Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đặc trưng của làng xã việt nam trong truyền thống và sự thay đổi trong những đặc trưng của làng xã trước yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở việt nam hiện n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.82 KB, 14 trang )

BbBỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: ĐẠI CƯƠNG VĂN HĨA VIỆT NAM
ĐỀ 7
“Đặc trưng của làng xã Việt Nam trong truyền thống và sự
thay đổi trong những đặc trưng của làng xã trước yêu cầu
xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.’’

0


Mục lục
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................2
NỘI DUNG.................................................................................................................................................3
CHƯƠNG I. LÀNG XÃ VIỆT NAM TRONG TRUYỀN THỐNG................................................3
1. Nguồn gốc làng xã Việt Nam........................................................................................................3
2. Khái niệm và đặc trưng của làng xã Việt Nam..........................................................................5
2.1 Khái niệm làng xã Việt Nam......................................................................................................5
2.2 Các đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam truyền thống....................................................5
2.2.1 Đặc trưng thứ nhất: chủ nghĩa tập thể..................................................................................5
2.2.2 Đặc trưng thứ hai: thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới, khơng có năng lực tự
biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội.........................................................................7
2.2.3 Đặc trưng thứ ba: tính tự quản..............................................................................................7
2.2.4 Đặc trưng thứ tư: chủ nghĩa cục bộ địa phương..................................................................8
CHƯƠNG II. SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG XÃ TRƯỚC
YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................9
1. Ý nghĩa của việc tiến hành xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay...........................9
2. Sự thay đổi của các đặc trưng của làng xã Việt Nam.............................................................10
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................13



Danh mục tài liệu tham khảo

1


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử, mỗi người dân Việt Nam đều gắn bó, kết nối, là một thành tố
của cộng đồng làng xã. Trải nghìn đời, với bao thăng trầm, biến động, bao thử
thách khắc nghiệt, làng xã Việt với những nét văn hóa riêng độc đáo và đặc sắc
được gìn giữ, trao truyền và tôn bồi, đã trở thành nét bản sắc của văn hóa Việt
Nam. Làng, trong mối quan hệ hữu cơ với nhà và nước, đã trở thành nhân tố
quan trọng cố kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh đồn kết khơng gì sánh được
của dân tộc Việt Nam. Làng xã cịn là cơ sở hình thành lối sống con người Việt
Nam, là tiền đề để phát triển chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý thức
dân tộc.
Trước những tác động của đời sống hiện đại, làng xã Việt đang đối diện nhiều
thách thức to lớn. Khơng ít giá trị từng được xem là tiêu biểu của cộng đồng
làng, nay được nhìn nhận như những vật cản ngăn trở con đường phát triển làng.
Nhận thấy đây là vấn đề cần được xem trọng để tìm ra phương thức phù hợp
quản lý và phát triển làng xã. Sau đây em xin chọn đề 7: “Đặc trưng của làng
xã Việt Nam trong truyền thống và sự thay đổi trong những đặc trưng của
làng xã trước yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài cho bài tập học kỳ môn Đại cương Văn hóa Việt Nam. Trong q trình tìm
hiểu, nghiên cứu và tham khảo tài liệu liên quan không tránh khỏi một số thiếu
sót và hạn chế. Em mong nhận được sự góp ý bổ sung của thầy cơ để bản thân
có thể hồn thiện bài tập và hiểu rõ hơn vấn đề, từ đó nâng cao kiến thức của
bản thân về văn hóa nước nhà.
Em xin chân thành cảm ơn!


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÀNG XÃ VIỆT NAM TRONG TRUYỀN THỐNG
1. Nguồn gốc làng xã Việt Nam
Làng xã việt Nam bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời trong giai đoạn
tan rã của công xã nguyên thủy, tức là khoảng thiên niên kỷ 1 TCN. Từ thế kỷ
thứ X, cùng với sự hưng thịnh của chế độ phong kiế, các cơng xã nơng thơn dàn
bị phong kiến hóa và trở thành các đơn vị hành chính cơ bản xủa chính quyền
phong kiến với tên gọi chung là xã, cũng có khi gọi là thôn hoặc làng.
Năm 907, sau đêm trường Bắc thuộc, chính quyền tự chủ của họ Khúc
bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của Nhà nước đối với ruộng đất
cơng xã, mặt khác, tích cực thi hành chính sách cải cách hành chính, biến làng
thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước, gọi là “xã”. Khái niệm “làng
xã” như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt văn hố
cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở như ta hằng quan niệm xưa nay được
hình thành trong thời điểm lịch sử này. Đây cũng chính là bước chuyển biến rất
quan trọng của nơng thơn Việt Nam truyền thống.
Tuy nhiên suốt trong thế kỷ X và thậm chí sang cả thế kỷ XI, XII cơng xã
nơng thơn vẫn cịn tồn tại phổ biến và giữ vai trò hạ tầng cơ sở bền vững của xã
hội với quyền sở hữu trên thực tế đại bộ phận ruộng đất và quyền tự trị khá lớn.
Nhà nước trung ương tập quyền với tư cách là người chủ sở hữu tối cao về
ruộng đất bóc lột tơ thuế và lao dịch đối với làng xã. Lúc này chế độ tư hữu
ruộng đất mới phôi thai và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, tuy nhiên nó càng ngày càng
phát triển nhanh.
Cũng trong buổi đầu của thời kỳ độc lập, khi cấp xã được nhà nước chính
thống hố trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở ở nơng thơn thì cấp thôn cũng
dường như đồng thời xuất hiện.
3



Tư liệu lịch sử cho phép đoán định rằng ngay từ khi mới thốt ra khỏi ách
đơ hộ của Trung Hoa, các chính quyền tự chủ của người Việt lấy làng truyền
thống làm đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước (tức là cấp xã) thì cấp thơn
cũng xuất hiện ở trong các làng xã đó. Cấp thơn ra đời chính là do nhu cầu quản
lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước thông qua xã để quản lý dân làng,
nhưng xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành chính của mình nếu như
không thông qua một cấp trung gian khác là thôn. Thơn vì thế đã trở thành đầu
mối giáp nối, gắn kết và điều hoà hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật
pháp và tục lệ, chính trị và xã hội.1
Có thể nói, làng xã Việt Nam có vai tro trung gian nối các cá thể với nhà
nước. Tất cả chỉ thị của chính quyền trung ương đến với người dân, đều phải
thông qua “bộ lọc” làng xã và do đó mà bị khúc xạ, tán sắc đi nhiều.
Làng xã là một thể chế bền vững, tồn tại hầu như xuyên suốt chiều dài lịch
sử dân tộc. Làng xã cổ truyền là đơn vị tụ cư, là cộng đồng dựa trên quan hệ
láng giềng kết hợp với quan hệ huyết thống, là mơi trường sinh hoạt văn hố xã
hội từ bao đời nay của người Việt Nam.
Làng xã cũng là đơn vị xã hội mà người nông dân Việt Nam tập hợp lại để
tạo nên sức mạnh cộng đồng trong khai phá đất hoang, đắp đê, đào kênh làm
thuỷ lợi phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đây là cơng trình lao
động rất quan trọng trong yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp trồng lúa
nước, thường bị nạn lụt đe dọa mà đơn vị sản xuất nhỏ là gia đình khơng thể
đảm đương được

1 />
4


2. Khái niệm và đặc trưng của làng xã Việt Nam

2.1 Khái niệm làng xã Việt Nam
“Làng” hay “làng xã” của người Việt là một khối dân cư ở nông thơn, có
địa vực, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, tâm lý, quan niệm,
tính cách và “hương âm”; “thổ ngữ” riêng, hoàn chỉnh và khá ổn định trong quá
trình lịch sử.
Xét trên phương diện kết cấu, GS. Phan Ðại Doãn nhận định: “Làng xã Việt
Nam là cộng đồng đa chức năng, liên kết chặt chẽ, là sự kết hợp giữa nông thôn
và "thành thị" (trong làng có phường hội, có chợ, phố nhỏ...) từ đó tạo nên làng
nông - công - thương, hoặc nông - công - thương - sĩ (lấy nông nghiệp làm sản
xuất chính). Làng Việt Nam khơng chỉ là một khu vực cư trú đơn thuần của gia
đình tiểu nơng, mà chính bản thân nó cịn là một tổ chức sản xuất, quân sự, xã
hội. Làng là tích hợp của những thành tố nói trên. Sức sống của làng tồn tại là
ở chỗ tái sản xuất những thành viên của nó. Gia đình là tế bào của xã hội, là
đơn vị giáo dục đạo đức, đơn vị tín ngưỡng, đơn vị kinh tế. Gia đình là tổng hịa
nhiều quan hệ xã hội có sức sống riêng, biểu hiện một đặc trưng văn hóa - xã
hội độc đáo.”
2.2 Các đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam truyền thống.
2.2.1 Đặc trưng thứ nhất: chủ nghĩa tập thể.
Truyền thống của người Việt Nam gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước
buộc người dân phải sống định cư, tập hợp mọi người để làm các cơng việc
chung. Cũng chính vì thế người Việt ưa sống theo ngun tắc trọng tình, từ đó
chủ nghĩa tập thể được hình thành trong văn hóa làng xã Việt Nam.
Với điều kiện phải chống lại thiên tai, một hiện tượng xảy ra hàng năm,
phải chống lại địch hoạ với các cuộc xâm lược của ngoại bang lớn mạnh hơn
mình gấp bội, cho nên yếu tố chủ nghĩa tập thể đã tồn tại lâu dài trong lịch sử.
Theo nhà nghiên cứu Đỗ Long thì các yếu tố cá nhân tuy từ trong bản chất đã là

5



rất riêng, nhưng trong lịch sử thì lúc nào nó cũng phải quan hệ, phải tương quan
với yếu tố cộng đồng. Và như thế cộng đồng lại lấn át cá nhân, bao trùm lên cá
nhân và làm hạn chế động lực phát triển của mỗi cá nhân. Nhưng khơng có con
đường nào khác vì dù cá nhân có muốn vươn lên, muốn trỗi dậy thì sẽ gặp phải
khơng ít khó khăn trong khi cả xã hội cũng như mỗi người vẫn cần phải có cộng
đồng, khơng thể thiếu vắng cộng đồng và chính sự cố kết cộng đồng mới tạo ra
sức mạnh chống giặc ngoại xâm2
Có thể nhận thấy rằng trong truyền thống cộng đồng Việt Nam, ít thấy
những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các cộng đồng lớn mà thường là quan
hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một gia đình hay rộng ra là một gia tộc
có trách nhiệm với xóm làng. Bởi thế, một cá nhân bình thường chỉ có vai trị
trong khn khổ gia đình họ mà thơi, cịn ra đến cộng đồng lớn, cá nhân ln bị
tan biến đi trong đó để duy trì những quan hệ cộng đồng, cá nhân phải hồ mình
tập thể và ngược lại cơ chế quản lý làng xã phải được tổ chức sao cho đảm bảo
được quyền bình đẳng giữa các thành viên.
Biểu hiện rõ nét nhất của truyền thống này quyền được tham gia bầu chọn
ra người đại diện tham gia vào bộ máy quản lý của làng xã, được hỏi ý kiến
trước những quyết định hệ trọng của làng. Công cụ điều chỉnh hành vi của các
cá nhân trong cộng đồng chủ yếu là tập quán, hương ước hay dư luận, những lời
đồn đại, thái độ khích lệ hoặc chê cười của dân làng. Trong những trường hợp
đặc biệt, làng áp dụng biện pháp phạt vạ hoặc một số hình thức bêu riếu, hạ nhục
trước tập thể. Như vậy là tập thể có vai trị rất quan trọng đối với q trình “lập
pháp” và “hành pháp” cũng như đối với “tư pháp” trong làng. Do tính cộng đồng
cao như vậy, nhiều học giả cho rằng cộng đồng làng xã Việt Nam đã làm nảy
sinh truyền thống dân chủ ở làng xã.
2 />
6


Chủ nghĩa tập thể đã trở thành một truyền thống cơ bản của lối sống làng

xã của con người Việt Nam, là tiền đề để phát triển chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần đoàn kết và ý thức dân tộc.
2.2.2 Đặc trưng thứ hai: thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới,
khơng có năng lực tự biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội.
Truyền thống dân chủ làng xã, về thực chất là tính chất cơng xã - thị tộc
còn được lưu tồn từ thời nguyên thuỷ và cũng chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu của q
trình hình thành làng xã. Cịn về sau đó, làng xã được vận hành theo những
nguyên tắc mặc định và cứng nhắc. Độ vênh giữa lệ làng “bất di bất dịch” với
đời sống vật chất và nội tâm của cá thể “luôn biến động” theo chiều hướng ngày
một giãn rộng, tới độ, để có thể duy trì sự tồn tại của mình, lệ làng bóp nghẹt
mọi tiềm năng sáng tạo, mọi ý thức về “cái tôi” của chủ thể. Nhân cách và tính
đa dạng của nhân cách bị tan biến trong cộng đồng làng xã. Trong không gian
làng xã, thời gian lịch sử dường như ngưng đọng lại.
Khi cộng đồng được đề cao quá mức thì sẽ làm ức chế sự phát triển cá
tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng khơng chấp nhận cá nhân đứng
ngồi cộng đồng. Bởi vậy, khơng nên đánh giá q cao những yếu tố tương tự
dân chủ của làng xã, vì cùng với thời gian chúng đã chuyển hố thành mặt đối
lập. Sự đối lập thể hiện ở việc thể chế làng xã khó tiếp thu cái mới, khơng có
năng lực tự biến đổi với nhu cầu thực tiễn.
2.2.3 Đặc trưng thứ ba: tính tự quản.
Tính tự quản thể hiện ở việc các thành viên giám sát lẫn nhau trở thành một
yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương. Có thể thấy
tính tự quản này vận hành như thế nào thông qua kết cấu quản trị của làng xã.
Bộ máy hành chính của làng xã gồm hai cơ quan: cơ quan quyết nghị và cơ
quan chấp hành. Cách thức tổ chức cũng như thành lập thể hiện rõ tính tự trị của

7


làng xã. Tất cả các dân đinh trong làng xã đều có thể trực tiếp tham gia vào giải

quyết các công việc của làng xã, kể cả một số việc của Nhà nước.
Cơ quan quyết định của làng là Hội đồng kỳ mục (có nơi gọi là hội đồng kỳ
hào, hội đồng làng, hội đồng xã …), đây là một tập thể không hạn định về mặt
số lượng các thân hào danh tiếng trong xã, đã từng đỗ đạt như: cử nhân, tú tài,
tiến sĩ đã làm quan hoặc đang làm quan. Người được quyền tham gia Hội đồng
kỳ mục phải hội đủ các điều kiện đã quy định trong hương ước của làng.
Hương ước là biểu hiện cụ thể của văn hóa làng xã nhằm góp phần quan
trọng vào việc củng cố tính tự quản.
Tính tự quản và làng xã còn thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng xã
với chính quyền trung ương. Về nguyên tắc, Vua hay triều đình khơng giao dịch
trực tiếp với dân trong làng xã. Do vậy, nhà nước quản lý làng xã hay rộng hơn
là xã hội thì phải thơng qua đại diện của làng xã.
Tuy nhiên, tính tự quản của làng xã dễ dàng biến thái thành tính tự trị. Lịch
sử Việt Nam đã cho thấy làng xã tự quản theo lệ mà khơng dựa vào luật của
chính quyền trung ương, nên dẫn đến sự gián cách giữa trung ương với địa
phương và tạo cơ hội cho các hoạt động tùy tiện của đội ngũ “quan trị viên” biến
chất. Bước chuyển từ tự quản sang tự trị đã đẻ ra tầng lớp cường hào nhiễu sách
nhân dân. Những bi kịch khốn quẫn của người nông dân trong cộng đồng làng
xã tự trị đã khắc sâu trong tác phẩm của nhiều văn sĩ thuộc trường phải hiện
thực: Ngô Tất Tố, Nam Cao …
2.2.4 Đặc trưng thứ tư: chủ nghĩa cục bộ địa phương.
Đặc trưng này làm cho sự tiếp nhận các quy định chung của nhà nước trở
nên bê trễ hoặc chỉ mang tính hình thức hoặc bị áp dụng và giải thích sai lệch về
nội dung. Người xưa có câu: “phép vua thua lệ làng”, bởi khi nhà nước không
quản nổi làng xã, khi đó làng xã tự do vận hành theo tục lệ riêng, theo sự điều
8


khiển, áp đặt của một số cá nhân chức sắc trong làng, bất chấp cả phép nước.
Trong không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mọi vấn đề

phát sinh đều có thể quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ
Chủ nghĩa địa phương cục bộ là kết quả của sự biến thái tính tự quản thành
tự trị ở làng xã. Vì bản chất của làng xã là “sự cố kết có tính địa phương” như
Ph.Ăng-ghen nhận định. Nó khơng dễ gì chấp nhận những văn hóa tiến bộ từ
bên ngồi. Chúng ta đã nghe những câu như: “khôn ngoan ở đất nhà bay, dù che
ngựa cưỡi đến đây cũng hèn”, hay câu “ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao
nhà vẫn hơn” … Ta còn thấy nhiều xung đột, mâu thuẫn gay gắt giữa các làng vì
làng nào cũng chỉ biết đến lợi ích trước mắt của làng mình, khơng quan tâm đến
lợi ích làng khác. Nguy hiểm hơn là trường hợp chủ nghĩa địa phương cục bộ ở
làng nhiều khi khơng biết tới lợi ích của đất nước, gây ra sự phân rã lớn trong
nội bộ đất nước.
Hay trong việc kiểm soát ruộng đất và số dân. Từ thời phong kiến cho
tới tận thời kì Pháp thuộc, nhà nước đã không thể nào nắm bắt được con số
thực tế về số ruộng, số dân. Nhà nước thường dựa vào hai mặt này để đánh thuế,
phu dịch. Hầu như các làng đều khai man số ruộng để tốn thuế, khai man số đinh
để trốn phu dịch. Tình trạng khai man này làm nảy sinh “tệ điêu hào” rất phổ
biến trong làng xã. Đó là chức sắc trong làng khai man để thu lợi vào túi mình.
Chúng rất lộng hành, hành động tùy tiện, không tuân theo pháp luật, gây ra
nhiều nhũng nhiễu trong làng xã.
CHƯƠNG II. SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG
XÃ TRƯỚC YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1. Ý nghĩa của việc tiến hành xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư nông thơn đồng lịng xây dựng thơn, xã khang trang, sạch đẹp; phát
9


triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ một cách tồn diện; có nếp
sống văn hố, mơi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời

sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Văn hóa làng xã truyền thống cần thay đổi để phù hợp hơn với yêu cầu của
công cuộc xây dựng nông thôn mới mà Đảng nhà nước đã đề ra. Để thực hiện
đúng, chính xác những gì đề ra, ta cần phải xác định rõ sự thay đổi đó như thế
nào thông qua các đặc trưng của làng xã hiện nay.
2. Sự thay đổi của các đặc trưng của làng xã Việt Nam.
Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể ở làng xã xưa có điểm hạn chế là triệt tiêu sự
sáng tạo cá nhân. Nhưng hiện nay, trước những yêu cầu của công cuộc xây dựng
nông thôn mới. Cá thể trong làng xã khơng cịn bị bó buộc, hạn chế ở khn khổ
gia đình, dịng tộc hay cộng đồng địa phương nữa. Họ đã tự do sáng tạo, phát
triển và trở thành công dân của đất nước hay rộng hơn là công dân toàn cầu.
Ngày nay trong cơ chế thị trường, các hộ gia đình và người lao động theo
kinh tế hàng hóa đã bước đầu giải phóng sức lao động. Nhờ vậy năng lực người
nơng dân có điều kiện bộc lộ và phát triển. Sự thay đổi cơ chế quản lý nơng
nghiệp buộc người nơng dân phải tìm tịi vươn lên tìm lối thốt. Họ tự phá vỡ
giới hạn quan hệ xã hội và kinh tế trong khuôn khổ làng xã, những lối mòn kinh
nghiệm lạc hậu lâu đời.
Thứ hai, làng xã nay đã học cách thích nghi, tự biến đổi trước những yêu
cầu mới đặt ra hiện nay.
Đến nay với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nông thôn
theo cơ chế thị trường, thành phần buôn bán mà thực chất là dịch vụ nông thôn
đã được chú trọng. Nhà nước đề ra các chế độ khuyến khích, rất nhiều nông dân
đã chuyển hướng sang buôn bán, lúc đầu chỉ là kết hợp trong cơ cấu lao động
gia đình sản xuất nơng nghiệp, để thích nghi dần với quan hệ và tương quan
10


chung cung, cầu của làng xóm. Đến giai đoạn gần đây đã có nhiều người chuyển
hẳn sang bn bán, dịch vụ gần như chuyên nghiệp. Những người này là nhân
lực trong cơ cấu lao động của hộ gia đình. Ngồi công việc dịch vụ buôn bán khi

họ vẫn tham gia công việc sản xuất nông nghiệp. Sự thay đổi của cá thể đã làm
cho làng xã có một bước chuyển mình, thích nghi trước những nhu cầu thực tế
đặt ra trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Thứ ba, làng xã đã có sự thống nhất với nhà nước về việc quản lí hành
chính. Cơng cụ điều chỉnh của làng xã là hương ước giờ đã thay đổi để phù hợp
với ý chí của nhà nước. Có thể nói, hương ước là “cánh tay nối dài” của pháp
luật. Bên cạnh đó, nhà nước cũng thừa nhận các hương ước của làng xã.
Làng xã xưa vận hành theo cơ chế bảo thủ, khép kín, “phép vua thua lệ
làng”. Nhưng hiện nay, làng xã đã thay đổi cơ chế vận hành theo cơ chế quan
phương, và “lệ làng” theo “phép vua”.
Làng xã có chức năng tự quản nhưng vẫn là một đơn vị trong hệ thống
hành chính nhà nước. Làng xã chịu sự chi phối chung của nhà nước trên mọi
lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, tinh thần.
Hương ước ra đời vừa đáp ứng nhu cầu tự trị, tự quản của làng xã, vừa
khẳng định quyền quản lý làng xã của bản thân Nhà nước thống trị. Một hương
ước chính thức thành văn bao giờ cũng phải bảo đảm cả hai yếu tố luật nước và
lệ làng. Chắc chắn sẽ khơng có hương ước nếu như hồn tồn chỉ có luật nước,
nhưng cũng khơng thể trở thành một hương ước chính thức nếu như hồn tồn
chỉ là những tập tục cổ truyền của làng xã từ ngàn xưa mà khơng hề biết đến đời
sống chính trị và pháp luật hiện hành.
Thứ tư, làng xã Việt Nam nay đã phát huy vai trò làm chủ của nhân dân,
đấu tranh chống chủ nghĩa cục bộ địa phương.

11


“Dân chủ ở cơ sở” đang được triển khai tại các làng xã Việt Nam đã và
đang tạo ra những bước phát triển quan trọng trong quá trình dân chủ hố nơng
thơn. “Dân chủ ở cơ sở” với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra là cơ sở pháp lý quan trọng để người dân thực hiện quyền dân chủ của mình.

Kết quả mấy năm thực hiện cơ chế dân chủ ở làng xã cho thấy đã có rất nhiều
thay đổi tích cực trong cuộc sống dân chủ ở làng xã.
Tuy nhiên, quy chế dân chủ với các quy định về dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra cũng vẫn đang dừng ở những quy định chung có tính phổ biến cho
tất cả các đơn vị cơ sở. Do vậy, các quy định trong quy chế dân chủ cần phải
được “thẩm thấu” vào các quy ước của thơn, hố thân thành các quy định cụ thể
phù hợp với đặc điểm của từng thơn, ấp mới có thể phát huy tiếp tục được ý
nghĩa và vai trò của mình.

12


KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách thể chế, dân chủ hóa và định hướng xây
dựng tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay. Nông thôn mới là
một trong những định hướng phát triển xã hội mà Đảng ta đã, đang và sẽ thực
hiện một cách tồn diện về mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, giáo dục….Việc nghiên
cứu về làng xã cũng như sự thay đổi của các đặc trưng trong làng xã là một điều
hết sức cấp thiết. Về ý nghĩa này, ông Vũ Đình Hịe, trong cuốn Hồi ký Thanh
Nghị đã viết: “Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm
hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng phải
bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì khơng có làng xã Việt
Nam thì khơng có quốc gia Việt Nam”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thái Việt - Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về văn hoá Việt Nam, Nxb.
Văn hố thơng tin, Hà Nội, 2004.
2. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
1999.
3. Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề về làng xã, Tạp chí luật học, số 2/1991.
4.


/>
hieu-mot-so-bieu-hien-tinh-chat-tu-tri-cua-lang-xa-viet-nam-co-truyen-90.
5.

/>
trong-thoi-hien-dai-285019

13



×