Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở VÙNG NÔNG THÔN BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.7 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA XÃ HỘI HỌC - CÔNG TÁC XÃ HỘI

Số phách:…………………

BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG
NƠNG THÔN MỚI

TÊN HỌC PHẦN: CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở VÙNG NƠNG
THƠN - NHĨM 1
MÃ HỌC PHẦN: 2021-2022.1.CTX4132.001

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN XUÂN HỒNG

HUẾ, THÁNG 12 NĂM 2021



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA XÃ HỘI HỌC - CÔNG TÁC XÃ HỘI

Số phách:…………………

BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG
NƠNG THÔN MỚI

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : NGUYỄN XUÂN HỒNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN

: NGUYỄN CỬU THẮNG


MÃ SINH VIÊN

: 19T6061092

HUẾ, THÁNG 12 NĂM 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.

Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
Tổng quan đề tài nghiên cứu................................................................................2
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................4
Phương pháp nghiên cứu......................................................................................5
Ý nghĩa đề tài.........................................................................................................5

Kết cấu.................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới .............................................7
Quan niệm về nông thôn .......................................................................................7
Quan niệm về nông thôn mới ................................................................................8
Quan niệm về xây dựng nông thôn mới ..............................................................10
Những vấn đề liên quan đến xây dựng nông thôn mới.....................................11
Những kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng
nơng thôn mới.......................................................................................................11

1.2.2. Hạn chế và vấn đề đặt ra trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng

nơng thơn mới.......................................................................................................15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA SỰ BIẾN
ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI HIỆN NAY
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

Quan niệm về gia đình ........................................................................................18
Biến đổi gia đình và những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình....18
Khái niệm biến đổi gia đình ................................................................................18
Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam.......................19

CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NƠNG
THƠN MỚI HIỆN NAY
3.1.


Xây dựng nơng thơn mới và sự biến đổi của gia đình nơng thơn.....................22

3.2.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp..........................................................................26
KẾT LUẬN..........................................................................................................29


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHIẾU ĐÁNH GIÁ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Gia đình là một tế bào của xã hội, là một nhóm xã hội cơ sở kiến tạo nên xã hội
rộng lớn. Do đó, sự trường tồn của quốc gia, dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và
phát triển của mỗi gia đình. Gia đình phải là điểm xuất phát và trở về của mọi chính sách
xã hội.
Gia đình là một mơi trường quen thuộc với hầu hết mọi người. Đó là lĩnh vực mà
ai cũng có thể tham gia với tư cách là người trong cuộc. Mặt khác, đó cũng là lĩnh vực
tinh tế, phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn và biến động.
Có thể nói gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và thời đại. Đặc biệt trong vài năm
trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được cả giới hàn lâm và
giới chính trị quan tâm. ở châu á và Đơng Nam á nói riêng, người ta nói nhiều đến gia
đình, văn hóa gia đình như một giải pháp để ngăn trở sự xâm lăng của văn hóa phương
Tây. Và khơng chỉ có thế. Các quốc gia châu á trong đó có Việt Nam đang trải nghiệm
trong một cuộc chuyển mình vĩ đại: thực hiện cơng nghiệp hóa - đơ thị hóa với quy mơ và
tốc độ ngày càng gia tăng. Đồng thời với quá trình này ở Việt Nam là sự chuyển đổi sang
cơ chế kinh tế thị trường. Cố nhiên, những biến chuyển kinh tế - xã hội mạnh mẽ đó

khơng thể khơng tác động sâu sắc đến thiết chế gia đình, một thiết chế lâu đời và bền
vững song cũng hết sức nhạy cảm với mọi biến đổi xã hội.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của gia đình, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản khẳng định vị trí, vai trị, tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát
triển của đất nước. Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Gia
đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [5,
tr.76-77]; đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “Thực hiện chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc, văn minh” [6, tr.128].
Quán triệt quan điểm trên, thực hiện vai trị của gia đình được trong bối cảnh đất
nước đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nơng nghiệp, nơng thơn
càng trở nên cấp thiết, biểu hiện nổi bật là trong triển khai “Chương trình mục tiêu quốc
6


gia về xây dựng nông thôn mới”. Xây dựng nông thơn mới (NTM) là chương trình lớn
của quốc gia góp phần hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu tới năm 2030 Việt Nam trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu trước mắt và
lâu dài nêu trên, cùng với các nhân tố đóng góp vào thành cơng của Chương trình thì gia
đình có vai trị rất quan trọng, trực tiếp góp phần vào tiến độ, chất lượng chương trình xây
dựng NTM hiện nay.
Việc biến đổi của gia đình trong xây dựng NTM hiện cịn nhiều khó khăn, lúng
túng, bất cập từ nhiều góc độ. Bản thân gia đình cũng chịu nhiều tác động như q trình
CNH, HĐH; đơ thị hóa; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khiến cho nó cũng
biến đổi theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, trong việc thực hiện các chức
năng của gia đình khi tham gia vào các hoạt động chung của xã hội, trong đó có Chương
trình xây dựng NTM. Mặt khác, cũng cần thấy rằng việc thực hiện xây dựng NTM cịn
mang tính phong trào, hình thức, chạy theo thành tích nên cũng có tình trạng huy động
q sức sự đóng góp của gia đình; NTM được xây dựng chưa đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn của gia đình, chưa lấy mục tiêu nâng cao đời sống cho gia đình nơng thơn làm cốt lõi

để thực hiện. Những hạn chế này thực sự trở thành rào cản làm cho chủ thể các gia đình
chịu sự biến đổi chưa được phát huy tối đa và hiệu quả trong xây dựng NTM.
Từ thực tiễn cấp thiết đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm
đưa ra giải pháp khắc phục những mâu thuẫn khó khăn trong q trình thực hiện vai trị
trong xây dựng NTM, tạo sự cân bằng về sự biến đổi gia đình và phát triển bền vững của
nông nghiệp, nông thôn của vùng nói riêng và của Việt Nam nói chung. Đề tài “Biến đổi
gia đình trong xây dựng nơng thơn mới” mà nghiên cứu sinh lựa chọn góp phần đáp
ứng yêu cầu đặt ra về biến đổi gia đình trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nông
thôn.
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu

Gia đình được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích và tiếp cận ở nhiều góc
độ khoa học khác nhau: như góc độ kinh tế, văn hóa, xã hội học, lịch sử, triết học,...; gia
đình, xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng là một đề tài dành được sự quan
tâm nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học. Các cơng trình nghiên cứu đưa ra khái
7


niệm gia đình, vai trị, chức năng của gia đình và sự biến đổi của cơ cấu gia đình trong xã
hội hiện đại.
Các cơng trình cùng hướng nghiên cứu về khái niệm gia đình, vai trị, chức năng
-

của gia đình như:
Tác giả Thanh Lê, Xã hội học gia đình [8] đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển của gia đình và hoạt động của gia đình trong xã hội cụ thể, như mối quan hệ giữa gia
đình và xã hội, các mối quan hệ trong gia đình, chức năng gia đình, quy mơ gia đình,...
Tác giả đưa ra khái niệm “gia đình là một nhóm gồm những người gắn bó với nhau bằng

-


quan hệ vợ chồng và cha mẹ (huyết thống)” [8, tr.26].
Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý với cuốn “Gia đình học” [7], cuốn sách sắp xếp dưới dạng
một giáo trình, đây là cơng trình nghiên cứu cơng phu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Các tác giả đã làm rõ khái niệm gia đình, vị trí, vai trị và chức năng của gia đình, những
thay đổi của gia đình Việt Nam trước những thách thức của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước; vấn đề về giới, gia đình và phát triển cũng như chỉ ra những sai lệch giá trị gia đình
hiện nay. Từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao vai trò của gia đình trong cơng cuộc CNH,

-

HĐH đất nước.
Bên cạnh đó, cịn có các cơng trình nghiên cứu về biến đổi của gia đình trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, gia đình chịu tác động của quá trình CNH,
HĐH, đơ thị hóa, nền kinh tế thị trường nên cũng có những biến đổi trong bối cảnh mớiđây cũng là một khía cạnh được các tác giả nghiên cứu. Tác giả Lê Thi, “Gia đình Việt
Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” [17]. 9 Cuốn sách cung cấp cho người đọc những
tài liệu tham khảo về tình hình gia đình Việt Nam, mối quan hệ giữa các thành viên trong
bối cảnh đổi mới của đất nước. Đây là cơng trình nghiên cứu có giá trị và tiếp cận chủ yếu
dưới góc độ về giới và gia đình văn hóa. Tác giả Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom và Wil
Burghoorn với bài “Gia đình nơng thơn Việt Nam trong chuyển đổi” [10], đã chỉ ra ở Việt
Nam hiện nay 70 - 80% dân số sống ở nông thôn trong các gia đình mở rộng và gia đình
hạt nhân. Trong cơng trình này, phân tích những biến đổi của gia đình nơng thơn Việt
Nam trong q trình CNH, HĐH, biểu hiện sự di cư của thanh niên nơng thơn đi tìm việc
làm ở thành thị, vai trò giáo dục của cha mẹ với con cái, điều kiện kinh tế của hộ gia đình
cũng ảnh hưởng đến chức năng giáo dục của gia đình; tác động đến tuổi kết hơn, cách
chọn “bạn đời”, tình dục trong hơn nhân và quan hệ quyền lực giữa vợ và chồng trong gia
8


đình nơng thơn. Như vậy, các nghiên cứu này cho thấy q trình CNH, HĐH nơng

nghiệp, nơng thơn cũng tác động đến cấu trúc gia đình nơng thơn ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và biến đổi gia
đình trong xây dựng NTM, từ đó luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản

-

nhằm hỗ trợ sự biển đổi của gia đình trong xây dựng NTM.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Đánh giá tổng quan các cơng trình nghiên cứu về gia đình, xây dựng NTM và biến đổi

-

của gia đình trong xây dựng NTM.
Luận giải những vấn đề lý luận chung về nông thôn, xây dựng nông thôn mới; gia đình và
biến đổi của gia đình trong xây dựng NTM; làm rõ những yếu tố tác động đến biến đổi gia

-

đình trong xây dựng NTM hiện nay.
Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc trò biến đổi gia đình trong xây

-

dựng NTM.
Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai sự biến đổi gia đình trong xây

dựng NTM phát triển tích cực.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Gia đình sinh sống ở nơng thơn mới và sự biến đổi gia
đìnhtrong xây dựng NTM hiện nay.
Thời gian nghiên cứu: Từ 2010 đến nay (khi có Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới).
Khơng gian nghiên cứu: Các gia đình tại những nơi đã và đang trong q trình
xây dừng nơng thơn mới.
5. Phương Pháp nghiên cứu

Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp được sinh viên sử dụng nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Mục đích của quan sát là nhằm thu thập và kiểm chứng các thông tin cơ bản về sự
thay đổi của của gia đình trong xây dựng nơng thơn mới.
9


Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là phương pháp được sử dụng để có những thơng tin các gia đình.
Nó địi hỏi nhân viên xã hội hoặc người phỏng vấn chuẩn bị kỹ lưỡng các thông tin, câu
hỏi và phải ln để ý những thơng tin cịn thiếu sót cịn nhầm lẫn trong q trình phỏng
vấn.
Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu thứ cấp
Trong q trình nghiên cứu nhân viên CTXH đã tham khảo và sử dụng các tài liệu
từ các báo cáo tổng kết hàng năm trên tất cả các mặt của các ban ngành đoàn thể ban
ngành, các văn bản, số liệu và các tài liệu liên quan khác về vấn đề biến đối gia đình trong
xây dựng nông thôn mới.
6. Ý nghĩa đề tài
- Kết quả nghiên cứu nàygóp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
-


của gia đình và biến đổi của gia đìnhtrong xây dựng NTM.
Đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các cơ quan chức năng có thể tham khảo
khi hoạch định chính sách giải quyết những vấn đề cụ thể về xây dựng gia đình và xây

-

dựng NTM, tạo chính sách để phát huy sự biến đổi của gia đình trong xây dựng NTM.
Các giải pháp mà luận án đề xuất vận dụng vào thực tiễn góp phần phát huy biến đổi của

gia đình trong xây dựng NTM một cách tích cực nhất trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu
Nội dụng nghiên cứu đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì có
những nội dung chính như sau:
Chương 1: Biển đổi của gia đình trong xây dựng nông thôn mới – cơ sở lý
luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề đặt ra của sự biến đổi gia đình trong
xây dựng nơng thơn mới hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp cơ bản và vai trị của nhân viên ctxh về biến đổi
của gia đình trong xây dựng nông thôn mới.

10


11


CHƯƠNG 1: Tổng quan về xây dựng nông thôn mới và những vấn đề liên
quan
1.1.
Một số vấn đề lý luận về xây dựng nông thôn mới

1.1.1. Quan niệm về nông thôn

Nông thôn được quan niệm khác nhau ở mỗi nước vì điều kiện tự nhiên, đặc điểm
kinh tế - xã hội ở mỗi nước là khác nhau. Để có được định nghĩa nông thôn, các nhà
nghiên cứu thường so sánh nông thôn với thành thị. C.Mác - Ph.Ăngghen trong tác phẩm
“Hệ tư tưởng Đức” (viết năm 1845 -1846), hai ông đã trình bày một cách cơ bản quan
niệm duy vật lịch sử về nông thôn - đặt trong mối quan hệ với thành thị. Theo C.Mác, “sự
phân công lao động trong nội bộ của một dân tộc gây ra trước hết là sự tách rời giữa lao
động công nghiệp với lao động nơng nghiệp và do đó gây ra sự tách rời giữa thành thị và
nông thôn” [12, tr.270]. Sự hình thành đơ thị cũng là q trình làm cho xã hội nơng thơn
được nhìn nhận rõ hơn. Giữa thành thị và nơng thơn có những điểm khác biệt, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra “sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện cùng với bước
quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ tổ chức bộ lạc nhà nước, từ tính địa
phương lên dân tộc, và cứ tồn tại mãi suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho đến ngày nay”
[11, tr.323].
Theo V. Staroverov - nhà xã hội học người Nga đã đưa ra một định nghĩa khá bao
quát về nông thôn, khi ông cho rằng:
Nông thôn có những đặc trưng riêng biệt của nó, nơng thơn phân biệt với đơ thị bởi
trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp kém hơn, thua kém hơn về mức độ phúc lợi xã hội,
sinh hoạt... Nông thôn là hệ thống độc lập tương đối ổn định, là một tiểu hệ thống không
gian - xã hội. Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh thể xã hội và lãnh thổ (không gian)
của cơ cấu xã hội [1, tr.58].
Nông thôn khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nơng dân, có mật độ
dân cư thấp, kết cấu hạ tầng kém phát triển, có trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường
và sản xuất hàng hóa kém hơn đơ thị.

12


Từ những ý hiểu này cho thấy nông thôn cũng có những đặc trưng như: về nghề

nghiệp chủ yếu là lao động xã hội truyền thống, hoạt động sản xuất nông nghiệp; mật độ
dân cư trên km2 thấp; lối sống, có tính cố kết cộng đồng cao thể hiện trong mối quan hệ
ứng xử giữa con người với con người. Các hành vi của cá nhân nông thôn Việt Nam
thường đặt trong các thiết chế xã hội (gia đình, dịng họ, làng, xóm,...), sức mạnh cộng
đồng và thiết chế xã hội ảnh hưởng đến cá nhân. Chính lối sống này làm cho cách ứng xử
xã hội nông thôn nặng về luật tục hơn là tính pháp lý theo kiểu “phép vua thua lệ làng”;
văn hóa nơng thơn là một loại hình văn hóa đặc thù mang đậm nét dân gian, dân tộc [1,
tr.58-60]. Đặc thù riêng biệt của nông thôn Việt Nam là sự phân cơng lao động chưa cao,
trình độ chuyên môn thấp, chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp. Để hiểu nông thôn cần
tiếp cận từ những đặc trưng cơ bản về phương thức sản xuất, kinh tế, văn hóa, lối sống...
1.1.2. Quan niệm về nơng thơn mới

Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiếp cận vấn đề “NTM”. Ở Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trị rất to
lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay sau
khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy
một đặc điểm có tính chất đặc thù của nước ta: là một nước nơng nghiệp - khơng những
thế mà cịn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tàn dư của chế độ thuộc địa nửa phong kiến
nặng nề. Tháng 11 năm 1940, trong thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn
quốc, Người viết: “Nước ta là một nước nông nghiệp. Hơn 9 phần 10 dân ta là nông dân
trung, bần và cố nông” [13, tr.248].
Người cũng đã chỉ rõ: q trình, bước đi để xây dựng “nơng thơn mới” thiết thực,
có hiệu quả, là phải xây dựng cơ sở vật chất cho người nông dân để họ ổn định và có điều
kiện tăng gia sản xuất, trước hết là “nhà ở”. Người nói: “chúng ta đang chuẩn bị xây dựng
nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôn mới là xây dựng nhà ở cho đàng hoàng” [15,
tr.446].
Thuật ngữ “Nơng thơn mới” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây để phân biệt
với nông thôn cũ trong chế độ hàng nghìn năm phong kiến, thực dân xâm lược, Người
13



nhấn mạnh đến mục đích của NTM là làm cho đời sống nhân dân nông thôn được cải
thiện, tuy nhiên chưa đạt đến các tiêu chí như NTM hiện nay, nhưng dù vậy cũng đã cho
thấy phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng đối với một nước mới
giành độc lập như Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nơng nghiệp, nơng thơn, Đảng ta đã đưa ra
đường lối, chính sách để phát triển nơng nghiệp, nông dân, nông thôn trong thời kỳ đổi
mới. Thuật ngữ “NTM” đã xuất hiện từ kỳ đại hội lần thứ IV của Đảng, tư tưởng NTM
như là nông thôn xã hội chủ nghĩa chỉ mới dừng lại ở loại hình lý tưởng và chưa được
định hình một cách rõ rệt. Ở Nghị quyết số 41- NQ/TW (1981) có nêu “NTM là cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, đem quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới vào nông thôn kết hợp
với nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân” [2, tr.22]. Trong nghị quyết này
NTM tuy được nhắc đến nhưng còn chung chung, chưa làm rõ được nội hàm khái niệm.
Đến Đại hội Đảng lần thứ X, Nghị quyết 26-NQ/TW của Đảng (2006) là một bước
ngoặt quan trọng trong nhận thức về NTM và xây dựng NTM. Nghị quyết này đã đưa ra
quan điểm khá tồn diện về mối quan hệ giữa nơng nghiệp, nông dân và nông thôn. “Nghị
quyết cũng làm rõ các khía cạnh của NTM gồm kết cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế,
quy hoạch xã hội, sự ổn định, văn hóa, dân trí, mơi trường sinh thái và hệ thống chính
trị...” [2, tr.23].
Từ các nghị quyết, đã có thể xác định khái niệm về NTM: NTM trước hết phải là
nông thôn, bao hàm các đặc trưng, chức năng cơ bản của nông thôn là vùng nông dân
quần tụ trong đơn vị làng xã và chủ yếu làm nơng nghiệp, nhưng có những thuộc tính
khác với nơng thơn truyền thống, NTM phải được gắn chặt với “quy hoạch mới”, phát
triển kinh tế, tiến bộ xã hội, “cơ sở hạ tầng mới”, “văn hóa mới” và có những bước phát
triển “mới” văn minh hiện đại hơn so với nông thơn truyền thống, song vẫn bảo lưu và
giữ gìn, phát huy được những giá trị tốt đẹp của xã hội nơng thơn truyền thống.
Theo đó, NTM là một kiểu tổ chức nơng thơn theo các tiêu chí mới, đáp ứng yêu
cầu của phát triển trên các phương diện sau: Thứ nhất: Kinh tế phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao; Thứ hai: Nông thôn phát triển theo
14



quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ; Thứ
ba: Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; Thứ tư:
Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao; Thứ năm: An ninh tốt, dân chủ được phát
huy.
1.1.3.

Quan niệm về xây dựng nông thôn mới
Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới đã chứng minh sẽ khơng thể có một
nước công nghiệp nếu nông nghiệp và khu vực nông thôn cịn nghèo nàn, lạc hậu, cư dân
nơng thơn có đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần thấp kém, lạc hậu. Nhận
thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định tính cấp thiết phải “xây
dựng NTM”. Xây dựng NTM là một thuật ngữ gắn thêm với phát triển nông nghiệp và
đến nay được Đảng và Nhà nước ta xác định là một nhiệm vụ trọng tâm phát triển đất
nước. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (1991)
của Đảng chỉ rõ “phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã
hội”. Đây được xem là một trong những định hướng lớn về chính sách phát triển kinh tế,
xã hội nông thôn trong thời kỳ đổi mới.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn như
Nghị quyết số 05-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng
(khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, ngày 10/6/1993,
Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
“Về nơng nghiệp, nông dân, nông thôn”... Đảng ta xác định:
Xây dựng nông thơn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; dân trí được nâng cao, mơi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở
nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường [3, tr.126].

Về mục tiêu xây dựng NTM, theo Quyết định số 800/QĐ-TTG năm 2010 xác định
mục tiêu xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 là: Xây dựng nông thơn mới có kết cấu hạ
15


tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông
thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa
dân tộc; mơi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ
nghĩa [18].
1.2.
Những vấn đề liên quan đến xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Những kết quả bước đầu trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nơng thơn

mới
Ngay trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào của cả nước, các nhiệm vụ về xây dựng nông
thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã.
Ban Bí thư Trung ương khóa X đã trực tiếp chỉ đạo Chương trình thí điểm xây dựng mơ
hình nơng thơn mới cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng,
miền.
Bộ máy quản lý và điều hành Chương trình xây dựng nơng thơn mới đã được hình
thành từ Trung ương xuống địa phương. 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
84,7% huyện và 52% số xã trên toàn quốc đã thành lập được Ban Chỉ đạo. Các bộ, ngành
đã ban hành 25 loại văn bản hướng dẫn địa phương về tổ chức bộ máy quản lý, điều
hành, quy hoạch nông thôn mới. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã triển
khai cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng
nơng thơn mới”. Ngày 8-6-2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phát động thi đua
“Cả nước chung sức xây dựng nông thơn mới”.

Dự tốn hằng năm trình Quốc hội về bảo đảm chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực
nông nghiệp, nơng thơn có tốc độ tăng cao hơn chi chung của cả nước. Riêng năm 2011
cao gấp 2,21 lần so với năm 2008. Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong 3
năm 2009-2011 chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà
nước và trái phiếu Chính phủ của cả nước, trong đó đầu tư cho phát triển sản xuất nông,
lâm, ngư nghiệp chiếm 37% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Vốn tín dụng
16


cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tiếp tục được ưu đãi. Doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn được ưu tiên theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ.
Riêng năm 2011, Nhà nước đã bố trí 1.600 tỉ đồng từ nguồn ngân sách Trung ương
cho Chương trình để tập trung vào 5 nội dung, gồm quy hoạch, đào tạo, tuyên truyền, phát
triển sản xuất và xây dựng một số hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu. Nhiều địa phương,
như Hà Tĩnh, Lào Cai, Hải Dương, Vĩnh Long, Phú Thọ, Nam Định, Thái Bình, Sóc
Trăng cịn chủ động bổ sung kinh phí lên tới 5.664,8 tỉ đồng từ nguồn ngân sách địa
phương cho các xã để triển khai chương trình ngay trong năm 2011. 10/13 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương tự túc ngân sách giai đoạn 2011-2015.
Với sự vào cuộc tích cực, khẩn trương của các bộ, ban, ngành ở Trung ương, chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương và bản thân người dân nông thôn, trong
gần ba năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng nơng nghiệp,
nơng thơn đã vững vàng vượt qua khó khăn, duy trì được tăng trưởng, góp phần ổn định
kinh tế - xã hội đất nước.
Xin nêu một vài dẫn chứng và số liệu được thống kê bước đầu như sau: Năm 2010,
nông nghiệp nước ta đạt mức tăng GDP là 2,78%, sản lượng lúa tăng thêm 1,17 triệu tấn
(đạt 39,9 triệu tấn); sản lượng thịt các loại tăng 725 ngàn tấn, đạt 4,02 triệu tấn; tổng sản
lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tăng 990 ngàn tấn, đạt 5,12 triệu tấn; sản lượng
muối tăng 340 ngàn tấn, đạt 1,18 triệu tấn; tỷ lệ che phủ rừng tăng 1,2%, đạt 39,5% diện
tích. Tổng kim ngạch xuất khẩu các loại nơng, lâm, thủy sản đạt 19,53 tỉ USD (tăng 3,46
tỉ USD so với năm 2008).

Giao thông nông thôn được coi là khâu đột phá trong xây dựng hạ tầng nông thôn.
Trong 2 năm, 2009 và 2010 đã huy động gần 33 ngàn tỉ đồng, trong đó nhân dân đóng
góp khoảng 11,2% và trên 24 triệu ngày công lao động; các nguồn khác chiếm 14,4%;
ngân sách nhà nước hỗ trợ 74,4% mở mới và nâng cấp hơn 40 nghìn ki-lơ-mét đường; xây
dựng khoảng 4.200 cầu bê tông, cầu liên hợp, cầu dầm sắt, cầu treo, cầu gỗ và gần 50
nghìn cống. Hạ tầng thương mại ở nông thôn mở rộng, tăng nhịp độ và tần suất giao
thương. Nâng cấp và mở rộng hệ thống điện, nâng tỷ lệ số xã lên 97,8% với 95,4% hộ sử
17


dụng điện. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin về cơ bản đã phát triển đến các xã vùng
sâu, vùng xa. Khoảng 70% số xã có điểm truy cập in-tơ-nét cơng cộng và 97% số xã có
điện thoại cơng cộng.
Cơ cấu kinh tế nơng thơn có bước chuyển biến tích cực. Cơng nghiệp và dịch vụ đã
chiếm xấp xỉ 60% cơ cấu kinh tế nông thôn. Trên 40 tỉnh hoàn thành việc xây dựng quy
hoạch phát triển làng nghề nơng thơn. Số lượng làng nghề tăng lên, hiện có trên 2.971
làng nghề theo tiêu chí của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn.
Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu đã tập trung xây dựng kịch bản về tác
động của biến đổi khí hậu tới cấp huyện. Thể chế, chính sách, chiến lược ứng phó với
biến đổi khí hậu và kế hoạch hành động quốc gia, huy động được hơn 1,2 tỉ USD từ cam
kết tài trợ quốc tế. Năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai tiếp tục được tăng cường.
Giám sát chặt chẽ các nguồn tài nguyên và môi trường, tăng cường quản lý và sử
dụng theo hướng bền vững, có hiệu quả được thể hiện qua hàng loạt văn bản về bảo vệ
môi trường nông thôn với mục tiêu ngăn chặn và khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi
trường; quản lý tổng hợp chất thải rắn; xử lý, phịng ngừa ơ nhiễm do hóa chất bảo vệ
thực vật tồn lưu; phát triển dịch vụ môi trường và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ mơi trường; chính sách ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ mơi trường... được Chính
phủ ban hành đang đi vào cuộc sống.
Về nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó
khăn được tập trung ưu tiên như xuất khẩu lao động nơng thơn; tiếp tục hồn thiện cơ chế,

chính sách giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho nông dân thuộc diện thu hồi đất nông
nghiệp; Các chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3
phương diện: (i) Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là
về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (ii) Hỗ trợ phát triển
sản xuất thơng qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông
- lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (iii) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các xã,
thơn, bản đặc biệt khó khăn được hưởng ứng mạnh và được cộng đồng quốc tế đánh giá
cao.
18


Các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả đang được triển khai mạnh mẽ.
Đặc biệt, mô hình kinh tế trang trại theo đơn vị hộ nơng thơn đang có xu thế phát triển và
tiếp tục là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ lực ở nông thơn. Ngày càng xuất hiện những
mơ hình hợp tác xã đa dạng, mở ra triển vọng mới.
Công tác nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân
lực và công tác khuyến nông ngày càng được coi trọng để hỗ trợ cho nông dân phát triển
sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa. Đội ngũ cán bộ khuyến nông ở các địa phương
được bổ sung một số lượng lớn. Sau 1 năm, cả nước đã đào tạo nghề cho 345.140 lao
động nông thôn, tỷ lệ có việc làm sau học nghề đạt khoảng 70%. Việc thí điểm dạy nghề
gắn với giải quyết việc làm và nâng cao mức sống ở 11 xã điểm xây dựng mơ hình nơng
thơn mới; mơ hình dạy nghề gắn với doanh nghiệp bước đầu thu được kết quả tích cực.
Việc huy động các nguồn lực, tăng mạnh đầu tư ngân sách nhà nước cho nông nghiệp,
nông thôn được đổi mới mạnh.
Có thể khẳng định, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương
(khóa X) về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn là Nghị quyết mang tính tồn diện và đầy
đủ nhất để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nơng thơn nước ta từ trước đến nay.
Vì vậy, được nhân dân cả nước, nhất là cư dân nông thơn tích cực đón nhận, kỳ vọng về
một thời kỳ với tương lai phát triển mạnh mẽ. Nhiều nội dung của Nghị quyết khi được
triển khai đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và tạo sự chuyển biến rõ rệt, nhất là những

nội dung phát triển sản xuất nông nghiệp, giảm nghèo; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn; vấn đề an sinh xã hội; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống…phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị vào cơng cuộc xây dựng nơng thơn
mới. Có thể coi đây là một cuộc vận động cách mạng to lớn và quan trọng nhằm tập trung
xác định rõ vai trò của nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn; về các hình thức tổ chức sản
xuất và quan hệ sản xuất phù hợp, có hiệu quả ở nơng thơn; mối quan hệ giữa đô thị nông thôn, công nghiệp - nông nghiệp và giữa trí thức - nơng dân để bảo đảm phát triển
bền vững.
1.2.2. Hạn chế và vấn đề đặt ra trong triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nơng thôn

mới
19


Bên cạnh việc ghi nhận những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng sau hơn 20 năm mà đất nước, nhất là khu vực nông thôn đã đạt được,
Nghị quyết số 26 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng nhấn mạnh: hiện
nay “những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều
giữa các vùng. Nơng nghiệp phát triển cịn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng
giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất;
nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nơng nghiệp cịn
chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều
mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh
mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nơng thơn. Các hình thức tổ chức sản xuất
chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hố. Nơng nghiệp và
nơng thơn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cịn yếu kém, mơi
trường ngày càng ơ nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai cịn nhiều hạn chế.
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơng thơn cịn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất
là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc”.
Trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới, Chính phủ quyết

định đầu tư về hạ tầng và cơng trình phúc lợi cơng cộng nhằm tạo sự thay đổi diện mạo
nông thôn. Nhưng về lâu dài để có một nơng thơn mới phát triển bền vững đi lên cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần dỡ bỏ rất nhiều rào cản, khắc phục nhiều bất cập trong
chính sách, như chính sách thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn.
Số doanh nghiệp đứng chân ở nơng thơn cịn q ít. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực này hiệu quả cũng thấp và thiếu ổn định, thường đẩy rủi ro về phía người sản xuất.
Hoặc chính sách giảm rủi ro cho người nơng dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản chưa
đủ để chia sẻ gánh nặng rủi ro,v.v…
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam hiện nay chưa có sức cạnh tranh cao, chưa đủ
khả năng nâng vị thế quốc gia trên trường quốc tế về nơng phẩm hàng hóa.

20


Trong q trình xây dựng nơng thơn mới chúng ta đang gặp phải 2 mâu thuẫn lớn
là: mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ với thị trường lớn; mâu thuẫn giữa hiệu quả thấp với rủi
ro cao. Cần có chính sách, biện pháp giải quyết tốt các mâu thuẫn nêu trên để thu hút
doanh nghiệp về nơng thơn, đó là cách tốt nhất để huy động nguồn lực và tạo ra cầu nối
nông dân - doanh nghiệp - thị trường.
Phải tạo cơ hội thế nào cho cư dân nông thôn tham gia đầu tư khơng chỉ cho sản
xuất của riêng mình, mà cịn chia sẻ lợi ích, thành quả hoạt động sản xuất kinh doanh với
cộng đồng?
Hình thành "giá đỡ" hữu hiệu cho nông dân yên tâm sản xuất thông qua thể chế
bảo hiểm, như bảo hiểm sản phẩm dễ rủi ro trước thiên tai và những biến động khó kiểm
sốt khác; bảo hiểm cho người nông dân khi bị thu hồi đất; bảo hiểm cây trồng, vật nuôi;
bảo hiểm cho người lao động quá tuổi và trẻ em…
Tạo môi trường tốt nhất cho các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với trình độ cư
dân từng xã, làng, từng loại hình sản phẩm cây trồng, vật ni, làng nghề; tạo điều kiện để
nơng dân góp vốn bằng đất với doanh nghiệp tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp
đóng trên địa bàn.

Đồng thời, củng cố, xây dựng các tổ chức xã hội vì lợi ích trực tiếp của chính cư
dân nơng thơn. Các hội, đồn thể của dân phải thực sự là tổ chức của họ, đại diện cho dân
giám sát hoạt động của các cấp chính quyền, tổ chức Đảng, bảo đảm nguyên tắc dân chủ,
công khai trong thôn xã, giúp họ định hướng phát triển sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hố,
cùng nhau khắc phục khó khăn trong đời sống và phịng, chống các tệ nạn xã hội, bảo
đảm an ninh trong làng xã, giúp nhau làm giàu chính đáng.
Các cơ chế chính sách, các nội dung cụ thể của Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nơng thơn mới, lộ trình và cách thực hiện… trong một thời gian khá dài nên
khơng chỉ phía trước mà ngay trong hiện tại cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức,
nhiều bất cập rất cần được khảo sát, đánh giá, bàn thảo. Chẳng hạn, một bộ phận cán bộ
và người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Nghị quyết của Đảng và mục
tiêu của Chương trình xây dựng nơng thơn mới. Theo đánh giá của Trung ương, sau hơn 2
21


năm thực hiện thí điểm tại 11 xã trên các vùng miền cả nước, đã dần dần hình thành được
“hình hài” của mơ hình nơng thơn mới thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhưng mới chỉ ở
cấp độ các xã thí điểm và cịn rất nhiều khó khăn. Để nhân rộng các mơ hình cần tiếp tục
phải thảo luận. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nơng thơn mới chỉ bắt đầu
được triển khai, nhưng đã xuất hiện tình trạng, các bộ, ngành triển khai chậm, thiếu đồng
bộ. Các văn bản hướng dẫn, các cơ chế chính sách ban hành thiếu chuẩn mực và chồng
chéo, còn nhiều nội dung xa thực tiễn, khó thực hiện. Cần phải điều chỉnh, khắc phục, đề
ra và triển khai quyết liệt những giải pháp tích cực và đồng bộ thì những mục tiêu đặt ra,
những kỳ vọng của nhân dân mới có thể đạt được.
Người dân ở nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và đồng bào dân tộc,
miền núi tuy đã và đang thụ hưởng một số chính sách ưu đãi của Chính phủ, đời sống
bước đầu được cải thiện nhưng vẫn cịn rất nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Xây
dựng làng bản nông thôn mới, giảm tối đa sự chênh lệch giàu nghèo, giúp họ vươn lên để
sống khá hơn, tốt hơn là cơng việc cịn nhiều khó khăn, nhiều việc phải làm.
Để đạt được 19 tiêu chí theo quy định của Thủ tướng Chính phủ là không dễ dàng,

nhưng chúng ta đều thống nhất cao: việc xây dựng nông thôn mới là tạo ra những giá trị
mới của nông thôn Việt Nam, một nông thôn hiện đại phải hàm chứa những giá trị kinh tế
mới, có văn hóa nơng thơn văn minh, hiện đại nhưng vẫn gìn giữ, bảo tồn được bản sắc
văn hóa dân tộc. Vì vậy, xây dựng nơng thơn mới phải gắn liền với phát triển văn hóa.
Làm sao để nơng thơn vừa là nơi bảo vệ, lưu giữ, vừa là môi trường tốt đẹp nhất tiếp tục
tạo ra những giá trị văn hóa mới văn minh và hiện đại. Ở đó những người nông dân vừa là
chủ thể sáng tạo, vừa được thụ hưởng các giá trị văn hóa mới để họ có ý thức hơn trong
việc bảo tồn giá trị, các trầm tích văn hóa của cha ơng.

22


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ GIA ĐÌNH VÀ BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH Ở
VIỆT NAM HIÊN NAY
2.1.

Quan niệm về gia đình
Gia đình là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Tùy vào cách
tiếp cận, các nhà khoa học đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về gia đình.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến khái niệm gia đình trong tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” (1845). Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con
người, các ông đã cho rằng “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người
cịn tạo ra những người khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và
con cái, đó là gia đình” [12, tr.41]. Với quan điểm này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra
gia đình được ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người; chức
năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sơi, nảy nở con người và dựa trên hai mối quan hệ
chính là quan hệ hôn nhân (vợ - chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).
Sau này, trong Chương 2 có tựa là “Gia đình” của tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” (1884), Ph.Ăngghen đã đưa ra nhận định ngày
càng rõ hơn về gia đình “Gia đình (tiếng Anh: Family) có nguồn gốc từ tiếng La tinh là

Familia. Theo Ph.Ăngghen: Danh từ familia... lúc đầu thậm chí cũng khơng dùng để chỉ
vợ chồng và con cái của họ, mà chỉ dùng để chỉ những người nơ lệ. Famulus có nghĩa là
nơ lệ trong gia đình và familia là chỉ tồn thể những người nơ lệ thuộc quyền sở hữu của
người nào đó... Danh từ đó là do người La Mã đặt ra để chỉ một cơ cấu xã hội mới, mà
người cầm đầu giữ vợ, con và một số nô lệ dưới quyền lực gia trưởng La Mã và có quyền
sinh sát đối với tất cả những người này [dẫn theo Hồng Bá Thịnh, 16, tr.18].

2.2.
Biến đổi gia đình và những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình
2.2.1. Khái niệm biến đổi gia đình

Để hiểu được biến đổi gia đình, trước tiên phải hiểu được biến đổi xã hội vì gia
đình khơng nằm ngồi xã hội. Biến đổi xã hội luôn là chủ đề trung tâm của xã hội học. Từ
giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học đã bắt đầu nghiên cứu về biến đổi xã hội xuất phát từ
nhu cầu thực tiễn: đi tìm lời giải thích cho hai làn sóng biến đổi lớn đang xảy ra sau cuộc
23


cách mạng Pháp và Mỹ. Đó là q trình cơng nghiệp hóa và sự mở rộng nền dân chủ, mở
rộng quyền công dân.
Từ cơ sở lý thuyết chức năng luận, Emile Durkheim cho rằng các biến đổi có thể
được giải thích như là hiện tượng thường xun đi tìm kiếm trạng thái trung lập. Herbert
Spencer trong quan điểm tiến hóa luận nhìn nhận sự biến đổi dựa trên sự tăng trưởng dân
số và những khác biệt về cấu trúc. Một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích
ứng) hay tiêu cực (khơng thích ứng). Các lý thuyết xung đột giải thích sự biến đổi xã hội
như là hệ quả tất yếu của các cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các giai cấp, các sắc
tộc hay nhóm xã hội. Ví dụ theo quan điểm của Daniel Bell (1976) thì sự biến đổi là do
mâu thuẫn giữa ba lĩnh vực: cấu trúc kinh tế - kỹ thuật (khoa học, cơng nghệ và kinh tế);
hệ thống chính trị; văn hóa. Sự biến đổi này thường khơng đều và mang tính bộ phận do
hiện tượng “trễ văn hóa” – văn hóa thường biến đổi chậm so với sự phát triển của cơng

nghệ và chính trị. Mặc dù, có những quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về biến đổi xã
hội nhưng chúng ta có thể thống nhất khái niệm biến đổi xã hội theo quan niệm của
G.Endrwei & G.Trommsdorff (2001): “Biến đổi xã hội là một quá trình xã hội về những
thay đổi trong cơ cấu của một hệ thống xã hội. Những thay đổi này liên quan đến các đặc
trưng của nó”. [9, tr 91]
Biến đổi gia đình cũng mang những nét đặc trưng của các biến đổi xã hội. Một
quan điểm thống nhất khi nghiên cứu biến đổi của gia đình là tiếp cận từ quan điểm lịch
sử: xác định một thời điểm mốc là căn cứ đo lường, đánh giá những đặc điểm riêng của
gia đình hiện nay với những đặc điểm của quá khứ.
2.2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam

Thứ nhất: Kinh tế thị trường với biến đổi gia đình.
Trong thời kỳ đổi mới, cơ chế kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ tới đời sống
xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực. Mặt tích cực của kinh tế thị trường là ở chỗ, nó tạo ra sự
cải biến những quan niệm cũ gắn liền với nền sản xuất tự cấp, tự túc, làm tăng thêm một
bước tự ý thức chủ thể của con người, thúc đẩy hình thành cá nhân năng động, sáng tạo,

24


đưa xã hội lên một trình độ mới. Kinh tế thị trường tạo ra cơ sở vật chất đảm bảo cho sự
ổn định đời sống gia đình và xã hội.
Thứ hai: Cơng nghiệp hóa với biến đổi gia đình.
Cơng nghiệp hóa tạo ra các tiền đề cần thiết cho quá trình chuyển đổi cơ sở kinh tế
gia đình tự túc, tự cấp thành kinh tế hàng hóa, cũng tức là thực hiện bước chuyển từ trạng
thái sinh tồn thành kinh tế thặng dư. Bước chuyển này không chỉ làm thay đổi mục đích
sản xuất mà cịn thay đổi phương thức tiêu dùng và lối sống của gia đình. Nó đồng thời
cũng làm thay đổi cơ cấu, quy mô, các mối quan hệ và chức năng của gia đình.
Cơng nghiệp hóa đã ảnh hưởng đến tính thuần nhất của cấu trúc gia đình, làm xuất
hiện nhiều kiểu loại gia đình, phản ánh tính đa dạng của nghề nghiệp và các hình thức lao

động mới. Theo các nhà xã hội học hiểu được tính đa dạng của gia đình là chìa khóa để
hiểu thực sự về cuộc sống gia đình. Đó là sự đa dạng về tổ chức, đa dạng về văn hóa, giai
cấp, đường đời, lứa tuổi.
Thứ ba: Tồn cầu hóa với biến đổi gia đình.
Trong điều kiện của tồn cầu hóa, kinh tế gia đình khơng chỉ là một đơn
vị kinh tế nhỏ lẻ mà có thể mở rộng thành những cơng ty gia đình đầu tư sản xuất ở những
quốc gia khác và trên phạm vi toàn cầu. Khác với cơng nghiêp hóa, tồn cầu hóa đem các
ngun tắc về tổ chức của phân cơng lao động tồn cầu áp đặt cho kiểu tổ chức phân cơng
gia đình. Kết quả là gia đình với tư cách là một đơn vị kinh tế bị phân hóa và khiến cho
nhiều người lầm tưởng rằng chức năng kinh tế gia đình đã mất đi hay chỉ đơn giản là một
“bể chứa thu nhập”.
Trong thời đại tồn cầu hóa mọi hoạt động của con người đều tập trung vào công
việc, thu nhập, giáo dục và các hoạt động bên ngồi gia đình. Trong khi đó, họ đã vơ tình
bỏ qn hoạt động chăm sóc, một nhu cầu thiết yếu đối với các thành viên trong gia đình
đặc biệt là những người già, trẻ em, người đau ốm. Cần nhấn mạnh rằng hoạt động chăm
sóc là một trong những điều kiện của sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Bởi vì thiếu
sự chăm sóc trẻ em và cả người lớn đều khơng thể phát triển năng lực.
25


×