TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
VÕ THANH PHÚ
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH NÔNG NGHIỆP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
Long Xuyên, tháng
05/2006
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH NÔNG NGHIỆP
Sinh viên thực hiện: Võ Thanh Phú
Lớp: DH3KN1 Mã số SV: DKN021166
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Quang Cảnh
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
ĐẠI HỌC AN GIANG
Long Xuyên, tháng
05/2006
Người hướng dẫn: Vũ Quang Cảnh
Người chấm, nhận xét 1:
Người chấm, nhận xét 2:
Luận văn được bảo vệ tại hội đồng chấm bảo vệ luận văn
Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, ngày… tháng……,năm…….
NỘI DUNG TÓM TẮT
LỜI CẢM TẠ
Chân thành khắc ghi công ơn cha mẹ, người đã sinh tôi, dạy dỗ tôi
và nuôi tôi nên người.
Xin chân thành biết ơn!
Quý thầy cô trường Đại Học An Giang và nhất là các thầy cô Khoa
Kinh Tế - QTKD, các thầy cô thỉnh giảng từ trường Đại Học Kinh Tế
Thành Phố Hồ Chí Minh, trường Đại Học Cần Thơ đã tận tình dạy dỗ và
truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập tại
trường.
Thầy Vũ Quang Cảnh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên
tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành biết ơn!
Anh Lê Thương và các cô, chú ở Chi Cục Hợp Tác Xã Tỉnh đã
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại đây; chú Nguyễn Văn
Liêm và các anh chị phòng nông nghiệp, Ủy Ban Nhân dân, Phòng Thống
Kê, huyện Chợ Mới tỉnh An Giang cùng với các cô chú ở các Ủy Ban xã,
ban quản trị các HTX và bà con nông dân huyện Chợ Mới đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình phỏng vấn, trao đổi thông tin,
thu thập số liệu.
Sau cùng, xin cám ơn những bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
An Giang, ngày 30
tháng 5 năm 2006.
Sinh viên thực hiện
Võ Thanh Phú
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược lâu dài của
Đảng và nhà nước ta. Trong đó phát triển kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế phát triển tất
yếu khách quan có tầm quan trọng đặc biệt để từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bối cảnh đó, đề tài nghiên cứu thực trạng phát triển các hợp tác xã nông
nghiệp Chợ Mới tỉnh An Giang là rất cần thiết. Dựa vào kết quả khảo sát, các thông tin sơ
cấp và thứ cấp thu thập được, sau đó thông qua tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh. Từ
đó thấy rõ hơn thực trạng hoạt động của các HTX.NN. Qua đề tài nghiên cứu sẽ để xuất
những phương hướng và giải pháp góp phần hạn chế những tồn tại, yếu kém của các
HTX.NN hiện nay, đồng thời đưa kinh tế HTX.NN phát triển phù hợp với xu thế phát triển
của xã hội trong nền kinh tế thị trường và điều kiện của huyện Chợ Mới tỉnh An Giang.
Sinh viên thực hiện đề tài: Võ Thanh phú
Giáo viên hướng dẫn: Vũ Quang Cảnh
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Trang
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Lý do chọn đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3. Phương pháp nghiên cứu 1
1.4. Phạm vi nghiên cứu 2
CHƯƠNG 2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ
HỢP TÁC XÃ 3
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN 3
2.1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
2.1.1.1. Quan điểm của C.Mac, V.I.Lenin và Chủ Tịch Hồ Chí Minh về Kinh tế
hợp tác và hợp tác xã 4
2.1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển HTX 4
2.1.1.3. Vai trò của nhà nước đối với sự ra đời của HTX 4
2.1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 8
2.1.2.1. Tình hình phát triển mô hình kinh tế hợp tác ở các nước trên thế giới 8
2.1.2.2. Tình hình phát triển mô hình kinh tế hợp tác ở Việt Nam 10
2.1.2.3. Vị trí vai trò Hợp Tác Xã Nông nghiệp ở An Giang 12
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN CHỢ MỚI 19
3.1. TIỀN NĂNG THIÊN NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI CHO SỰ PHÁT TRIỂN
HTX.NN HUYỆN CHỢ MỚI 19
3.1.1. Tiềm năng thiên nhiên 19
3.1.1.1. Vị trí - diện tích 19
3.1.1.2. Thổ nhưỡng - nguồn nước 19
3.1.1.3. Khí hậu thuỷ văn 19
3.1.2. Kinh tế - Xã hội 20
3.1.2.1. Kinh tế 20
3.1.2.2. Xã hội 20
3.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN CHỢ MỚI 21
3.2.1. Khái quát thực trạng về HTX.NN ở Chợ Mới 21
3.2.1.1. Điều kiện thành lập của các hợp tác xã ở Huyện Chợ Mới 22
3.2.1.2. Bộ máy quản lý HTX 26
3.2.1.3. Nguồn vốn hoạt động của HTX 28
3.2.1.4. Qui mô và nội dung hoạt động 33
3.2.1.5. Hiệu quả hoạt động 37
3.2.1.6. Phân loại hoạt động 39
3.2.2. Những nhận xét đánh giá về thực trạng phát triển HTX.NN Huyện Chợ
Mới 42
3.2.2.1. Thành tựu đạt được và nguyên nhân 42
3.2.2.2. Những mặt còn tồn tại 44
3.2.2.3. Một số nhận xét từ sự phát triển kinh tế hợp tác ở Huyện Chợ Mới 45
CHƯƠNG 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HTX.NN
HUYỆN CHỢ MỚI ĐẾN NĂM 2010 46
4.1. Mục tiêu 46
4.2. Định hướng phát triển 46
4.3. Yêu cầu nhiệm vụ 47
4.4. Các giải pháp chủ yếu 48
4.4.1. Công tác tuyên truyền vận động 49
4.4.2. Giải pháp củng cố, phát triển Hợp Tác Xã 49
4.4.3. Giải pháp đào tạo cán bộ 51
4.4.4. Giải pháp về đất đai 51
4.4.5. Giải pháp về vốn, tín dụng 52
4.4.6. Một số giải pháp khác 52
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54
5.1. KẾT LUẬN 54
5.2. KIẾN NGHỊ 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ : Ban chỉ đạo
BQ : Bình quân
BQT – BKS : Ban quản trị - Ban kiểm soát
CB : Cán bộ
CB – CNV : Cán bộ - Công nhân viên
CB HTX : Cán bộ hợp tác xã
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CNH – HĐH NNNT : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CHLB : Cộng hòa liên bang
CT.UB : Chỉ thị.Ủy ban
CT.TU : Chỉ thị.Tỉnh ủy
CV – CV/UB : Công văn –Công văn/Ủy ban
CLB : Câu lạc bộ
CTr – TU : Chủ trình - Tỉnh Ủy
CP/HTX : Chi phí/hợp tác xã
HTX : Hợp tác xã
HTX.NN : Hợp tác xã nông nghiệp
HN : Hà nội
HCM : Hồ Chí Minh
KH.HU : Kế hoạch.Huyện ủy
KTPL : Khen thưởng phúc lợi
LNST : Lợi nhuận sau thuế
LKSX : Liên kết sản xuất
NĐ-CP : Nghị định – Chính phủ
NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NQ/HU : Nghị quyết/Huyện ủy
NQ - TW : Nghị quyết/Trung ương
NXB CT HN : Nhà xuất bản chính trị Hà Nội
NXB CT QG : Nhà xuất bản chính trị quốc gia
PTSX : Phát triển sản xuất
QHSX – XHCN : Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
TBKT : Thiết bị kỹ thuật
TB/HTX : Trung bình/Hợp tác xã
TT-BTC : Thông tư - Bộ tài chính
TT-BKH : Thông tư - Bộ kế hoạch
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Kết quả SXKD các HTX 17
Bảng 2.2: Tiêu chí phân loại HTX 18
Bảng 3.1: Danh sách các HTX.NN được khảo sát 21
Bảng 3.2: Số lượng xã viên có đất và không có đất ở các HTX.NN Huyện Chợ Mới 25
Bảng 3.3: Trình độ quản lý HTX.NN Huyện Chợ Mới 26
Bảng 3.4: Chỉ tiêu về trình độ của cán bộ quản lý HTX 27
Bảng 3.5: Tình hình huy động vốn điều lệ thực tế so với vốn điều lệ khi thành lập của các
HTX Chợ Mới 29
Bảng 3.6: Phân loại HTX theo quy mô vốn góp 31
Bảng 3.7: Vốn hoạt động của các HTX Huyện Chợ Mới tỉnh An Giang giai đoạn 2002-
2009 31
Bảng 3.8: Tài sản, tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc sở hữu tập thể hợp tác xã 32
Bảng 3.9: Diện tích phục vụ của HTX Huyện Chợ Mới Tỉnh An Giang từ năm 2001 –
2005 34
Bảng 3.10: Nội dung hoạt động của các HTX.NN Huyện Chợ Mới 34
Bảng 3.11: Kết quả sản xuất kinh doanh các HTX trong thời gian qua 37
Bảng 3.12: Tỷ lệ lợi nhuận của các HTX.NN trong Huyện 38
Bảng 3.13: Các HTX trả nợ năm 2005 39
Bảng 3.14: Đánh giá phân loại HTX trên địa bàn Huyện Chợ Mới 40
Bảng 3.15: Đánh giá phân loại các HTX.NN trên địa bàn huyện Chợ Mới và của cả Tỉnh 41
Bảng 3.16: Kết quả khảo sát những khó khăn thường gặp trong quá trình hoạt động vừa
qua của 12 HTX trong huyện Chợ Mới 44
Bảng 4.1: Các đề xuất kiến nghị của các HTX.NN 49
DANH MỤC BIỂU ĐỒ và BẢNG ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Số lượng HTX.NN ở An Giang giai đoạn 2001 – 2005 15
Biểu đồ 3.1: Số lượng các HTX.NN Huyện Chợ Mới qua các năm 23
Biểu đồ 3.2: Số lượng các HTX.NN ở các Huyện của tỉnh An Giang tính đến năm 2005 23
Biểu đồ 3.3: Lãi TB/HTX 38
Bản đồ 3.1: Các xã, TT ở Chợ Mới 19
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các biểu bảng
Phụ lục 2: Thẻ xã viên
Phụ lục 3: Hợp đồng bơm tưới của HTX.NN Trung Phú
Phụ lục 4: Bảng câu hỏi khảo sát tình hình phát triển HTX.NN Huyện Chợ Mới
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược lâu dài của Đảng
và nhà nước ta. Trong đó phát triển kinh tế hợp tác là yêu cầu và xu thế phát triển tất yếu
khách quan có tầm quan trọng đặc biệt để từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đảng và nhà nước ta luôn luôn chăm lo phát triển kinh tế hợp tác và Hợp tác xã. Những
năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phong trào kinh tế hợp tác và hợp tác xã
bước đầu có chuyển biến tích cực và thu được một số kết quả. Một số loại hình hợp tác đa
dạng về dịch vụ, vốn, lao động được thành lập đã và đang thích ứng với cơ chế mới, tạo đà
thúc đẩy sản xuất và tăng thu nhập cao cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy vậy, việc phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã hiện nay ở nước ta nói chung và ở
An Giang nói riêng còn nhiều mặt hạn chế.
Đối với Huyện Chợ Mới, với lợi thế về điều kiện đất đai, nguồn nước có điều kiện phát
triển sản xuất nông nghiệp theo hướng đa canh đa dạng hóa sản phẩm, mô hình kinh tế hợp
tác và hợp tác xã trong những năm qua cũng không ngừng phát triển và đạt nhiều kết quả. Tuy
nhiên, chất lượng hoạt động cơ bản thì vẫn còn nhiều mặt tồn tại, hạn chế. Sắp tới nhằm định
hướng và có những giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã phù hợp với xu thế phát triển của
xã hội trong nền kinh tế thị trường và điều kiện của Huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Việc
đánh giá lại thực trạng và định hướng phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp là hết sức cần
thiết. Với lý do này, tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển hợp tác xã nông
nghiệp ở Huyện Chợ Mới đến năm 2010” làm luận văn tốt nghiệp Đại học của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp Huyện Chợ Mới trong thời gian
qua, chỉ ra những mặt khó khăn, còn hạn chế để từ đó đề xuất những phương hướng và giải
pháp mang tính khả thi góp phần đưa phong trào hợp tác xã nông nghiệp phát triển, mang lại
nhiều lợi ích cho người dân và góp phần thúc đẩy nền kinh tế Huyện Chợ Mới phát triển.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn PRA (Participatory Rural Appraisal)
- Thu thập dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp
- Dựa vào phân loại HTX.NN, tiến hành khảo sát 12/22 HTX.NN. Đồng thời chọn
mẫu ngẫu nhiên, phỏng vấn 30 xã viên HTX và 30 người dân không phải là xã viên của
HTX
1.3.1.1. Dữ liệu thứ cấp
Thu từ các nguồn như: Chi cục HTX tỉnh An Giang, Sở NN & PTNT An
Giang; Cục thống kê An Giang; Phòng NN & PTNT, Ủy ban nhân dân, phòng thống
kê,…huyện Chợ Mới, các báo cáo có liên quan, tập chí và Internet. Các nghiên cứu khoa
học có liên quan đến đề tài.
1.3.1.2. Dữ liệu sơ cấp
SVTH: Võ Thanh Phú Trang 1
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
- Tiến hành điều tra, khảo sát 12/22 HTX.NN, phỏng vấn trực tiếp người
dân ở trên địa bàn Huyện Chợ Mới
- Đối với các đối tượng khác, tác giả ghi nhận hoặc tham khảo những ý kiến
đóng góp như: Chi cục HTX, Phòng NN & PTNT huyện Chợ Mới, giảng viên của khoa
KT-QTKD trường Đại Học An Giang, những ý kiến đóng góp của giáo viên hướng dẫn,
nhà khoa học.
1.3.2. Phương pháp xử lý
Đối với các dữ liệu thu thập được, tác giả sử dụng các phương pháp xử lý sau:
thống kê, so sánh, đối chiếu và phân tích các yếu tố tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp
giải quyết
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng và phát triển HTX.NN Huyện Chợ Mới.
Thời gian: Khảo sát, nghiên cứu các HTX.NN, nông hộ trên địa bàn Huyện Chợ Mới, từ
2001 đến 30/6/2005.
Nghiên cứu và thu thập số liệu sơ cấp, thứ cấp từ đầu năm 2006.
SVTH: Võ Thanh Phú Trang 2
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
CHƯƠNG 2
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN MÔ
HÌNH KINH TẾ HỢP TÁC VÀ HỢP TÁC XÃ
SVTH: Võ Thanh Phú
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.1. Quan điểm của C.Mac, V.I. Lenin và Chủ Tịch Hồ Chí Minh về kinh
tế hợp tác và hợp tác xã.
2.1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển HTX
2.1.1.3. Vai trò của nhà nước đối với sự ra đời của HTX
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
2.1.2.1 Tình hình phát triển kinh tế hợp tác ở các nước trên thế giới
2.1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế hợp tác ở Việt Nam
2.1.2.3. Vị trí vai trò hợp tác xã nông nghiệp ở An Giang
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
CHƯƠNG 2: SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT
TRIỂN MÔ HÌNH KINH TẾ HỢP TÁC VÀ HỢP TÁC XÃ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1.1. Quan điểm của C.Mac, V.I.Lenin và Chủ Tịch Hồ Chí Minh về kinh tế hợp
tác và hợp tác xã
Phong trào HTX trên thế giới đã có hơn một trăm năm nay, khi những người sản xuất
nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa buộc phải dựa vào nhau để tồn tại và
phát triển trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hoặc ở những nơi thiên
tai quá khắc nghiệt
Lịch sử ra đời và phát triển của phong trào HTX Quốc Tế cho thấy, kinh tế hợp tác
và HTX là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Sản xuất hàng hóa càng phát triển,
cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì những người lao động riêng lẻ, các hộ sản xuất cá thể, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển
trong cơ chế thị trường. Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là một biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn của sự phát triển từ sản xuất nhỏ, manh mún, hiệu quả thấp lên sản xuất hàng hóa
lớn.
Trước đây, khi nghiên cứu về phương thức sản xuất TBCN, C. Mác đã khẳng định:
“Dù sao thì điều chủ yếu cũng phải làm cho nông dân hiểu rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn
và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành
những doanh nghiệp hợp tác xã. Bởi vì chính nền kinh tế cá thể, kết quả của sở hữu tư nhân,
mới làm cho nông dân bị diệt vong. Nếu họ muốn bảo tồn nền kinh tế cá thể, thì tất yếu họ sẽ
bị đuổi ra khỏi cơ nghiệp của họ, còn phương thức sản xuất lỗi thời của họ sẽ nhường chỗ
cho nền kinh tế TBCN quy mô lớn…” (C.Mác – F.Ăngghen toàn tập, tập 22, NXB CTQG sự
thật HN – 2005, trang 738). Chính vì thế ông cho rằng nhiệm vụ của chúng ta đối với tiểu
nông, trước hết phải hướng nền kinh tế cá thể và sở hữu của họ vào con đường kinh doanh
hợp tác, không phải bằng bạo lực, mà bằng tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa lập trường tư tưởng của C.Mác, căn cứ vào tình hình cụ thể nước
Nga thời bấy giờ, trong chính sách kinh tế mới, khi đưa ra chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin
đã chỉ rõ: “Lối làm ăn xưa, người nông dân làm việc ở nhà mình, trên mảnh đất nhỏ bé của
mình, với gia súc, gà vịt của mình, …lối làm ăn đó, chúng ta đã thấy bao nhiêu năm, hàng bao
nhiêu thế kỷ rồi. Dù ở Nga hay ở nơi nào khác, chúng ta đều biết rất rõ rằng cách làm đó chỉ
đưa đến cho nông dân sự ngu dốt, sự nghèo khổ, sự thống trị của người giàu đối với người
nghèo, vì phân tán thì không thể giải quyết được những vấn đề đặt ra cho nông nghiệp. Do đó,
nhiệm vụ hiện nay của chúng ta là phải chuyển sang lối canh tác tập thể, sang kinh doanh tập
thể trên quy mô lớn”. (V.I.Lênin toàn tập, tập 3, NXB CT HN – 1962, trang 390). Đặc biệt,
trong tác phẩm “Bàn về thuế lương thực”,V.I.Lênin khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của
việc phát triển hợp tác xã đối với con người đi lên CNXH, theo ông: “Chuyển từ chế độ hợp
tác xã của những người sản xuất nhỏ lên CNXH là chuyển từ tiểu sản xuất sang đại sản xuất.
Nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn, nhưng thiếu thành công, lại có thể bao gồm được
những khối quần chúng nhân dân đông đảo hơn, nhỗ được những gốc rể sâu xã hơn và dai
dẳng hơn của những quan hệ cũ tiền XHCN, thậm chí tiền TBCN…chính sách hợp tác một
khi thành công, sẽ góp phần làm cho nền kinh tế nhỏ phát triển và tạo điều kiện cho kinh tế
quá độ - trong một thời hạn không nhất định – lên đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp”,
(V.I.Lênin toàn tập, t143, NXB tiến bộ Mát – xcơ – va, 1978, trang 273).
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước
ta, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn xem hợp tác xã là con đường để phát triển nông nghiệp trong
mối quan hệ giữa kinh tế nông nghiệp với công nghiệp và các ngành kinh tế khác trong xây
dựng nền kinh tế XHCN. Bác Hồ khẳng định: “Nước ta là một nước nông nghiệp, phát triển
nền kinh tế nói chung phải lấy việc nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển
nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên
liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra” (HCM: toàn
tập, NXB chính trị quốc gia, HN, 1996, tập 10, trang 180)
Theo Bác, quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từ đặc điểm nền kinh tế thuần
nông và lực lượng lao động nông dân là chủ yếu. Do vậy, mục tiêu quan trọng hàng đầu của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là lo cho nhân dân cơm no áo ấm, từng bước nâng cao đời sống
cho nhân dân lao động, nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta
thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác xã (HCM: toàn
tập, NXB chính trị quốc gia, HN, 1996, tập 10, trang 210)
Trong lịch sử phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều nước, sự phát triển của kinh tế hợp
tác xã đã minh chứng một chân lý là: Kinh tế tập thể nói chung và hợp tác xã nói riêng không
phải là khu vực chính để tạo ra nhiều lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế mà là khu vực có vai
trò, vị trí quan trọng trong giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho đông đảo người lao
động, nhất là ở các nước đang phát triển, tạo sự ổn định về chính trị xã hội, góp phần thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, ở nhiều nước Chính phủ rất quan tâm và
có chính sách ưu đãi, nâng đỡ khu vực kinh tế tập thể, coi sự phát triển của kinh tế tập thể nói
chung và HTX nói riêng là một tất yếu khách quan
2.1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển HTX
Ở nước ta, phát triển kinh tế tập thể và HTX là nhu cầu thực tế khách quan, đáp ứng
của đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; là tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, xét cả về
mặt lý luận lẫn thực tiễn; phát triển HTX xuất phát từ chính nhu cầu phát triển của kinh tế hộ,
là chỗ dựa vững chắc cho kinh tế hộ, người lao động riêng lẻ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt .
Đảng ta đã khẳng định qua nhiều kỳ đại hội phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN và Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: “Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp
luật điều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Điều này có nghĩa là trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tập thể mà nòng cốt
là HTX, trong đó có HTX.NN cùng với kinh tế nhà nước giữ vị trí là nền tảng của nền kinh tế
quốc dân định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời HTX.NN còn là nòng cốt trong hệ thống
các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, thực hiện vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế xã hội ở nông thôn.
2.1.1.3. Vai trò của nhà nước đối với sự ra đời của HTX
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, muốn cho nông nghiệp phát triển ổn định,
bền vững, nhà nước phải thực hiện vai trò can thiệp của mình vào nền nông nghiệp, trong đó,
nỗi bật hơn cả là vai trò của nhà nước đối với sự ra đời và hoạt động của HTX.NN
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
Ở thế giới
- Để cho HTX ra đời và hoạt động, nhà nước thường thực hiện những vấn đề chủ
yếu như:
+ Ban hành, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống luật kinh tế, nhất là luật HTX
và các văn bản dưới luật. Ở Canada, luật HTX cũ ban hành năm 1970 và luật HTX ban hành
năm 1999. Ở CHLB Đức, luật HTX ban hành năm 1889 và được sữa đổi bổ sung năm 1934.
Ở Hàn Quốc, luật HTX.NN ban hành năm 1961 đến nay có 15 lần sửa đổi bổ sung. Ở
Malaysia, pháp lệnh HTX được ban hành năm 1922 và luật HTX được ban hành năm 1990. Ở
Nhật Bản, luật HTX ban hành năm 1960 và luật HTX mới ban hành 1990. Còn ở Thái Lan,
HTX được thành lập năm 1915 và luật HTX được ban hành năm 1968…
+ Thành lập một tổ chức trực thuộc Chính phủ chuyên lo xây dựng và phát triển
HTX trong nước. Những tổ chức như vậy, ở Hàn Quốc có liên đoàn quốc gia HTX.NN được
thành lập năm 1961. Ở Brunây có vụ phát triển HTX được thành lập năm 1974 có trách nhiệm
giám sát hoạt động các tổ chức HTX trong cả nước và giúp các HTX nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Ở Thái Lan có Bộ nông nghiệp và liên minh HTX. Ở Philippin có liên minh HTX
quốc gia. Ở Ấn Độ có công ty quốc gia phát triển HTX, những tổ chức này đảm nhiệm điều
phối các dự án đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến nông, chuyển giao khoa học
công nghệ và tiêu thụ sản phẩm trong các HTX.NN.
+ Đầu tư ngân sách xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là giao thông vận tải,
thông tin, điện, thủy lợi phục vụ sản xuất kinh doanh cho HTX.
+ Đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khuyến nông, cán bộ kỹ thuật cho các HTX.NN.
+ Ban hành các chính sách bảo hiểm nông nghiệp, ưu đãi về tín dụng, hỗ trợ giá
nông sản và chính sách thuế đối với HTX. Ở Philippin chính phủ miễn các loại thuế và lệ phí
cho HTX trong vòng 05 năm. Còn ở Hàn quốc, các HTX.NN được miễn thuế VAT và thuế
chi phí hướng dẫn tư vấn các dịch vụ sản xuất kinh doanh của HTX và trong tiêu thụ nông sản
các HTX được phân loại theo mô hình tập đoàn doanh nghiệp chỉ nộp thuế10%, trong khi các
doanh nghiệp tư nhân nộp thuế từ 18% - 32%.
+ Từng bước xây dựng mối liên kết các hoạt động chuyển giao khoa học công
nghệ, sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản giữa các HTX.NN với các nhà khoa học và
doanh nghiệp lưu thông nông sản, thúc đẩy HTX.NN phát triển và thu hút nhiều xã viên. Điển
hình ở Thái Lan năm 2001 có 3.370 HTX.NN với 4.789.493 xã viên.
Ở Việt Nam
Từ khi HTX ở Việt Nam hình thành và phát triển cho đến nay, Nhà nước Việt
Nam đã có rất nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo và khuyến khích phát triển kinh tế HTX.
- Chính sách đối với hợp tác xã trước khi có luật HTX
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, việc tổ chức nông
dân vào HTX.NN là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp tập thể
hóa, làm công cụ cho việc chỉ huy thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội.
Chính sách phát triển HTX.NN trong thời kỳ này là: tập thể hóa triệt để về ruộng
đất và các tư liệu sản xuất cơ bản khác; tổ chức lao động tập thể và thống nhất phân phối thu
nhập trong HTX. Mọi kế hoạch trong HTX đều phải tuân theo kế hoạch từ cấp trên đưa
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
xuống. HTX được coi là một tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của nhà nước. Trong giai đoạn
này do các chính sách không phù hợp nên nền nông nghiệp của nước ta đã trì trệ kéo dài dẫn
đến khủng hoảng kinh tế trong nước.
Từ năm 1981 đến năm 1988, nước ta bắt đầu thi hành một số chính sách mới, đặc
biệt là chính sách khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, đã bước đầu giải
phóng một phần lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn. Nhưng đó chỉ là giải
pháp tình thế; Nhìn chung, mô hình HTX.NN và nhiều chính sách của Nhà nước chưa được
sửa đổi cơ bản.
Từ năm 1988, chúng ta đã thực hiện đường lối đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế
từ kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.
Hàng loạt các chính sách mới trong nông nghiệp đã ban hành: NQ 10/NQ-TW, ngày
05/04/1988 của Bộ chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, NQ 16, ngày
15/7/1988 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, và nhiều
chính sách phát huy các thành phần kinh tế, chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm phát huy môi
trường pháp lý trong nông nghiệp như: Chính sách đất đai, thuế, cho hộ sản xuất vay vốn để
phát triển sản xuất, khuyến nông, khuyến khích làm giàu và “Xóa đói, giảm nghèo”,…Mặc dù
hệ thống các chính sách trên tuy chưa hoàn chỉnh, song đó là nhân tố chủ yếu tạo ra động lực
để nông nghiệp tăng trưởng, phát triển trong một thời gian dài.
- Để tạo khuôn khỗ pháp lý cho các HTX đổi mới hoạt động, tháng 3/1996 Quốc
hội đã thông qua luật HTX và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997 và luật HTX sửa đổi năm 2003
với nội dung chính như sau:
Định nghĩa HTX.NN
Định nghĩa HTX theo luật HTX của Việt Nam năm 1996: “Hợp tác xã là
tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng
góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và
của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
Định nghĩa Luật HTX sửa đổi năm 2003: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế
tập thể, do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên), có nhu cầu lợi ích
chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức
mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả
các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần
phát triển kinh tế xã hội của đất nước”
HTX nông nghiệp được tổ chức dựa trên sở hữu đóng góp cổ phần của các
thành viên và sở hữu tập thể kết hợp với sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân
phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các xã viên bao gồm thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn
và người có nhiều vốn, cùng góp vốn, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ, mỗi xã viên đều có quyền như nhau đối với
công việc chung.
HTX nông nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của kinh tế tập thể
trong nông nghiệp. Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế của những người lao động sản
xuất nhỏ, bao gồm nông dân, thợ thủ công, người buôn bán và làm dịch vụ nhỏ, cùng làm
ăn tập thể.
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
Các nguyên tắc hoạt động của HTX nông nghiệp
Nguyên tắc 1: Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX.NN
Theo nguyên tắc này, tất cả nông dân và những người lao động từ 18 tuổi trở
lên có hành vi dân sự đầy đủ, có góp vốn, góp sức, tán thành điều lệ HTX nông nghiệp
điều có thể trở thành xã viên HTX nông nghiệp. Xã viên có quyền ra khỏi HTX theo
qui định của điều lệ từng HTX nông nghiệp
Nguyên tắc 2: Dân chủ, bình đẳng và công khai trong quản lý HTX
Theo nguyên tắc này, mọi xã viên HTX nông nghiệp điều có quyền tham gia
quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có quyền ngang nhau và có một
phiếu khi biểu quyết để giải quyết công việc của HTX mà không phụ thuộc vào số vốn
hoặc công sức của họ đã góp vào HTX.
Nguyên tắc 3: tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi
Theo nguyên tắc này, HTX tự chịu trách nhiệm về lựa chọn phương án sản
xuất, kinh doanh, làm dịch vụ và địa bàn hoạt; Tự chiụ trách nhiệm về kết quả và hiệu
quả của các phương án đó theo tinh thần “Lời ăn, lỗ chịu”. Tự chịu trách nhiệm về các
khoản nợ trong phạm vi vốn góp của xã viên và vốn điều lệ của các HTX. Tự quyết
định về phân phối thu nhập, kết hợp hài hòa giữa các lơi ích: xã viên, HTX, nghĩa vụ
đối với nhà nước, góp phần xây dựng cộng đồng dân cư, bảo đảm HTX và xã viên cùng
có lợi.
Nguyên tắc 4: Hợp tác và phát triển cộng đồng
Vận dụng nguyên tắc này, HTX phải bù đắp các khoản lỗ năm trước (nếu có),
sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, số còn lại một phần trích lập các quỹ của
HTX, phần còn lại chia cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp, theo mức độ sử
dụng dịch vụ của HTX và do đại hội xã viên quyết định theo nguyên tắc biểu quyết đa
số.
Nguyên tắc 5: Hợp tác và phát triển cộng đồng
Thực hiện nguyên tắc này, các xã viên phải phát huy và nâng cao ý thức hợp
tác trong các HTX và trong cộng đồng xã hội, hợp tác giữa các HTX với nhau trong
nước và ngoài nước theo qui định của pháp luật. Trên cơ sở kinh doanh có hiệu quả,
HTX góp phần xây dựng các công trình công cộng, công trính phúc lợi, góp phần xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn và góp phần thực hiện các chính sách xã hội khác trong
cộng đồng dân cư.
Sau khi có luật Hợp tác xã, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách đối với các
HTX: Nghị định của chính phủ số 15-CP ngày 21/2/1997: về chính sách khuyến khích phát
triển HTX, gồm những chính sách: chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách tín dụng,
đầu tư, chính sách đào tạo, thông tin khoa học-công nghệ, chính sách xuất, nhập khẩu và liên
doanh, liên kết kinh tế, chính sách bảo hiểm xã hội; NĐ số 43 CP ngày 29/4/1997 ban hành
Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp; Thông tư số 44/1999/TT-BTC ngày 26/4/1999 của bộ tài
chính hướng dẫn về ưu đãi đối với hợp tác xã,…Đến năm 2002, sau gần 5 năm thực hiện luật
HTX, mặc dù kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX đã đạt được nhiều thành quả, đóng góp
quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Vì vậy, để tiếp tục đưa kinh tế tập thể phát triển ngày 18/3/2002
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
Ban chấp hành TW khóa IX đã ra Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Sau khi luật HTX được sửa đổi năm 2003, hàng loạt các
chính sách hỗ trợ phát triển HTX khác được ban hành: NĐ số 177/2004/NĐ-CP ngày
12/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật hợp tác xã năm
2003; NĐ số 77/2005/NĐ-CP ngày 09/6/2005 của Chính phủ về việc ban hành mẫu hướng
dẫn xây dựng Điều lệ hợp tác xã; Chỉ thị số 24/2005/CT-TTg ngày 28/6/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung Ương 5 (Khóa IX) về đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 87/2005/NĐ-CP
ngày 11/7/2005 của Chính phủ hướng dẫn về đăng ký kinh doanh hợp tác xã; Nghị định số
88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích
phát triển hợp tác xã; Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15/7/2005 về giải quyết quyền lợi
của người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản; Mới đây nhất là Thông tư số
02/2006/TT-BKH ngày 13/02/2006 của Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn thực hiện một số
điều tại Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về một số
chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX.
Ở An Giang: ngoài việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước. Tỉnh ủy, UBND tỉnh còn ban hành nhiều chủ trương, chính sách riêng
nhằm đẩy mạnh kinh tế hợp tác: chương trình hành hành động số 02/CTr-TU
ngày 27/7/1996 thực hiện Chỉ thị 68 của Bí thư, ngày 01/7/1998 UBND tỉnh An
Giang lại ra chỉ thị về tập trung phát triển HTX gắn với công tác xóa đói giảm
nghèo; Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 02/8/2002 của Tỉnh ủy An Giang về tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Chỉ thị số 35/200//CT-
UB ngày 25/12/2003 của UBND Tỉnh An Giang về việc đẩy mạnh xây dựng các
hợp tác xã và trang trại nông lâm ngư nghiệp và thủy sản.
2.1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1.2.1. Tình hình phát triển mô hình kinh tế hợp tác ở các nước trên thế giới
Đại hội liên minh hợp tác xã Quốc Tế lần thứ 31 họp tại Manchester (Anh) ngày 19-
23/09/1995 định nghĩa: “Hợp tác xã là những hiệp hội tự chủ của những người tự nguyện liên
kết lại với nhau để đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu chung của họ về văn hóa, xã hội, kinh tế
thông qua một tổ chức do chính các thành viên cùng làm chủ và kiểm tra theo nguyên tắc dân
chủ”
Còn theo tổ chức lao động Quốc Tế - ILO định nghĩa: “HTX là sự liên kết của
những người gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết lại trên cơ
sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX
phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự
chủ, tự chịu trách nhiệm và cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp
tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”.
HTX là doanh nghiệp tập thể phỗ biến trên thế giới, một hình thức tổ chức của kinh
tế tập thể, được thành lập tổ chức hoạt động theo qui định của pháp luật, nhằm tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, trên tinh thần hợp tác, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
Ngày nay, phần lớn các nước trên thế giới đều ban hành luật HTX để điều chỉnh loại
hình doanh nghiệp tập thể này trong đó đều định nghĩa một cách cụ thể về HTX. Chẳng hạn,
luật HTX Liên Ban Nga năm 1996 địng nghĩa: “HTX là sự liên kết tự nguyện của các công
dân trên cơ sở tư cách thành viên để hợp tác sản xuất và các hoạt động kinh tế khác, dựa trên
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
sức lao động của họ và những đóng góp phần vốn tài sản. Sự tham gia vào hoạt động của
HTX của các pháp nhân có thể được xem xét bởi điều lệ thành lập HTX. HTX có tư cách
pháp nhân là một tổ chức kinh doanh”.
HTX nói chung, HTX.NN nói riêng đã ra đời và phát triển ở nhiều quốc gia Tây Âu,
Bắc Mỹ và từng bước phát triển sang các quốc gia Châu Á. Chúng ta biết, vào cuối thế kỷ
XIX, kinh tế thị trường TBCN đang bắt đầu phát triển ở một số nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Quá
trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra ồ ạt, nông dân bị tước đoạt ruộng đất và bị vô sản
hóa trở thành giai cấp công nhân làm thuê. Những người sản xuất nhỏ bị dồn ép bởi sự cạnh
tranh “Cá lớn nuốt cá bé” của các tầng lớp tư bản. Nông dân và những người lao động nhận
ra ưu thế của mình là nếu như họ hợp tác với nhau thông qua việc lập ra các HTX ở các lĩnh
vực khác nhau.
Các loại hình HTX xuất hiện đầu tiên trên thế giới năm 1844 là HTX tiêu dùng ở
Anh, năm 1849 là HTX tín dụng ở Đức, năm 1887 là HTX cung ứng vật tư nông nghiệp ở Hà
Lan và sau đó xuất hiện các loại hình HTX chế biến và HTX tiêu thụ nông sản ở nhiều nước.
Ở Pháp, các HTX tiêu thụ đã bán 75% khối lượng thị trường ngũ cốc trong nước và
xuất khẩu. Ở Mỹ 3620 HTX tiêu thụ đã chiếm 90% thị trường quả có múi, 70% sữa, 40% ngũ
cốc và 7500 HTX thủy nông đã cung cấp nước cho 25% diện tích ruộng nước có tưới, 1275
HTX cải tiến giống bò sữa, 600 HTX sử dụng chung đồng cỏ và dịch vụ nông thôn, 900 HTX
khí hóa nông thôn, với 5,7 triệu xã viên. Còn ở Hà Lan, HTX chế biến tiêu thụ nông sản đã
chiếm lĩnh 87% thị trường sữa, 94% thị trường bơ và 94% thị trường hoa của nước này.
Ở Châu Á, đầu thế kỷ XX, HTX ra đời và phát triển ở nhiều nước. Ở Nhật Bản, các
HTX.NN đã cung cấp cho nông dân xã viên 89% phân hóa học, 75% thuốc trừ sâu, 54% thức
ăn gia súc, 44% máy nông nghiệp và tiêu thụ 95% thị trường lúa gạo, 25% thị trường rau,
16% thị trường thịt của Nhật. Còn ở Ấn Độ, các HTX chế biến tiêu thụ đã đảm nhận việc chế
biến và tiêu thụ hàng năm với khối lượng 35 triệu tấn sữa của 6 triệu hộ nông dân nuôi trâu,
bò sữa của nước này.
Ở các nước Liên Xô (cũ), Đông Âu, Trung Quốc, HTX.NN ra đời và phát triển
mạnh từ những thập niên đầu thế kỷ XX. Ở Liên Xô (cũ), từ sau Cách Mạng Tháng Mười
năm 1917 đến năm 1928, có 65.000 HTX cung tiêu với 37,5% hộ nông dân tham gia và
33.400 HTX dich vụ kỹ thuật dùng chung máy nông nghiệp do nông dân tự nguyện tổ chức
ra. Còn ở các nước Đông Âu trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai, đều có mạng lưới
HTX.NN. Năm 1944, ở Bungary có 4114 HTX, trong đó có 3156 HTX nông thôn với 1,6
triệu xã viên hoạt động ở các lĩnh vực như tín dụng, cung tiêu hoa hồng, rượu nho, thuốc lá,
củ cải đường, dâu tằm, thủy lợi, vận chuyển. Ở Trung Quốc, từ năm 1949 – 1957 đã tổ chức
được 740.000 HTX.NN theo mô hình tập thể hóa, tập hợp gần 120 triệu hộ nông dân vào làm
ăn tập thể. Năm 1992 ở Trung Quốc có 60.000 HTX tín dụng nông thôn, tổng doanh số mạng
lưới HTX tín dụng là 119 tỷ nhân dân tệ, đáp ứng khoảng 60 – 70% nhu cầu tín dụng cho các
hộ nông dân.
Tuy nhiên, ở Liên Xô (cũ) và một số nước XHCN, các mô hình HTX tập thể hóa
hình thành trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung phụ thuộc vào nhà nước, khác với bản
chất HTX của nền kinh tế thị trường, đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã lâm vào khủng
hoảng và tan rã hàng loạt nhường chỗ cho HTX kiểu mới ra đời phù hợp cơ chế thị trường và
nguyện vọng của các nông, ngư dân.
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
2.1.2.2. Tình hình phát triển mô hình kinh tế hợp tác ở Việt Nam
Ở Việt Nam, HTX chủ yếu là HTX.NN được bắt đầu xây dụng từ tháng 8/1955, tức
sau khi Nghị quyết TW lần thứ 14 (khóa II) ra đời, Nghị quyết này chủ trương xây dựng thí
điểm các HTX từ năm 1955 đến nay, phong trào HTX ở Việt Nam có thể chia ra làm 02 giai
đoạn chính:
- Giai đoạn 1: Từ năm 1955 đến năm 1986
Ở giai đoạn này, nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế tập thể, mà nòng cốt
là HTX, Nghị quyết TW lần thứ 14 (khóa II) tháng 11/1958 Đảng ta xác định: Phong trào
HTX ở nước ta mới xây dựng; vì vậy, phải đi từ thấp đến cao, từ tổ vần công, đổi công đến
HTX bậc thấp, rồi HTX bậc cao. Quan điểm này thể hiện rõ trong tư tưởng của Bác Hồ về
hợp tác hóa nông nghiệp và được đăng tải ở nhiều tác phẩm trong Hồ Chí Minh toàn tập.
Trong hai thập kỷ 60 – 70 của thế kỷ XX, phong trào xây dựng HTX ở miền Bắc
nước ta trở nên rầm rộ, đã đóp góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc và
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giải phóng ở miền Nam. Từ sau năm 1975, đất nước thống
nhất, ở miền Nam bắt tay vào xây dựng HTX. Trong thời kỳ này do QHSX không phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nên mô hình HTX chưa phát huy tác dụng,
thậm chí làm cho sản xuất nông nghiệp chậm phát triển.
- Giai đoạn 2: Từ năm 1986 đến nay
Sau khi có nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ VI (1986) về việc đề ra đường lối phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN; Nghị quyết 10/NQ- TW, ngày 05/04/1988 của Bộ Chính Trị về đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp; Nghị quyết 16, ngày 15/07/1988 của Bộ Chính Trị về đổi
mới quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Hiến pháp năm 1992; Bộ Luật dân sự năm
1995; luật HTX năm 1996; các điều lệ mẫu của các loại hình HTX năm 1997 và luật HTX sửa
đổi năm 2003.
Đặc biệt từ khi luật HTX ban hành năm 1996 và có hiệu lực thi hành 01/01/1997,
phong trào HTX ở Việt Nam mới thực sự có thay đổi về chất mà người ta thường gọi là HTX
kiểu mới. Thực tế, trong những năm qua cho thấy tổ hợp tác phát triển mạnh trong lĩnh vực
dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và tín dụng nhỏ. Tuy mức độ liên kết còn chưa chặt chẽ, chỉ
mang tính thời vụ, song tổ hợp tác đã góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy kinh tế hộ phát
triển. Cơ cấu ngành nghề trong số HTX thành lập mới có xu hướng tăng về lĩnh vực phi nông
nghiệp - chiếm 68,2% tổng số HTX được thành lập mới. Các HTX dịch vụ nông nghiệp có
chiều hướng phát triển đa ngành nghề, kinh doanh tổng hợp nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu
cầu xã viên. Xu thế hợp tác, liên kết giữa các HTX với cơ quan nghiên cứu khoa học, các
thành phần kinh tế khác tiếp tục được mở rộng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX
đã có nhiều chuyển biến đáng kể, phát triển và dần đi vào ổn định. ở nhiều nơi HTX đóng vai
trò đầu mối trong việc tham gia các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước, góp phần
không nhỏ vào việc xoá đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, đặc biệt là ở khu vực vùng sâu
vùng xa. Kết quả cụ thể như sau:
• Tổ hợp tác
Trong những năm qua, tổ hợp tác tiếp tục phát triển hầu khắp trên cả vùng miền cả
nước. Năm 2004, cả nước có trên 100.000 tổ hợp tác, tăng gần 10.000 tổ so với năm 2002
(tăng bình quân 5%/năm). Từ nhu cầu phát triển kinh tế hộ và điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi
địa bàn nên tổ hợp tác được thành lập với hình thức tổ chức, quy mô và nội dung hoạt động
rất đa dạng và phong phú. Hoạt động của tổ hợp tác chủ yếu là giúp đỡ, tương trợ nhau trong
SVTH: Võ Thanh Phú
Thực trạng và giải pháp phát triển GVHD: Vũ Quang Cảnh
các HTX.NN Huyện Chợ Mới đến năm 2010
sản xuất và đời sống như: trao đổi kinh nghiệm sản xuất, hỗ trợ nhau về bơm nước, làm đất,
giống mới, cung cấp thông tin và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kinh mương, bờ bao chống lũ,
cải tạo đất ruộng…Nét nổi bật của tổ hợp tác những năm qua là:
+ Tổ chức quản lý của hợp tác xã từng bước được hoàn thiện và chặt chẽ hơn .
+ Nội dung hoạt động được mở rộng hơn, bám sát các chương trình chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị thu được trên đơn vị diện tích tăng thu nhập cho
thành viên.
+ Tổ hợp tác đã khắc phục được một số mặt yếu kém của kinh tế hộ, và đáp ứng nhu
cầu về vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất; tăng sức mạnh cạnh tranh thị trường,
hạn chế thao túng và chèn ép của tư thương, tăng thêm vị thế của kinh tế hộ của nông dân,
phát huy tinh thần tương trợ, giúp đỡ nhau trong sản xuất, đời sống , góp phần xoá đói giảm
nghèo; đồng thời còn là cầu nối giữa cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội
ở địa phương với nông dân trong công tác tuyên truyền , phổ biến các chủ trương chính sách
của Đảng và nhà nước .
• Hợp tác xã
+ Các HTX cũ cơ bản đã chuyển đổi xong, giải thể HTX hình thức; HTX mới thành
lập ngày một tăng, dần đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ nông sản của xã viên, hộ nông
dân.
Đến 31/3/2005 cả nước có 8.595 HTX nông nghiệp (chiếm khoảng 50% tổng số
HTX). Trong đó có 6.115 HTX cũ chuyển đổi (71,2%), 2.196 HTX thành lập mới(25,5%) và
còn 284 HTX chưa chuyển đổi(3,3%). Năm 2003 và 2004 đã có trên 800 HTX giải thể. Ba
năm qua, đã thành lập mới 524 HTX. Số HTX thành lập mới, ngoài việc cung cấp một số dịch
vụ cung cấp cho xã viên, phần lớn được tổ chức và hoạt động nhằm tiêu thụ nông sản hiện
đang là nhu cầu bức xúc của xã viên.
+ Xã viên HTX nông nghiệp không chỉ bao gồm hộ nông dân, mà còn có các chủ
trang trại, tư thương, đặc biệt là các thành phần kinh tế khác tham gia vào HTX.
Ngoài xã viên là hộ nông dân được tổ chức theo đơn vị hành chính trên địa bàn, đã
có một số HTX có cả xã viên ở các nơi khác tham gia; xã viên không chỉ là những hộ nông
dân sản xuất qui mô nhỏ, mà gồm cả chủ trang trại, nhà khoa học, tư thương, doanh nghiệp.
+ Hoạt động của HTX từ phổ biến là dịch vụ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp đã mở
rộng sang dịch vụ tổng hợp, phát triển ngành nghề, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu đa
dạng của xã viên.
Năm 2002, số HTX làm dịch vụ kỹ thuật sản xuất chiếm tới trên 80%, năm 2005 đã
giảm còn 70% tổng số HTX nông nghiệp. Số HTX làm dịch vụ tổng hợp (kỹ thuật sản xuất,
chế biến, tiêu thụ sản phẩm) đã chiếm 25% và số HTX phát triển ngành nghề (dịch vụ tổng
hợp cho xã viên và trực tiếp tổ chức ngành nghề) chiếm khoảng 5%.
+ Kết quả hoạt động của HTX đã khắc phục cơ bản tình trạng thua lỗ kéo đài trước
đây, một số HTX đạt mức lãi cao, có tích lũy để đầu tư phát triển.
Cùng với việc mở rộng hoạt động dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tổng hợp, phát triển
ngành nghề, các HTX trên cơ sở hoạch toán, đã rà soát lại các định mức kinh tế - kỹ thuật,
củng cố tổ chức, quản lý chặt chẽ hơn, nên hạn chế kết quả bị thua lỗ. Số HTX có lãi ngày
càng tăng. Năm 2004, có 3.015 HTX hoạt động có lãi chiếm tỷ lệ 70% tổng số HTX có báo
SVTH: Võ Thanh Phú