Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may việt nam sang thị trường eu trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.98 KB, 49 trang )

MỞ ĐẦU
Hàng dệt may được coi là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của Việt
Nam, phát triển hàng dệt may là bước đi có tính chất chiến lược. Là một nước
đang phát triển và đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (WTO), những
con đường mới đang được mở ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam. Thị trường EU đã xoá bỏ hạn ngạch dệt may đối với tất cả các
nước, việc ra nhập WTO cũng làm cho hạn ngạch dệt may áp dụng với Việt
Nam được xoá bỏ. Sự kiện này giúp cho một số doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
còn thiếu hạn ngạch sẽ gặp nhiều thuận lợi, còn một số doanh nghiệp vẫn tồn tại
trong tình trạng sống tầm gửi nhờ số hạn ngạch được cấp thì nay sẽ ra sao? Liệu
các doanh nghiệp Việt Nam có còn đứng vững và phát triển trong thị trường
xuất khẩu may mặc hay là không đủ khả năng cạnh tranh với các nước lớn như
Ấn Độ, Thái Lan, Bangladesh, Trung quốc…? Vị trí của ngành dệt may Việt
Nam sẽ đứng ở đâu trên bản đồ cạnh tranh mới trong năm 2005? Chính phủ và
các doanh nghiệp xuất khẩu đã, đang và sẽ làm gì để bắt nhịp với sự thay đổi
của thế giới? Việt Nam được xem là có rất nhiều lợi thế trong phát triển ngành
may mặc và việc tận dụng những lợi thế đó có giúp gì cho Việt Nam trong
thương trường thế giới. Đây là một vấn đề đang được quan tâm đặc biệt, trước
tình hình cấp bách đó của toàn ngành dệt may, đề tài:
" THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG XU
HƯỚNG XOÁ BỎ HẠN NGẠCH DỆT MAY "
đã được chọn để nghiên cứu.
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài: thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường EU trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may.
2. Đối tượng nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam.
1
3. Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
và thị trường EU.
4. Kết cấu: đề tài được hoàn thành gồm ba phần


• Phần 1: một số vấn đề lý luận chung về ngành dệt may Việt Nam.
• Phần 2: thực trạng hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may
• Phần 3: Giải pháp cho nghành dệt may Việt Nam sang thị trường
EU trong xu hướng xoá bỏ ngành dệt may
2
PHẦN MỘT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA NGÀNH DỆT MAY
I. Đặc điểm về sản xuất và buôn bán hàng dệt may
1. Đặc điểm về sản xuất hàng dệt may
Với một quốc gia, khi có nền công nghiệp phát triển thì ngành công nghiệp
dệt may không đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế mà các ngành công nghiêp
khác có hàm lượng kĩ thuật cao sẽ chiếm lĩnh thị trường. Ngành công nghiệp dệt
may là một ngành sử dụng nhiều lao động đơn giản, vốn đầu tư ban đầu không
lớn, nhưng có tỷ lệ lãi khá cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển
mạnh và có hiệu quả ở các nước đang phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hoá. Khi đã có ngành công nghiệp phát triển, có trình
độ kỹ thuật cao, giá lao động cao thì sức cạnh tranh trong sản xuất dệt may sẽ
giảm. Thực tế cho thấy, lịch sử phát triển ngành dệt may cũng là lịch sử chuyển
dịch công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn
do tác động của các lợi thế so sánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là
ngành dệt may không còn tồn tại ở các nước phát triển mà nó đã phát triển cao
hơn với những sản phẩm thời trang cao cấp để phục vụ cho một nhóm người .
Sự chuyển dịch này bắt đầu vào năm 1840 từ nước Anh sang các nước
Châu Âu khác. Tiếp theo là từ Châu Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950.
Từ năm 1960, khi chi phí sản xuất ở Nhật Bản tăng cao và thiếu nguồn lao động
thì công nghiệp dệt may lại chuyển sang các nước mới công nghiệp hoá (NICs)
như Hồng Kông, Đài Loan, Nam Triều Tiên… Theo quy luật chuyển dịch của
ngành công nghiệp dệt may thì đến năm 1980 lợi thế so sánh của ngành dệt may
mất dần đi, các quốc gia này chuyển sang sản xuất các mặt hàng có công nghệ

và kĩ thuật cao hơn như ô tô, điện tử… Ngành dệt may lại tiếp tục chuyển dịch
sang các nước Nam Á, Trung Quốc rồi tiếp tục sang các quốc gia khác, trong đó
có Việt Nam.
3
Việt Nam là một quốc gia thuộc ASEAN và cũng đã đạt mức xuất khẩu cao
về sản phẩm dệt may trong thập kỷ qua góp phần vào công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Đặc điểm về buôn bán hàng dệt may
- Sản phẩm dệt may có nhu cầu rất đa dạng, phong phú tuỳ theo đối tượng
tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo,
khác nhau về khu vực địa lý, tuổi tác…sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang
phục.
- Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi
mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng tâm lý thích đổi mới, độc đáo
và gây ấn tượng của người tiêu dùng.
- Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm.
Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để đánh giá chất lượng sản phẩm.
Tên tuổi của các nhãn mác nổi tiếng trên thế giới đều gắn liền với nhãn mác sản
phẩm. Tập quán và thói quen tiêu dùng là một yếu tố quyết định nguyên liệu và
chủng loại sản phẩm.
- Yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ tới thời cơ bán hàng. Điều này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nhà xuất khẩu trong vấn đề giao hàng
đúng thời hạn.
- Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt
chẽ. Trước đây có hiệp định về hàng may mặc, việc buôn bán các sản phẩm dệt
may được điều chỉnh theo những thể chế thương mại đặc biệt mà nhờ đó, phần
lớn các nước nhập khẩu thiết bị cần hạn chế số lượng để hạn chế hàng dệt may
nhập khẩu. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so
với những hàng công nghiệp khác. Bên cạnh đó, từng nước nhập khẩu còn đề ra
những điều kiện đối với hàng dệt may nhập khẩu. Tất cả những hàng rào đó ảnh

hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới trong thời
gian qua.
II. Một số ưu điểm và nhược điểm của ngành dệt may Việt Nam
4
1. Một số ưu điểm của ngành dệt may Việt Nam
- Là ngành khai thác được nguồn lao động khéo léo, tiếp thu nhanh kỹ thuật
mới với tiền công rẻ, vốn là thế mạnh của Việt Nam.
- Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi để sản xuất tơ lụa tự nhiên.
- Việt Nam có thị trường với khách hàng tương đối ổn định (do tác động
của cách mạng khoa học- kỹ thuật nên nhiều nước đã chuyển giao công nghệ
cho các nước đang phát triển như Việt Nam)
- Thiết bị đã được đổi mới và sẽ được đổi mới nhanh do không cần nhiều
vốn (đến nay có khoảng 50% thiết bị hiện đại).
2. Một số nhược điểm của dệt may Việt Nam
• Về ngành dệt:
Chất lượng vải lụa tơ tằm thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế và mới đáp ứng hơn
30% nguyên liệu vải cho may xuất khẩu. Giữa các khâu của ngành dệt như: in,
nhuộm, hoàn tất…còn yếu, chưa đồng bộ. Bông xơ nguyên liệu còn phải nhập
nhiều, chi phí cao. Máy móc của ngành dệt đã sử dụng trên 20 năm, hầu như đã
hết khấu hao, 80% máy dệt là máy dệt thoi khổ hẹp.
• Về ngành may:
- Năng suất lao động thấp, giá thành của một đơn vị sản phẩm cao, sức
cạnh tranh kém.
- Khâu tổ chức sản xuất chưa hợp lý, hệ số ca thấp, thiết bị chuyên dùng
thiếu, năng lực thiết kế mẫu kém, một số khâu chưa đồng bộ.
- Tỷ trọng hàng xuất khẩu bằng hình thức mua nguyên liệu, bán sản phẩm
chưa cao.
- Ngành may mới sử dụng 60% năng lực hiện có.
Vì những lí do trên, có thể nói năng lực cạnh tranh của ngành dệt may là
chưa cao. Nhưng nếu được đầu tư thoả đáng thì ngành dệt may là ngành có thể

phát huy được nội lực của Việt Nam.
III. Hạn ngạch
1. Khái niệm về hạn ngạch (quota)
5
Hạn ngạch vừa như một rào cản hạn chế lượng hàng xuất khẩu của các
doanh nghiệp về một thị trường nào đó. Nhưng đồng thời nó cũng là sự phân bổ
tạo cơ hội cho doanh nghiệp được xuất khẩu sang nước khác.
Hạn ngạch là quyền lợi dành cho mỗi thành viên trong một tổ chức được
hưởng phần ngoại tệ dành cho một thương nhân được sử dụng để nhập khẩu
trong tổng số ngoại tệ dùng để nhập khẩu của một nước.
Một định mức về số lượng hoặc trị giá do nhà nước quy định trong việc
xuất khẩu hoặc nhập khẩu một mặt hàng trong một thời gian nhất định.
2. Căn cứ giao hạn ngạch cho các doanh nghiệp trong nước
2.1. Hạn ngạch thành tích
Là dành 80% nguồn hạn ngạch để giao cho thương nhân đã có thành tích
xuất khẩu mặt hàng trong năm tương ứng. Thành tích xuất khẩu của các thương
nhân sẽ do phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực báo cáo, không giao hạn
ngạch thành tích cho các thương nhân mới, chưa được kiểm tra năng lực sản
xuất.
2.2. Hạn ngạch phát triển
Là dành 20% nguồn hạn ngạch còn lại để giao cho các doanh nghiệp có
mặt hàng xuất khẩu cùng loại tương ứng. Bộ Thương Mại dựa vào những hồ sơ
và một số yêu cầu bổ sung có thể để phân giao hạn ngạch công bằng giữa các
doanh nghiệp theo một số tiêu chí như: xuất khẩu dệt may sử dụng vải trong
nước, thưởng cho doanh nghiệp xuất khẩu các chủng loại hàng phi hạn ngạch;
doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa (cách cảng Hải Phòng hoặc cảng quốc tế thành
phố Hồ Chí Minh trên 500km); doanh nghiệp tham gia chuỗi và các doanh
nghiệp đầu tư mới các dự án dệt nhuộm lớn…
3. Các loại hạn ngạch
3.1. Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với loại hàng nào đó

được nhập khẩu vào một nước được hưởng mức thuế thấp trong một thời gian
nhất định, nếu vượt sẽ đánh thuế cao.
3.2. Hạn ngạch tương đối
6
Là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập
khẩu vào một nước trong một thời gian nhất định nếu vượt sẽ không được phép
nhập khẩu.
4. Hoàn trả hạn ngạch
Doanh nghiệp không có khả năng thực hiện hạn ngạch được giao phải có
văn bản hoàn trả lại Bộ Thương Mại, tránh khê đọng hạn ngạch. Tuỳ từng
trường hợp mà Bộ Thương Mại có những hình thức xử lý đối với các văn bản
hoàn trả. Ví dụ đối với các hạn ngạch dành cho các tiêu chí như vải sản xuất
trong nước, khách hàng Hoa Kỳ lớn, sản phẩm giá xuất khẩu cao nếu không sử
dụng mà trả lại cũng không được tính làm cơ sở để phân giao cho năm tiếp
theo…
5. Hoạt động xuất khẩu
5.1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là một bộ phận cơ bản của hoạt động ngoại thương, trong đó
hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của
mình ra nước ngoài. Do vậy xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh
quốc tế quan trọng của các công ty. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã
thực hiện được những hình thức cao hơn trong kinh doanh.
5.2. Một số hình thức xuất khẩu
- Xuất khẩu trực tiếp
- Xuất khẩu gia công uỷ thác
- Xuất khẩu uỷ thác
- Buôn bán đối lưu
- Xuất khẩu theo nghị định thư
- Xuất khẩu tại chỗ

- Gia công quốc tế
- Tạm nhập tái xuất
5.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
7
- Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước .
- Xuất khẩu có vai trò tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu có tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân
- Xuất khẩu là nền tảng trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề sử
dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
8
PHẦN HAI
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG EU TRONG XU HƯỚNG XOÁ BỎ HẠN NGẠCH DỆT MAY
I. Khái quát chung về thị trường EU
1. Vài nét chung về liên minh Châu Âu và quan hệ Việt
Nam - EU
1.1 Vài nét chung về liên minh Châu Âu
Liên minh Châu Âu đã có lịch sử hơn 50 năm hình thành và phát triển. Tổ
chức tiền thân là Cộng đồng than và sắt thép Châu Âu gọi tắt là CECA
(18/4/1951). Ngày 1/1/1994 Cộng đồng Châu Âu (EC) đổi tên thành Liên minh
Châu Âu, gọi tắt là EU (đến ngày 1/5/2004 EU chính thức kết nạp thêm 10
thành viên mới, nâng tổng số thành viên lên 25 nước). Liên minh Châu Âu là
một trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới.
Không chỉ lớn về quy mô (năm 1999 GDP đạt 8,774 tỷ USD chiếm 20% GDP
toàn cầu, vững mạnh về cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, tăng trưởng
ổn định) mà còn có đồng tiền mạnh - đồng EURO có khả năng chuyển đổi toàn

thế giới và đang vượt trội đồng USD. EU không chỉ có nguồn nhân lực trình độ
cao và lành nghề (chiếm khoảng 25% trong cơ cấu lao động tại nghiệp) có thị
trường nội địa với sức mua lớn (hơn 386 triệu người tiêu dùng - tính đến hết
ngày 1/5/2004, năm 1999 GDP/người đạt 23.354 USD vào loại cao nhất thế
giới) mà còn có tiềm lực khoa học, công nghệ lớn mạnh nhất thế giới.
Năm 1999, EU với dân số 386 triệu người, chiếm 6% dân số thế giới nhưng
EU chiếm tới 1/5 giá trị toàn cầu. Hiện nay EU là khối thương mại lớn nhất thế
giới với 25 nước và là thành viên chủ chốt của tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Liên minh Châu Âu còn là cái nôi của nền kinh tế văn minh công
nghiệp, là nơi khai sinh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hiện nay đang đi tiên
9
phong trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp quốc tế, chiếm 1/3 tổng số lượng vốn đầu
tư ra nước ngoài của toàn thế giới.
1.2 Quan hệ Việt Nam - EU
Do tiến trình lịch sử, giữa liên hiệp Châu Âu và từng quốc gia thành viên
với Việt Nam ở mức độ khác nhau đã có quan hệ thương mại nhưng phải đến
mấy năm gần đây mới khá nhộn nhịp mà điểm đột phá là: Hiệp định hàng dệt
may 1992 - 1997.
Đối với Việt Nam, việc tăng cường hợp tác quan hệ với EU là bước quan
trọng trong việc thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại, góp phần ổn định và xây dựng đất nước cũng như trong khu vực, tạo một
vị thế quan trọng hơn, một thị trường tiềm năng lớn cho Việt Nam.
Sự kiện ngày 17/7/1995 ký "Hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu " đã đánh dấu quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và EU sang một giai đoạn phát triển mới. Hiệp định sẽ thúc đẩy hơn
nữa sự phát triển kinh tế của Việt Nam như gia tăng viện trợ tài chính EU cho
Việt Nam, giúp Việt Nam thực hiện có hiệu quả hơn tiến trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Mặc dù EU không dành cho Việt Nam bất cứ một sự
giảm thuế nào nhưng EU đã tuyên bố sẽ thúc đẩy để Việt Nam trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới. Hiện nay, EU và Việt Nam đang trong xu

hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - EU
Đơn vị: triệu đồng
XUẤT KHẨU
1995 1996 1997 1998
1. Tồng kim ngạch XK của VN 5444,9 7255,9 9185 9361
2. Trong đó với Eu 720 990,5 1608,5 2094,3
3. Tỷ trọng / tổng số 13,2 12,4 17,5 22,7
4. Tỷ lệ tăng trưởng 87,6 25,1 78,6 32,2
(Nguồn: Tổng cục thống kê )
10
2. Đặc điểm thị trường EU
2.1 Thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn gồm 25 quốc gia với hơn 450 triệu người
tiêu dùng. Thị trường EU thống nhất cho phép lưu thông tự do người, hàng hoá,
dịch vụ và vốn giữa các thành viên. Thị trường này cần mở rộng sang các nước
thuộc "Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu " (EFTA) tạo thành một thị trường
rộng lớn trên 450 triệu người tiêu dùng.
2.2 Tập quán thị hiếu người tiêu dùng
Đây là một thị trường khá khó tính và có chọn lọc, đặc biệt là đối với hàng
dệt may. Ngành dệt may của Châu Âu đang có xu hướng chuyển dần sang các
nước khác có giá nhân công rẻ (các nước đang phát triển) nên thị trường này có
xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt và may mặc.
Để đảm bảo cho người tiêu dùng EU kiểm tra ngay từ nơi sản xuất và có hệ
thốngbáo động về chất lượng hàng hoá giữa các nước trong khối. Hiện nay ở
Châu Âu có 3 tiêu chuẩn định chuẩn của Uỷ ban Châu Âu về định chuẩn điện tử,
Viện định chuẩn viễn thông Châu Âu. Tất cả các sản phẩm để có thể bán ở thị
trường này đều phải đảm bảo thực hiện tiêu chuẩn chung EU.
EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không nhập khẩu
những sản phẩm đánh cắp bản quyền. Nhu cầu tiêu dùng là tìm kiếm những thị

trường có mặt hàng rẻ, đẹp song cũng đảm bảo chất lượng họ yêu cầu.
2.3 Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU là một bộ phận gắn liền với hệ thống mậu dịch
thương mại toàn cầu. Mặt khác EU là một trong ba khối liên kết kinh tế lớn nhất
thế giới với mức sống cao, đồng đều của người dân trong khối EU cho thấy một
thị trường rộng lớn và phát triển. Không những thế EU ngày càng hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật, các tiêu chuẩn và chính sách thuế áp dụng vào trong
pháp luật từng bước làm cho việc đưa sản phẩm vào EU ngày càng có quy củ
hơn.
Hệ thống phân phối là yếu tố quan trọng trong khâu lưu thông và xuất khẩu
hàng hoá vì thế nó có các hình thức sau: các trung tâm Châu Âu, các đơn vị chế
11
biến dây chuyền phân phối, các nhà bán buôn, bán lẻ và người tiêu dùng. Trong
đó tập trung chủ yếu vào các hình thức các trung tâm thu mua Châu Âu, các
trung tâm Châu Âu mua chung sản phẩm sản xuất trên thế giới và phân phối cho
nhiều nhà phân phối quốc gia. Những trung tâm này thường tập hơn trên 50 nhà
phân phối trở trên hoạt động trên phạm vi toàn Châu Âu, làm trung gian giữa
nhà sản xuất và nhà phân phối sản phẩm
2.4 Chính sách ngoại thương
Trong sự phát triển kinh tế của EU, ngoại thương đã đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Nó đã đem lại sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm trong
các ngành sản xuất, nghiên cứu, bảo hiểm, ngân hàng Do vậy chính sách này
có nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động ngoại thương đi đúng hướng để phục vụ mục
tiêu chiến lược kinh tế của liên minh.
Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng trên các nguyên tắc sau:
không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các
biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan và hạn chế
về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Từ năm 1951 đến nay EU có những cụm chính sách phát triển ngoại
thương chủ yếu: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thay thế nhập

khẩu, chính sách tự do hoá thương mại và chính sách hạn chế xuất khẩu tự
nguyện.
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các biện
pháp chống bán phá giá và chống tự cấp xuất khẩu, không chỉ dừng lại ở việc áp
dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại, EU
còn sử dụng một biện pháp để đẩy mạnh thương mại với các nước đang phát
triển đó là hệ thống ưu đãi phổ cấp (GSP) - một công cụ quan trọng của EU để
hỗ trợ các nước trên. Bằng cách này EU có thể làm cho các nước đang phát triển
dễ dàng thâm nhập vào các thị trường của mình.
II. Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trước khi có Hiệp định tự
do hoá thương mại ngành dệt may
12
1. Hoạt động xuất khẩu chung của dệt may Việt Nam
1.1 Kim ngạch xuất khẩu chung
Ngành dệt may nước ta phát triển đã lâu nhưng chỉ từ thập niên 90 trở lại
đây mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt
động ngoại thương nói riêng. Trong suốt 40 năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt
may chỉ đạt 158 triệu USD. Năm 1997 Việt Nam đã xuất khẩu được 1,3 tỷ USD
đứng thứ hai sau dầu mỏ. Nhưng dù vậy, sản xuất ngành dệt may vẫn chủ yếu là
gia công, lệ thuộc vào đối tác nước ngoài về mẫu mã, thị trường và giá cả không
chuyển sang tự sản xuất kinh doanh để có hiệu qủa hơn. Vì thế, sản xuất ngành
dệt may có chiều hướng giảm dần so với năm 1996. Năm 1998 gấp 9,18 lần (so
với năm 1991) đạt 1450 triệu USD tương đương với tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm là 43,5% tức là khoảng 160 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, tỷ
trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kinh ngạch của nước ta luôn tăng từ
7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998. Đến nay, hàng dệt may là một trong 10 mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm qua
được thể hiện ở bảng sau

Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD
Năm Kim ngạch xuất khẩu dệt
may Việt Nam
Tổng kim ngạch
xuất khẩu
Tỷ trọng/tổng số
1992 211 2581 8,1%
1993 350 2985 11,7%
1994 550 4054 13,6%
1995 750 5200 14,4%
1996 1150 7255 15,2%
1997 1349 9361 15,4%
1998 1351 9361 14,6%
1999 1682 11523 14,6%
(Nguồn: Bộ thương mại và Tổng công tyVinatex)
13
1.2. Các thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Thị trường là vấn đề cốt lõi có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của từng doanh nghiệp, vì vậy việc tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu của thị
trường là điều cần thiết để từ đó có thể sản xuất ra những gì mà thị trường đòi
hỏi. Điều này đã tạo nên vai trò quyết định của thị trường đối với việc sản xuất
kinh doanh của ngành dệt may.
Mặc dù hình thức xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam là gia công
xuất khẩu thông qua nước thứ ba nhưng vẫn có thể nói hàng dệt may Việt Nam
đã phần nào thâm nhập vào các thị trường lớn như EU, Mỹ, ASEAN, Nhật
Bản điều này càng chứng tỏ rằng dệt may Việt Nam đã dần có vị thế và uy tín
trên thế giới
• Thị trường Nhật Bản
Đây là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba trên thế giới, lại

không hạn chế bằng hạn ngạch, dân số đông và mức thu nhập bình quân 27
nghìn USD/ người / năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ. Hàng năm Nhật
Bản nhập khẩu hàng may mặc khoảng từ 7-8 tỷ USD, trong đó hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này năm 1994 khoảng 130 triệu USD, năm
1996 vươn lên vị trí số 8 trong danh sách 10 nhà xuất khẩu may mặc lớn nhất
vào Nhật Bản với doanh số là 500 triệu USD. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này là 0,467 tỷ USD. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu rất khả quan song
do Nhật Bản là một thị trường rất khó tình về chất lượng giá cả vì thế khả năng
để chiếm lĩnh thị trường vẫn còn hạn chế.
• Thị trường Mỹ
Đây cũng là một thị trường khá hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên việc tham gia vào thị trường này rất khó khăn vì phải chịu mức thuế
nhập khẩu cao từ 40-90% giá trị nhập khẩu. Từ sau khi Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ được kí kết thì hàng dệt may Việt Nam đã có điều kiện phát triển tốt
hơn trên thị trường này.
14
Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ
Đơn vị: triệu USD
Mặt hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Hàng dệt 0,11 1,78 3,59 5,236 5,053 7,8
Hàng may 2,45 15,09 20,01 20,602 21,347 28,6
Cộng 2,56 16,78 23,6 25,928 26,4 36,4
(Nguồn: Bộ thương mại )
• Thị trường các nước trong khu vực
Hàng năm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang
các nước trong khu vực như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc. Tuy
nhiên các nước này không phải là thị trường nhập khẩu chính mà là các nước
nhập khẩu để tái xuất khẩu sang nước thứ ba.
Bảng 4: Các nước trong khu vực nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam
Đơn vị : triệu USD

Thị trường 1997 1998 9 tháng/1999
Đài Loan 198 200 160
Hàn Quốc 76 40 31
Singapore 56 26 38
Hồng Kông 27 13 7
(Nguồn: Bộ thương mại )
Qua việc xem xét đánh giá thị trường trên ta thấy rằng triển vọng cho
ngành dệt may Việt Nam là rất lớn. Do đó, khi chúng ta có đủ tất cả các điều
kiện để khai thác thành công, có hiệu quả các thị trường này chắc chắn kinh tế
Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng sẽ có thể sánh bước đi cùng các
nước phát triển trên thế giới
2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trước
khi có Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may
2.1 Thời kỳ trước năm 1990
15
Trước năm 1990 kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam - EU hết sức nhỏ bé
do quan hệ giữa hai bên chưa được bình thường hoá. Từ năm 1980 Việt Nam
xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Pháp, Anh,
Hà Lan song kim nghạch xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Và chỉ từ sau Hiệp
định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU được kí kết ngày 15/2/1992 thì
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam mới đặc biệt phát triển
2.2 Thời kỳ từ 1990 - đến nay
Kể từ khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với cộng đồng
Châu Âu vào ngày 22/12/1990 kýý tắt Hiệp dịnh buôn bán dệt may với Liên
minh Châu Âu vào 15/12/1992 thì quan hệ Việt Nam- EU không ngừng phát
triển. Đây chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng Việt
Nam nói chung và các sản phẩm hàng dệt may nói riêng sang EU phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
• Hiệp định buôn bán hàng dệt may đã được kí
Hiệp định buôn bán hàng dệt may đã được kí tắt vào ngày 15/12/1992 có

hiệu lực từ 1/1/1993 và được điều chỉnh bổ xung bằng thư từ trao đổi kí từ
ngày1/8/1995 giữa chính phủ Việt Nam và Cộng đồng kinh tế Châu Âu, quy
định những điều khoản về hàng dệt may sản xuất hàng dệt may sang EU. Tiếp
đến, ngày 24/7/1996 tại Bruxen, Việt Nam và EU đã chính thức ký Hiệp định
về buôn bán hàng dệt, may mặc. Theo Hiệp định này, Việt Nam được tự do
chuyển đổi quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi đồng thời EU cũng dành
cho phía Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và chế độ ưu đãi phổ cập(GPS).
Khi Hiệp định hàng dệt may thời kì 1992-1997 hết hạn thì Hiệp định buôn bán
dệt may Việt Nam - EU giai đoạn 1998-2000 được kí kết ngày 17/11/1997 cho
phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai
đoạn 5 năm(1993-1997) với mức tăng trưởng 3-6%/năm. Mới đây đại diện chính
phủ Việt Nam và Liên hiệp Châu Âu đã kí Hiệp định về buôn bán hàng dệt may
cho 3 năm 2000 - 2002 trong đó Việt Nam và EU cam kết mở rộng cửa thị
trường cho hàng dệt may xuất khẩu của hai bên. Theo Hiệp định này EU đồng ý
16
tăng khoảng 30% hạn ngạch cho hàng dệt may VN xuất khẩu vào thị trường
này. Hiệp định này có hiệu lực từ 15/6/2000
• Hạn ngạch mã hàng dệt may của EU cấp cho Việt Nam (VN) Theo
thông lệ mức gia tăng hàng dệt may xuất khẩu vào EU năm sau so với năm trước
chỉ được tối đa là 5%. Tuy nhiên trong Hiệp định mới kí kết, hạn ngạch xuất
khẩu vào EU năm 2000 có nhiều mặt hàng tăng gần gấp đôi so với mức hạn
ngạch của năm 1999. Vì thế, các doanh nghiệp đánh giá cao thành công của
nhóm đàm phán do Bộ Thương Mại dẫn đầu đã thuyết phục được EU mở rộng
hơn cánh cửa thị trường khối này cho hàng dệt may VN . Các doanh nghiệp tin
rằng xuất khẩu hàng dệt may VN vào EU trong những năm tới sẽ tăng nhanh
hơn.
17
Bảng 5: Hạn ngạch 28 mã hàng dệt may EU cấp cho VN
STT
Tên hàng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001

1
Cat 4: áo T-Shirt và
Polo shirt
7 triệu chiếc 9,8 triệu chiếc 10,0898 triệu
chiếc
2 Cat 5: áo len 2,7 triệu chiếc 3,25 triệu chiếc 3,348 triệu chiếc
3 Cat 6: quần 4,429 triệu chiếc 5 triệu chiếc 5,15 triệu chiếc
4 Cat 7: sơ mi nữ 2,334 triệu chiếc 2,75 triệu chiếc 2,833 triệu chiếc
5
Cat 8: sơ mi nam 10,185 triệu
chiếc
13 triệu chiếc 13,39 triệu chiếc
6
Cat 9: khăn vải
bụng, khăn vệ sinh
800 tấn 912 tấn 935 tấn
7 Cỏt 10: găng tay 5,067 triệu chiếc 5,32 triệu chiếc 5,886 triệu chiếc
8
Cat 12: tất dài 2,861 triệu chiếc 2,981 triệu
chiếc
2,977 triệu chiếc
9
Cat 13: quần lót nhỏ 8,22 triệu chiếc 8,469 triệu
chiếc
8,723 triệu chiếc
10
Cat 14: áo khoác
nam
428.000 chiếc 443.000 chiếc 458.000 chiếc
11 Cat 15: áo khoác nữ 331.000 chiếc 475.000 chiếc 499.000 chiếc

12 Cat 18: bộ pyjama 800 tấn 833 tấn 911 tấn
13
Cat 20: khăn trải
gường
859 tấn 234 tấn 241 tấn
14
Cat 21: áo jacket 227 tấn 18 tr triệu
chiếc
18,9 triệu chiếc
15
Cat 26: váy áo liền 15,766 triệu
chiếc
1,15 triệu bộ 1,185 triệu bộ
16
Cat 28: hàng dệt kim 796.000 bộ 3,551
triệuchiếc
3,658 triệu chiếc
17
Cat 29: bộ quần áo
dệt kim
265.000 bộ 350.000 bộ 361.000 bộ
18 Cat 31: áo lót nhỏ 2,864 triệu chiếc 4 triệu chiếc 4,12 triệu chiếc
19
Cat 35: vải xơ tổng
hợp sợi dài
551 tấn 789 tấn 807 tấn
20 Cat 41: sợi tổng hợp 677 tấn 707 tấn 739 tấn
21
Cat 68: quần áo trẻ
em

321 tấn 425 tấn 440 tấn
18
22 Cat 73: quần áo khác 590.000 chiếc 1 triệu chiếc 1,05 triệu chiếc
23
Cat 76: bộ quần áo
baot h
1,088 tấn 1,142 tấn
24
Cat 78: quần áo thể
thao
700 tấn 1200 tấn 1236 tấn
25 Cat 83: quần áo 212 tấn 400 tấn 412 tấn
26 Cat 97: lưới đánh cá 107 tấn 200 tấn 208 tấn
27
Cat 118: vải lanh trải
giường
800 tấn 250 tấn 259 tấn
28
Cat 161: áo jacket
bằng vải thô
219 tấn 226 tấn 234 tấn
(Nguồn: Bộ thương mại )
• Tình hình chung về chất lượng giá cả, mẫu mã, sản phẩm
Thị trường xuất khẩu hàng dệt may có hạn nghạch chủ yếu của VN là các
nước thuộc khối EU. Vì thế mà EU được xem là thị trường xuất khẩu trọng điểm
của nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị
trường này. Mặc dù chất lượng, giá cả, mẫu mã, sản phẩm xuất khẩu sang EU
được đánh giá khá tốt nhưng không vì thế mà hàng dệt may VN có thể thống
lĩnh được thị trường này. Cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt được
đúng như tiêu chuẩn của khách hàng đòi hỏi và chưa ổn định. Do đó gần như

các sản phẩm này không phải là hàng tiêu dùng đối với khách hàng có thu nhập
cao. Mẫu mã hầu như chưa được đổi mới với thị hiếu của người tiêu dùng. Vì
thế khả năng đúng mốt hợp thời trang của dệt may gần như không đáp ứng
được. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu của các mặt hàng năm 1999 bị giảm thấp từ 15
- 20 % so với năm 1998 nên hiệu quả kinh tế là chưa cao. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong việc
nâng cao uy tín, mở rộng thị trường. Mặt khác hình thức xuất khẩu theo hạn
nghạch cũng tạo ra cho doanh nghiệp luôn bị gò bó thụ động trong việc thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của mình. Tuy nhiên vì thị trường EU tiêu dùng theo tầng
lớp nên sản phẩm dệt may VN thường thích hợp, thoả mãn nhu cầu ở tầng lớp
trung lưu nghĩa là đã có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng cũng như
19
giá cả vừa với mức thu nhập của họ. Chính vì vậy mà số hạn ngạch đã được
giảm từ 151 vào năm 1993 đến năm 2000 số hàng quản lý bằng hạn ngạch chỉ
còn 28 đã cho thấy người tiêu dùng EU đang ngày càng chấp nhận tiêu dùng
hàng dệt may nhiều hơn.
Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên
tục số lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU còn quá ít. Nhưng phải thừa nhận
rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa VN và EU đã tạo ra bước tiến mới
trong xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Vì vậy, điều quan trọng hiện nay để thâm
nhập thị trường này là phải tăng cường xuất khẩu và liên tục nâng cao chất
lượng, đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc nhằm cạnh tranh có
hiệu quả hơn với các đối thủ khác trên thị trường này.
• Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường EU
Là một thị trường đầy tiềm năng với sức tiêu dùng hàng dệt may cao hàng
đầu thế giới: 17 kg/người/năm. EU thực sự trở thành thị trường rộng lớn. Vì vậy
nhu cầu tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường EU luôn là
vấn đề cấp thiết. Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu sang hơn 40 nước trên
thế giới trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm gần 40% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.

Căn cứ vào số liệu của EU năm 1997 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
VN chiếm 0,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường EU, cụ
thể là năm 1996 đạt 405,8 triệu USD năm 1997 đạt 436,1 triệu USD năm 1998
lên đến 578,7 triệu USD năm 1999 là 658,7 triệu USD. Dự kiến kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may cả năm 2004 đạt khoảng 4,3 - 4,35 tỷ USD, vượt kế hoạch
năm 2004 khoảng 50 - 100 triệu USD, trong đó EU đạt gần 800 triệu USD
chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 40% so với năm
2003. Tuy nhiên một trong những nhân tố làm kim ngạch xuất khẩu tăng cao là
do việc cộng kim ngạch của 10 nước thành viên mới trong EU.
Tính đến hết ngày 11/1/2005 tỷ lệ thực hiện hạn ngạch vào thị trường EU
như sau: trong tổng số 29 chủng loại hàng (cat) chịu áp dụng hạn ngạch thì có
hai cat có tỷ lệ thực hiện đạt hơn 90% (áo khoác nam - cat.15 và quần áo dệt kim
20
- cat.83) 6 cat đạt hơn 80% (gồm sợi tổng hợp - cat.41, áo len - nỉ - cat.5, quần -
cat.6, áo khoác nữ - cat.14, ga trải giường - cat.20, quần áo bảo hộ lao động -
cat.76) 5 cat thực hiện trên 70%( gồm cat.4,13,29,39,76).
• Chủng loại hàng may mặc được tập trung xuất khẩu
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh
nghiệp may mặc mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ dàng, các mã hàng
nóng như: áo jacket, áo sơ mi, áo váy cụ thể tỷ trọng xuất khẩu sang EU là; áo
jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%) áo len và áo dệt kim (3,9%) T-
shirt và polo - shirt (3,4%) quần dệt kim (2,7%), bộ quần áo bảo hộ lao động
(2,1%) áo khoác nam (1,8%) và áo sơ mi nữ (1,4%) ( nguồn Bộ thương mại )
Trong đó loại được đặc biệt xuất khẩu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang
EU là mặt hàng áo jacket 2 hoặc 3 lớp.
• Hình thức xuất khẩu chủ yếu
Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu vào EU chủ yếu theo hình thức gia
công vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu
hàng dệt may VN sang EU thông qua các thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore. Các nước này thường nhập khẩu hoặc thuê VN gia công rồi tái

xuất sang thị trường EU. Chính điều này tạo nên sự bất cập đối với công ty VN,
bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại
phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như
luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt đống sản xuất của mình về mẫu mã,
chủng loại. Đặc biệt là giá cả được trả rất thấp, điều đó làm cho lợi nhuận không
cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có nên chất lượng thấp, khả năng
sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy tạo nên một vòng
luẩn quẩn cho các doanh nghiệp VN.
• Cạnh tranh với một số nước trên thị trường EU
Với tư cách là nhà xuất khẩu mới còn non trẻ, hơn nữa lại chưa phải là
thành viên của WTO nên bị hạn chế hạn ngạch theo các Hiệp định song phương,
chịu mức thuế suất, nhập khẩu cao vì thế thị phần của VN ở thị trường EU còn
rất nhiều bất cập và nhỏ bé. Năm 2000 đạt 0,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may
21
của EU, đến năm 2002 là 0,8%. Các quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực sản
xuất lại được ưu đãi về hạn ngạch đã chiếm tỷ trọng khá lớn vào các thị trường
quan trọng như Trung Quốc: 11,5%, các nước Đông Á 6%, Ấn Độ 6% đặc biệt
Thổ Nhĩ Kỳ 7,8%, Đông Nam á chiếm 4,5%.
III. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU sau khi có
Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may.
1. Tình hình chung của dệt may Việt Nam sau khi có Hiệp định tự do hoá
thương mại ngành dệt may.
Có thể nói rằng ngay cả khi VN đã là thành viên của WTO ngành dệt may
VN cũng như nhiều nước khác vẫn chịu sức ép rất lớn trước sức cạnh tranh của
hàng dệt may Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan trong khi đó, dù đã đàm phán
khẩn trương chúng ta vẫn chưa thể khẳng định VN có thể gia nhập WTO vào
năm 2005. Vì vậy, rất cần tính đến khả năng VN vẫn phải chịu áp đặt quota
trong năm 2005.
Khi xoá bỏ quota cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước nhập khẩu sẽ được
tự do lựa chọn nơi nào có ngành dệt may cạnh tranh hơn, chọn doanh nghiệp nào

có khả năng cạnh tranh mạnh hơn để nhập khẩu. Có dự báo cho rằng sau khi bỏ
quota, giá bán các sản phẩm dệt may sẽ giảm 20% (chính xác đến đâu còn phải
theo dõi, nhưng xu hướng giảm giá là điều chắc chắn. Một ví dụ cụ thể khi Hoa
kỳ bỏ quota cho Trung Quốc 25 cat thì giá trung bình của các cat này giảm 48%,
còn thị phần của Trung Quốc ở các cat đó tăng 9% năm 2001, lên 61% năm
2004) Đây là sức ép rất lớn đối với các nhà sản xuất dệt may.
Với nước ta, hậu quả còn nghiêm trọng hơn, thách thức và sức ép còn lớn
hơn. Bởi lẽ, ngoài thách thức và sức ép mà doanh nghiệp các nước phải đối đầu,
chúng ta còn phải chịu thêm sức ép do việc tiếp tục bị áp đặt quota. Việc xuất
khẩu theo quota làm tăng chi phí giao dịch của các doanh nghiệp xuất - nhập
khẩu. Vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức sản xuất và xuất khẩu sao cho có lợi nhất, sao
cho có thể phát huy được tối đa sức mạnh không chỉ của một doanh nghiệp mà
của cả ngành dệt may VN. Điều này liên quan đến cách thức phân bổ quota.
22
• Những thuận lợi mà các doanh nghiệp có được khi xoá bỏ quota: như
trên đã phân tích khi bỏ chế độ quota, bản đồ xuất khẩu dệt may sẽ thay đổi,
dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao
hơn, đến với các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số lượng chất
lượng, giá bán, thời gian giao hàng, chi phí giao dịch khi nhập khẩu thấp hơn
• Những khó khăn mà các doanh nghiệp VN sẽ gặp phải khi xoá bỏ
hạn ngạch: năm 2005 khi Trung Quốc, ấn Độ, pakistan và nói chung 147 nước
thành viên WTO được xuất khẩu không cần quota, cạnh tranh để xuất khẩu sẽ
gay gắt hơn, giá xuất khẩu sẽ giảm, làm cho các doanh nghiệp nhỏ khó có khả
năng giữ được thị trường là các thị trường quen thuộc trước đây. Tại thị trường
EU, áp lực cạnh tranh của các nước có lợi thế về sản xuất hàng may mặc như
Trung Quốc, Ấn Độ cũng khiến VN chịu nhiều bất lợi.
2. Thị trường trọng điểm của hàng dệt may Việt Nam trước thách thức
xoá bỏ hạn ngạch dệt may.
Thị trường EU là một thị trường trọng điểm đối với hàng may mặc xuất
khẩu VN. Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường

này luôn đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị và thị phần xuất khẩu.
Nhất là sau khi VN và EU kí Hiệp định về các sản phẩm dệt may ngày
15/2/2003 và một sự kiện trọng đại khác là ngày 1/5/2004, EU đã kết nạp thêm
10 thành viên mới nâng tổng số thành viên trong EU lên 25 nước. Theo ước tính
của Bộ thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc VN sang thị trường EU
có thể đạt gần 1 tỷ EURO trong năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội đang mở
ra cho các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng hoạt động kinh doanh ở thị trường
EU thì hàng may mặc VN đang gặp khá nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Khó
khăn lớn nhất là từ ngày 1/1/2005 khi hạn ngạch dệt may được xoá bỏ giữa các
nước thành viên của WTO thì hàng may mặc xuất khẩu của hàng dệt may VN
phải cạnh tranh gay gắt hơn. Cũng từ ngày đó sẽ có khoảng 165 mã hàng dệt
may các loại được xuất khẩu tự do vào thị trường EU mà không gặp phải một
trở ngại nào. Các quốc gia sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vào
thị trường EU với những lợi thế riêng của mình. Trung Quốc là một đối thủ
23
mạnh nhất trong xuất khẩu hàng may mặc của VN tại thị trường EU, sau đó là
ấn Độ và một số nước khác ở Châu Á. VN là trong những nước xuất khẩu hàng
dệt may lớn trên thế giới. Tuy nhiên khi hội nhập hoàn toàn vào một thị trường
dệt may phi hạn ngạch, doanh nghiệp VN sẽ gặp nhiều bất lợi. Một trong những
bất lợi lớn nhất là doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu
nhập khẩu, tới trên 70%. Vấn đề lao động - một lợi thế chúng ta "tự hào" lâu nay
cũng sẽ mất đi cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật và chi phí nhân công sẽ tăng lên
do nhu cầu đào tạo tay nghề cao.
• Về phía doanh nghiệp bất lợi lớn nhất là VN chưa phải là thành viên
của WTO nên chắc chắn vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Chính phủ đang nỗ lực đàm
phán với EU để dỡ bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may VN dù VN chưa vào WTO.
Nếu đàm phán thành công hàng dệt may VN sẽ có lợi thế rất lớn ở Châu Âu. VN
đã đàm phán xong với EU về việc gia nhập WTO và hiện đang đàm phán với
Mỹ. Đây là hai đối tác quan trọng nhất. VN đang nỗ lực để gia nhập WTO vào
năm 2005.

• Một hạn chế lớn nữa của doanh nghiệp dệt may VN là chưa xác định
cụ thể chiến lược cạnh tranh phù hợp với khả năng. Hầu hết các doanh nghiệp
VN hiện chủ yếu sản xuất theo phương thức gia công, ít có thương hiệu riêng
cho mình để tạo ấn tượng tại các thị trường chính. Doanh nghiệp VN cũng phải
quen với việc nghiên cứu thị trường, xu hướng mẫu mã một cách bài bản và
nâng cao khả năng thiết kế.
• Các doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới các rào cản phi thuế quan
như chống bán phá giá, các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hoá mà các
nền kinh tế phát triển như EU, Hoa kỳ thường xuyên sử dụng. Rất đáng mừng là
phần lớn doanh nghiệp dệt may VN đã ý thức được và có sự chuẩn bị tốt cho
những rào cản này. Doanh nghiệp đã tiếp cận với các chuẩn mực quản lí quốc tế
như chuẩn mực về trách nhiệm xã hội SA8000, nhiều doanh nghiệp đã được
chứng nhận. Tất cả các doanh nghiệp cũng đã xây dựng công đoạn xử lí nước
thải đạt yêu cầu theo chuẩn SA14000.
24
• Bên cạnh những thách thức rất lớn, VN không phải không có những
lợi thế. Nhiều nhà nhập khẩu trên thế giới nhận định sản phẩm may VN có khả
năng cạnh tranh không thua kém bất kỳ nước nào, thậm chí chất lượng còn nổi
trội hơn Trung Quốc.
25

×