao, các thành viên khác sẽ đại diện cho các nơi như: Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, các chuyên gia về pháp luật,

đại diện tổ chức, cơ quan có liên quan và 01 đại diện lãnh đạo Vụ Pháp chế và Quản
lý khoa học của Tòa án nhân dân tối cao.
Bước 4: Lấy ý kiến Hội đồng tư vấn án lệ
Những ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ sẽ được ghi lại dưới hình thức văn bản hoặc
phiên họp trực tiếp. Các thành viên trong Hội đồng lần lượt nêu ý kiến và Chủ tịch Hội
đồng tư vấn án lệ sẽ tổng hợp và nộp báo cáo về cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Bước 5: Thông qua án lệ
Sau khi đưa ra quyết định, thu thập các ý kiến khác nhau, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao tổ chức phiên họp có tồn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để
thực hiện thảo luận và biểu quyết. Để án lệ được thơng qua cần ít nhất 2 trên 3 tổng số
người tham gia biểu quyết đồng ý, cùng với việc quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao phải được quá một phần hai tổng số thành viên của Hội đồng
Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Bước 6: Công bố án lệ
Sau khi án lệ được thông qua theo hình thức ở bước 5, Chánh án Tịa án nhân dân tối
cao sẽ thực hiện công bố án lệ.

9

download by :


CHƯƠNG 3: NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG ÁN LỆ
3.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ dựa trên nguyên tắc các vụ việc giống nhau phải
được giải quyết như nhau
Nguyên tắc áp dụng án lệ trong tiếng Anh được diễn đạt bằng cụm từ “Doctrine of
precedent” hoặc cũng có thể là những cụm từ tương tự khác và học thuyết stare decisis
có nguồn gốc từ Latin và được dịch sang tiếng Anh là “stand by the thing decided and
do not disturb the calm”


7

(nghĩa là: giữ điều gì đó đã được quyết định và đừng thay

đổi). Như vậy, một nguyên tắc pháp lý đã được thiết lập bởi một tòa án cấp trên (án lệ)
phải được tuân theo trong các trường hợp tương tự khác đối với cả tồ án đó và các
tồ án khác. Và học thuyết stare decisis được nhận xét là: “promotes the evenhanded,
predictable, and consistent development of legal principles, fosters reliance on judicial
decisions, and contributes to the actual and perceived integrity of the judicial
8

process.” (tạm dịch: “thúc đẩy sự phát triển đồng đều, có thể dự đốn và nhất quán
của các nguyên tắc pháp lý, thúc đẩy sự tin cậy vào các quyết định tư pháp và góp
phần vào tính tồn vẹn thực tế và được nhận thức của quá trình tư pháp”). Để án lệ
được thống nhất tuân theo cần điều kiện gì là câu hỏi được nhiều người quan tâm.
3.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ của các quốc gia trong hệ thống Common Law
Ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law điển hình như Anh, Mỹ, Úc án lệ

được xem là nguồn luật chính thức, cụm từ “Case law” nghĩa là “luật được hình thành
theo vụ việc”, án lệ là một yếu tố đã gắn sâu vào văn hoá pháp lý của các quốc gia này.
Án lệ ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law đòi hỏi Thẩm phán phải tôn
trọng và tuân theo các bản án đã tuyên của Tòa án cấp trên theo nguyên tắc bắt buộc.
7 Catriona Cook, Robin Creyke, Robert Geddes, David Hamer, Laying down the law, Lexis Nexis
Butterworths, 2005, p.76
8 Neil Philip O’Donnell, Agbeko Petty, Kimble v. Marvel Enterprises (2015),
/>
10

download by :



Để án lệ có giá trị bắt buộc cần có hai điều kiện: thứ nhất phải theo thứ bậc trong tòa
án, thứ hai quyết định trước đây của tòa án phải đề cập đến những vấn đề pháp lý
tương tự và có các sự kiện pháp lý cũng tương tự. Nếu khơng thỏa mãn tính chất này
thì án lệ có thể bị bác bỏ. Đồng thời áp dụng nguồn án lệ cũng dựa trên những phân
tích bối cảnh và tìm lý do để quyết định đối với vụ việc cần giải quyết, thẩm phán khi
áp dụng án lệ phải căn cứ vào những nhận định quan trọng đi đến kết luận chứ khơng
dựa vào phần bình luận của thẩm phán.
3.2.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Anh
Xét dựa trên dòng lịch sử, án lệ đã được sử dụng từ rất sớm cụ thể từ thế kỷ XIII, tuy
nhiên việc tuân theo án lệ tại thời điểm ấy không được xem như nghĩa vụ mà các toà
án phải bắt buộc tuân theo. Mãi cho đến cuối thế kỷ XIX, chính nhờ sự thành lập của
Incorporated Council of Law Reporting (Hội đồng cơng bố các bản án) đã giúp cho
tính hệ thống của các án lệ được củng cố và đó cũng chính là cơ sở để nguyên tắc bắt
buộc tuân theo án lệ được công nhận ở hệ thống các toà án cũng như hệ thống pháp
luật Anh. Tuy nhiên việc bắt buộc tuân theo án lệ đã tạo nên sự cứng nhắc trong văn
hoá pháp lý của Anh nên 26/7/1966, Thượng Nghị viện Anh (House of Lord) đã khắc
phục bằng cách tun bố những án lệ khơng cịn phù hợp, sai luật có thể bị bãi bỏ và
điều đó đã tạo nên sự linh hoạt trong cách áp dụng án lệ của Anh đến hiện nay.
Tại Anh có ba nguyên tắc trong mối quan hệ giữa tòa án trong hệ thống tòa án với sự
tuân thủ án lệ được Rupert Cross nêu ra như sau:
(1) tất cả tòa án phải lưu ý đến các án lệ có liên quan đến vụ án trong hoạt động xét xử
(2) tất cả các tòa án cấp dưới phải tuân thủ án lệ của các tòa án cấp trên trong hệ thống
(3) các tịa án phúc thẩm nhìn chung bị ràng buộc bởi chính án lệ của nó trong hoạt

động xét xử.

9


9 Rupert Cross, ‘ The house of lords and Rule of Precedent’, in Law, Morality and Society (1977), ed. P.M.S
Hacker and J.Raz, p145

11

download by :


Song song với việc đó thì án lệ tại Anh cũng có thứ bậc giá trị pháp lý theo Tồ án có
thẩm quyền tạo ra nó, cụ thể, án lệ của Tòa án tối cao Vương quốc Anh (The Supreme
Court) có hiệu lực pháp lý cao nhất và Tồ án Cấp cao (The High court) cùng Toà án
Phúc thẩm (Court of Appeals) cũng có thẩm quyền tạo ra án lệ như hiệu lực sẽ có giá
trị thấp hơn. Án lệ của Tịa án Cấp cao có giá trị bắt buộc đối với các toà án địa
phương và toà án sơ thẩm ở các thành phố và Tịa án Hình sự địa phương
(Magistrates’ courts), Tòa án Dân sự địa phương (County courts) khơng tạo ra án lệ.
Tồ án Hồng gia (Crown Court) có thể coi ngang với Tồ án Cấp cao về mặt cấp độ
tuy nhiên các bản án của Tòa án Hồng gia khơng được xem là các án lệ, bởi lý do là
nó khơng được xuất bản một cách có hệ thống, Tịa phúc thẩm ở Anh là cấp độ cao
hơn Tịa án Cấp cao và Tịa án Hồng gia.
3.2.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Mỹ
Trong hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Mỹ chiếm một vị trí rất
quan trọng, án lệ đã được xuất hiện từ rất lâu tại Mỹ do người Anh đã dùng xuyên suốt
những án lệ của mình trong quá trình duy trì thuộc địa ở Mỹ. Hệ thống pháp luật của
Mỹ bị ảnh hưởng rất sâu sắc bởi hệ thống pháp luật của Anh việc đó đã tạo nên sự
tương đồng trong nguyên tắc áp dụng án lệ giữa hai nước. Dấu mốc khi Hiến pháp Mỹ
ra đời đã đánh dấu cho việc khơng có một sự tiếp nhận chính thức hệ thống luật pháp
của Anh (thơng luật) vào Mỹ, với Mỹ có sự tương đối đối ngược nhau khi vừa từ bỏ
hệ thống thông luật nền tảng bị ảnh hưởng bởi nước Anh vừa phát triển nó dựa trên
điều kiện, lập trường riêng.
Mỹ, một đất nước với nhiều bang và tại mỗi bang đều có một hệ thống tịa án của

riêng mình, các phán quyết xét xử của tòa phúc thẩm và tòa tối cao thường được xuất
bản và phát triển thành án lệ. Tính ràng buộc, thống nhất được thể hiện tương đối ở
chỗ vụ việc được giải quyết ở một bang có thể trở thành án lệ đối với các bang khác.
Tại Mỹ học thuyết stare decisis được áp dụng mềm dẻo và linh hoạt hơn ở Anh. Roger
Cotterell từng chia sẻ: “lý luận về thông luật khơng địi hỏi phải lệ thuộc mù qng vào

12

download by :


10

án lệ” . Những kết luận để xét xử vụ việc có thể khơng phụ thuộc hồn tồn vào án lệ
mà cịn dựa trên chính sách chung. Ở một góc nhìn khác cũng có thể đưa ra nhận định
rằng học thuyết stare decisis tại Mỹ dường như không được hoạt động hiệu quả như ở
Anh. Các án lệ ở một bang không nhất thiết áp dụng với tất cả các bang cịn lại mà đơi
khi dưới quan điểm pháp luật khác nhau thì các bang khác hồn tồn có thể giải quyết
vụ việc theo hướng trái ngược lại. Triết lý xét xử của tòa án thay đổi theo quan điểm
cá nhân của người thẩm phán về vấn đề đang giải quyết và ở thời điểm giải quyết vụ
11

việc . Khu biệt và bác bỏ án lệ là những hoạt động có thể diễn ra trong q trình áp
dụng án lệ để giải quyết các vụ việc không chỉ riêng tại Mỹ mà cịn với các quốc gia
khác. Khu biệt có thể áp dụng ở toàn bộ các toà án, hai lý do để đưa tới khu biệt: (1)
án lệ được đưa ra trước đó quá chung chung, cần thu hẹp giới hạn trong các sự kiện
pháp lý của vụ việc đó; (2) thẩm phán có thể lấy lý do án lệ trước đó khơng thỏa đáng,
có thể viện dẫn được đưa ra ở đây là nếu áp dụng sẽ gây ra khó khăn và bất ổn. Bác bỏ
là khi nếu thẩm phán thấy án lệ sai hoặc khơng cịn phù hợp trong một số vụ việc thì
có thể bác bỏ và đưa ra phán quyết khác với quyết định trong án lệ. Chỉ có tịa cấp cao

hoặc tịa cùng cấp mới có thể bác bỏ án lệ.
3.3. Nguyên tắc áp dụng án lệ của các quốc gia trong hệ thống Civil Law
Ở các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Civil Law điển hình như Pháp, Đức… án lệ
khơng có giá trị bắt buộc, là nguồn luật thứ yếu. Đó là điểm khác nhau giữa hệ thống
Common Law và Civil Law, với Common Law, án lệ có giá trị bắt buộc và là nguồn luật
chính. Lý do dẫn đến sự khác biệt này là ở các nước Civil Law bị ảnh hưởng sâu sắc của
học thuyết phân chia quyền lực, các bộ luật có tầm ảnh hưởng rất lớn và luật do Nghị
viện ban hành là nguồn luật chính thức nên nguyên tắc tuân theo án lệ, nguyên tắc áp
dụng án lệ không tồn tại. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian gần đây, Pháp, Đức hay

10

Roger Cotterrell, The Politics of Jurisprudence A Critical Introduction To Legal Philosophy, Second
edition, Lexis NexisTM UK (1989), p23

11 Nguyễn Quốc Hồn, Giáo trình Luật so sánh (2015), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr 298

13

download by :


các nước Dân luật khác án lệ đã và đang được phát triển trở thành một nguồn luật
quan trọng, như một phương pháp giải thích pháp luật.
3.3.1. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Pháp
Trong hệ thống pháp luật của Pháp, án lệ là nguồn luật khơng chính thức nên nó
khơng có giá trị bắt buộc. Điều đó đồng nghĩa án lệ chỉ có giá trị tham khảo đối với
tịa án các cấp mà không bắt buộc phải tuân theo. Theo điều 5 Bộ luật Dân sự Pháp
1804 quy định: “Cấm thẩm phán ban hành các quy định mang tính lập pháp hay lập
quy có hiệu lực áp dụng chung cho các vụ việc mà mình xét xử”. Điều luật này đã

12

gián tiếp cấm việc sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử của các thẩm phán ở Pháp .
Tuy nhiên khác với lĩnh vực luật dân sự, luật hành chính của Pháp khơng được pháp
điển hóa, án lệ đóng vai trị quan trọng. Tham chính viện (Conseil d’Etat), Tồ án hành
chính tối cao, đưa ra nhiều quyết định để giải quyết một số vấn đề được coi là án lệ.
Các cơ quan hành chính nhà nước ln tơn trọng các quyết định của Tham chính viện
và coi đó như là nguồn của luật hành chính.
3.3.2. Nguyên tắc áp dụng án lệ tại Đức
Hệ thống pháp luật của Đức tương đối khác với Pháp, án lệ có một vị trí quan trọng
trong pháp luật với vai trị giải thích pháp luật cho các nội dung của các văn bản luật,
được coi là một nguồn luật của hệ thống pháp luật Đức. Án lệ của Tòa án Hiến pháp
liên bang có giá trị bắt buộc, được xem là luật cịn án lệ của các tồ án khác thì khơng
có giá trị bắt buộc. Với luật sư, chú ý đến án lệ của Tòa cấp cao đã tuyên cũng là điều
quan trọng, nếu tư vấn không đúng sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Trong
trường hợp tòa án cấp dưới khơng tn theo án lệ mà Tịa tối cao Đức đã tun, thì các
tồ án cấp dưới có nghĩa vụ giải thích rõ vì sao nó khơng tn theo. Khi án lệ khơng
cịn phù hợp có thể bị bãi bỏ.

12

Nguyễn Văn Nam, ThS, Học viện An ninh nhân dân, Án lệ trong hệ thống pháp luật dân sự các
nước Pháp, Đức và việc sử dụng án lệ ở Việt Nam (2011),
/>
14

download by :


CHƯƠNG 4: Ý NGHĨA VÀ HẠN CHẾ CỦA ÁN LỆ

4.1. Ý nghĩa của án lệ
4.1.1. Án lệ bổ sung cho những lỗ hổng, làm cụ thể hơn những điểm chưa rõ ràng

của luật thành văn
Quan hệ xã hội trong thực tế ln khơng ngừng biến đổi nên địi hỏi quan hệ pháp luật
cũng phải biến đổi theo, những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực thế cũng rất nhiều
và khác nhau. Chính vì lý do đó mà khi các văn bản luật thành văn ra đời không phải
lúc nào cũng theo kịp sự thay đổi của đời sống xã hội, dự liệu rõ ràng do quy trình rất
chặt chẽ từ tư vấn, soạn thảo đến ban hành tiêu tốn rất nhiều thời gian. Một số trường
hợp, quy định pháp luật khơng cụ thể hoặc khơng có pháp luật điều chỉnh gây khó
khăn trong việc xét xử tại Tịa án. Án lệ ra đời để khắc phục những lỗ hổng bởi án lệ
mang tính linh hoạt, mềm dẻo, đáp ứng kịp thời nhu cầu thực tế.
4.1.2. Án lệ nâng cao khả năng sáng tạo và trình độ của thẩm phán
Để giải quyết những vụ việc tại Tịa án mà khơng có luật điều chỉnh, các thẩm phán sẽ
phải áp dụng án lệ để giải quyết các vấn đề tương tự, thẩm phán có quyền giải thích,
lập luận và sáng tạo ra luật để bù đắp vào điểm thiếu hụt mà văn bản quy phạm pháp
luật chưa đề cập đến. Trong trường hợp, nếu những quy định pháp luật chung chung
thẩm phán sẽ phải giải thích pháp luật để áp dụng vào các vấn đề. Vì vậy, để có một
án lệ có giá trị u cầu thẩm phán phải có trình độ cao, khả năng lập luận tốt.
4.1.3. Án lệ nâng cao trình độ của luật sư
Án lệ địi hỏi các luật sư nâng cao trình độ pháp lý, khả năng nghiên cứu để áp dụng khi
giải quyết các vấn đề trong thực tế. Luật sư khi tham gia tranh tụng cần tìm ra sự khác
biệt tình tiết giữa hai vụ việc trong trường hợp tòa án xét xử căn cứ vào án lệ mà nó gây
bất lợi cho thân chủ hoặc cần tìm ra án lệ phù hợp để làm căn cứ cho lập luận của mình.

15

download by :



4.1.4. Án lệ tạo ra sự thống nhất và khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải
trong hoạt động xét xử giữa các cấp tòa án
Trong hệ thống Common Law, Civil Law hay các hệ thống pháp luật khác, hệ thống
tòa án đều được thống nhất theo nguyên tắc riêng của mỗi quốc gia. Án lệ được tạo ra
để thống nhất phương pháp giải quyết những vấn đề cụ thể đối với các tồ án các cấp.
Tuy án lệ có thể mang tính chất bắt buộc hay tính chất tham khảo, nhưng hiện nay hầu
hết toà án cấp dưới đều có xu hướng nghiên cứu phương pháp cũng như cách xét xử
của tòa án cấp cao hơn, do vậy khi tồ án cấp cao hơn đưa ra án lệ thì nó sẽ có giá trị
thực thi đối với tịa án cấp thấp hơn hoặc cùng cấp từ đó tạo ra sự thống nhất và công
bằng cách giải quyết cho các vụ việc tương tự nhau. Không những vậy án lệ cịn góp
phần thúc đẩy tính cơng bằng trong quan hệ xã hội khi các hành vi giống nhau thì xét
xử như nhau. Tính mềm dẻo, linh hoạt, dựa vào thực tiễn của án lệ tạo nên sự mềm
dẻo, tính nhân đạo, tính xã hội của pháp luật. Luật thành văn là nền tảng nhưng lại
mang sự cứng nhắc nên không phải tất cả các trường hợp luật thành văn cũng là
phương hướng giải quyết tối ưu nhất khi xã hội liên tục biến đổi.
4.2. Hạn chế của án lệ
4.2.1. Tính khoa học khơng cao
Vì án lệ là sự sáng tạo, lập luận của thẩm phán nên sẽ có một vài trường hợp thẩm
phán đưa ra lập luận thiếu tính khoa học. Án lệ có tính linh hoạt cao nên rủi ro kèm
theo là điều khó có thể tránh. Với văn bản quy phạm pháp luật, vì quy trình hình thành
rất chặt chẽ từ tư vấn, soạn thảo đến ban hành nên lập luận rất chặt chẽ. Còn với án lệ
là dựa trên lập luận của thẩm phán nên mang tính chủ quan dựa trên lẽ công bằng,
được nâng lên thành luật mà khơng thơng qua q trình nghiên cứu của cơ quan lập
pháp nên có rất nhiều trường hợp thẩm phán lảng tránh việc áp dụng án lệ bằng cách
đưa ra sự khác nhau giữa các tình tiết pháp lý. Thực tế, án lệ được tạo ra từ thực tiễn
nên án lệ vô cùng phong phú và biến đổi liên tục, nó khơng ổn định, hệ thống như các
văn bản quy phạm pháp luật.
4.2.2. Thủ tục áp dụng án lệ phức tạp
16


download by :


Trong một vụ án có thể áp dụng nhiều án lệ khác nhau, nhiều lập luận khác nhau trong
một án lệ, điều này tạo nên sự phức tạp trong thủ tục áp dụng án lệ. Nếu như khi áp
dụng các văn bản quy phạm pháp luật, các thẩm phán, luật sư có thể căn cứ rõ ràng,
nhanh chóng thì đối với án lệ, khi áp dụng có thể áp dụng lập luận này của một bản án
kết hợp với lập luận khác của một bản án khác, nó tạo nên sự phức tạp.
4.2.3. Đòi hỏi sự sáng tạo, sự hiểu biết sâu sắc về luật pháp
Vì tính sáng tạo, linh hoạt tốt của án lệ nên yêu cầu các thẩm phán phải có sự hiểu biết
sâu sắc về pháp luật, có lập luận tốt, cơng tố viên cũng địi hỏi có trình độ cao và sự
hiểu biết tốt đối với án lệ, luật sư cũng cần có trình độ cao, nghiên cứu sâu sắc án lệ.
Nếu không muốn án lệ của mình bị bãi bỏ hoặc sửa đổi do áp dụng pháp luật khơng có
căn cứ, chủ quan, địi hỏi các thẩm phán, luật sư hay người vận dụng pháp luật phải
nghiên cứu sâu sắc các án lệ đã công bố, đồng thời xem xét các tình tiết, vụ việc giống
nhau để đưa ra lập luận chuẩn xác nhất, đưa ra phán quyết cuối cùng. Ở các nước chỉ
mới tiếp cận và công nhận án lệ, việc áp dụng án lệ cịn rất khó khăn do chưa quen với
văn hố pháp lý ở các quốc gia đó, điều đó gây cản trở, phức tạp hay áp dụng chưa tốt
án lệ ở các quốc gia đó.

17

download by :


PHẦN III: ÁN LỆ VỚI TÌNH HÌNH THỰC TIỄN Ở
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
CHƯƠNG 5: ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Trong hệ thống tài liệu nghiên cứu của nhiều nước, các án lệ luôn chiếm một phần
không nhỏ và sự thành công trong việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật phụ thuộc rất

nhiều vào việc tìm hiểu và vận dụng các án lệ.
Án lệ đóng vai trị rất quan trọng trong hệ thống khoa học luật quốc tế, đó vừa là kết quả
tích góp từ những q trình vận dụng pháp luật vào hoạt động xét xử của các thẩm phán
quốc tế, vừa là phương tiện quan trọng để xác định các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế và là
cơ sở vật chất cho quá trình hình thành, phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế.
Ở nhiều quốc gia, án lệ được coi là nguồn pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp

luật. Do nguồn gốc hình thành khác nhau dẫn đến khái niệm án lệ ở nhiều nước cũng
khác nhau. Tuy nhiên vẫn có những đặc điểm giống nhau về tính chất ràng buộc áp
dụng và vai trò khác nhau giữa các hệ thống pháp luật.
5.1. Đặc điểm án lệ trong hệ thống thông luật
Hệ thống thơng luật điển hình là các nước Anh, Mỹ, Úc, Canada, New Zealand,… là nơi
sử dụng án lệ đầu tiên và thịnh hành nhất trên thế giới. Một trong những điểm đặc trưng
của các nước theo hệ thống thông luật thì án lệ được coi là một trong những nguồn luật áp
dụng bắt buộc. Ngày nay, nguyên tắc bắt buộc tuân theo án lệ (stare decisis) được thừa
nhận chính thức trong phạm vi hệ thống thông luật như Anh, Mỹ, Úc,… Tuy nhiên cần
lưu ý rằng ở các nước này khơng có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định các thẩm phán
bắt buộc phải tuân theo án lệ. Việc thừa nhận án lệ là nguồn pháp luật có giá trị và bắt
buộc phải tuân theo án lệ. Việc thừa nhận án lệ là nguồn pháp luật và có giá trị bắt buộc
được giải thích bởi yếu tố tập quán, văn hóa pháp lý hơn là yếu tố
18

download by :


quy định bắt buộc từ nguồn pháp luật thành văn. Có thể nói án lệ là nguồn luật có giá
trị bắt buộc được thừa nhận trong thực tiễn xét xử của tịa án trong những nước thuộc
hệ thống Thơng luật. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng án lệ trong các nước Thông luật cho
thấy án lệ không bao giờ là một nguồn luật bất biến. Án lệ cũng có thể bị thay đổi, bổ
sung và bãi bỏ khi nó khơng phù hợp. Đặc biệt, trong mối quan hệ với luật thành văn,

nếu giữa án lệ và luật thành văn có sự mâu thuẫn xung đột thì luật thành văn ln
được ưu tiên áp dụng.
5.1.1. Vai trò án lệ trong hệ thống pháp luật Anh
Trong hệ thống pháp luật Anh – cái nôi ra đời của án lệ và cũng là quốc gia có truyền
thống án lệ lâu đời nhất trên thế giới, không tồn tại bất cứ một văn bản luật nào quy
định về tính bắt buộc của án lệ, cũng như đòi hỏi thẩm phán và các tòa án phải áp
dụng, viện dẫn án lệ như thế nào. Việc coi án lệ là nguồn luật bắt buộc và những
nguyên tắc kỹ thuật viện dẫn nó hồn tồn xuất phát từ những phương pháp mang tính
truyền thống, tập quán trong văn hóa pháp lý của các hệ thống Thơng luật.
Tại Anh, theo nghĩa rộng án lệ là nguyên tắc bắt buộc, đòi hỏi thẩm phán trong các cơ
quan tòa án khi xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ ngay vào các bản án trước
đó, đặc biệt là các phán quyết của tòa án cấp trên; là những nguyên tắc không theo luật
định được đưa ra từ các quyết định tòa án; hoặc là hệ thống các ngun tắc bất thành
văn đã được cơng nhận và hình thành qua các ý kiến, hay quyết định được tuyên bố
bởi Tịa án và có giá trị như nguồn luật.
Ở Anh những phán quyết của Thượng nghị viện, tòa án phúc thẩm và tịa án cấp

cao đều có giá trị ràng buộc đối với các tòa án thấp hơn. Tuy nhiên khơng phải
tồn bộ các
phán quyết của các tịa án này đều có giá trị ràng buộc mà chỉ có bản án được xuất bản
mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc. Phán quyết của tịa phúc thẩm và tịa án cấp
cao khơng có giá trị ràng buộc Thượng nghị viện nhưng thông thường Thượng nghị viện
rất tơn trọng phán quyết của các tịa án này. Từ sau năm 1966 Thượng nghị viện
19


×