Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

triển vọng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu da giầy việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.46 KB, 34 trang )

Lời nói đầu
Mặt hàng giày dép là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nớc ta trong giai
đoạn 2001 - 2010. Ngành đã có đóng góp to lớn trong kim ngạch xuất khẩu,
hiện đứng thứ ba sau dầu thô và dệt may, có triển vọng rất tolớn và sẽ phát
triển rất mạhh tự hoàn thiện thành một ngành công nghiệp sản xuất giày thực
thụ. Vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là làm thế nào Việt Nam có thể tự sản
xuất giày mà không lệ thuộc vào phía nớc ngoài từ nguyên - phụ liệu mẫu mã
cho đến đầu ra của sản phẩm. Vì vậy việc tìm ra giải pháp hữu hiệu để thúc
đẩy xuất khẩu da giày là rất quan trọng.
Chơng I
Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
I. Khái niệm và vai trò xuất khẩu trong nền kinh tế
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và hoạt động kinh doanh để đem
lại lợi nhuận lớn, là phơng tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu
để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhà nớc ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hớng theo xuất
khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết
công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế.
a) Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nớc đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật, vật t và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể đợc hình thành từ các nguồn nh :
- Liên doanh đầu t nớc ngoài với nớc ta.
- Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ.
- Xuất khẩu sức lao động
Trong các nguồn vốn nh đầu t nớc ngoài, vay nợ và viện trợ cũng phải
trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là
từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.


Thời kỳ 1986- 1990 nguồn thu của nớc ta về xuất khẩu chiếm 3/4 tổng
nguồn thu ngoại tệ, năm 1994 thu xuất khẩu đã đảm bảo đợc 80% nhập khẩu
so với 24,6% năm 1986. Với xu hớng này các năm sau kim ngạch xuất khẩu
đều tăng lên so với các năm trớc đó.
b) Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế h-
ớng ngoại.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành
quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong qúa trình công nghiệp hoá ở nớc ta là phù hợp với xu hớng phát
triển của kinh tế thế giới.
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
có thể đợc nhìn nhận theo các hớng sau :
+ Xuất khẩu những sản phẩm của nớc ta cho nớc ngoài.
+ Xuất phát từ nhu cầu của thị trờng thế giới để tổ chức sản xuất và xuất
khẩu những sản phẩm mà các nớc khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển
thuận lợi. Ví dụ, khi phát triển dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển
ngành sản xuất nguyên liệu nh bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công
nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, (dầu thực vật, chè ) kéo theo sự phát
triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ, cung cấp đầu vào
cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nớc.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thờng
xuyên năng lực sản xuất trong nớc. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo
thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam
nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nớc ta.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trờng thế giới về giá cả, chất lợng. Cuộc cạnh tranh này đòi
hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu với thị trờng.

+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lợng sản phẩm, hạ
giá thành.
c) Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của
nhân dân.
Trớc hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của
nhân dân.
d) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nớc ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại và làm cho nền kinh tế nớc
ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thờng hoạt động xuất khẩu
ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên có thúc đẩy các quan hệ
này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các
quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc
đẩy quan hệ tín dụng, đầu t, vận tải Quốc tế Đến l ợt nó chính các quan hệ
kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu đợc coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc để
phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
II. Quy trình xuất khẩu.
Trớc khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá chủ hàng phải chuẩn bị bộ hồ sơ
gồm :
Hợp đồng ngoại thơng (1bản sao), Packing list (3 bản chính), tờ khai hải
quan (3 bản chính), hợp đồng ủy thác, giấy phép (nếu có). Quy trình thông
quan xuất khẩu gồm các bớc sau :
Bớc 1 : Chủ hàng phải tiến hành đăng ký tờ khai hải quan. Công thức 1 sẽ
tiến hành kiểm tra bộ hồ sơ của chủ hàng, kiểm tra khai báo của chủ hàng và
cho đăng ký tờ khai đồng thời tiến hành nhập dữ liệu.
Bớc 2 : Bớc này do lãnh đạo chi cục đảm nhiệm, có quyền quyết định
hình thức và tỉ lệ kiểm tra, giải quyết những vớng mắc phát sinh và xác nhận

thông quan.
Bớc 3 : Đây là bớc kiểm hoá và tính thuế do công chức 2 đảm nhiệm. Họ
sẽ tiến hành kiểm tra thực tế lô hàng, kiểm tra tính thuế của chủ hàng. Trên cơ
sở tính thuế của chủ hàng, ra thông báo thu thuế hoặc biên lai thuế.
Bớc 4 : Sau khi thu thuế và lệ phí hải quan và tiến hành hoạt động kế toán
thuế và phúc tập hồ sơ, chủ hàng sẽ nhận đợc hàng.
Tuy nhiên, đối vói hàng đợc miễn kiểm tra và không thuế thì không phai
qua bớc 3.
Khi nộp thuế, thời điểm nộp đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày kể từ
ngày doanh nghiệp nhận đợc thông báo thuế, ở đây là 15 ngày theo lịch.
Nhà nớc cũng quy định rõ những hàng hoá của doanh nghiệp đợc hởng
chế độ miễn kiểm tra thực tế hoặc miễn kiểm tra toàn bộ lô hàng ; kiểm tra với
tỷ lệ hoặc xác suất không quá 10% ; kiểm tra toàn bộ lô hàng (100% lô hàng).
Việc xác định hình thức và tỷ lệ kiểm tra căn cứ vào số lần vi phạm, mức độ
xử phạt hành chính và số nợ thuế.
III. vài nét về đặc điểm và vai trò của ngành da giày trên thị trờng
thế giới và thị trờng Việt Nam.
Ngành công nghiệp giày dép của nhiều nớc, nhất là các nớc đang phát
triển, có vị trí rất quan trọng trong giai đoạn đầu của qúa trình phát triển kinh
tế đất nớc, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào qúa trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với Việt
Nam, ngành công nghiệp giày dép cũng có tầm quan trọng nh vậy. Phát triển
ngành giầy dép Việt Nam là phù hợp với xu hớng chuyển dịch cơ cấu đầu t và
cơ cấu kinh tế của thế giới. Xu hớng chung là những nớc công nghiệp và nhiều
nớc đang phát triển sẽ tập trung vào việc phát triển các ngành kỹ thuật cao, sử
dụng ít lao động, loại bỏ dần những ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lợng
khoa học kỹ thuật thấp nh sản xuất giày dép, may mặc.
Các sản phẩm giày và đồ da luôn chiếm vị trí đợc quan tâm trong đời
sống của mỗi con ngời vì chúng là một bộ phận của cái mặc, là biểu tợng của
trình độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội. Ngày nay, thông qua tiêu dùng xã

hội chúng còn tợng trng cho nền kinh tế thịnh vợng hay sa sút của một quốc
gia, là tiếng nói bản sắc của cộng đồng sử dụng.
Da giày là một trong những ngành đóng góp chủ yếu vào sự tăng trởng
GDP cũng nh tăng thu nhập chung của đất nớc ở thời kỳ trớc 2020. Công
nghiệp da giày phát triển sẽ có nguồn thu ngoại tệ sánh đợc với các mặt hàng
coi nh đầu vị trong xuất khẩu của nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng.
Những năm của thập niên 90, thế kỷ 20 mặt hàng da giày đợc xếp vào hạng
thứ ba về giá trị xuất khẩu sau các mặt hàng gạo, dầu khí nhng đến năm 1999
lại đợc nâng lên hạng hai chỉ sau mặt hàng gạo và hiện nay đứng ở vị trí thứ
ba sau dầu thô và dệt may. Năm 2001, Bộ thơng mại thông báo tất cả các mặt
hàng có thuế nhập khẩu xấp xỉ 20% sẽ đợc giảm xuống theo Hiệp định chung
về thuế quan u đãi đã đợc ký kết. Nh vậy thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm 20%
hoặc ít hơn khi Việt Nam tham gia hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) sau khi Chính phủ thông qua danh mục các mặt hàng cắt
giảm thuế giai đoạn 2001 -2006. Bộ tài chính đã đa ra lộ trình cắt giảm thuế
hàng giàydép có đế bằng cao su theo Hiệp định u đãi thuế quan
(CEPT/AFTA) nh sau: Năm 2001 : 50% ; 2002 : 40% ; 2003 : 35% ; 2004 :
30% ; 2005 : 20% ; 2006 : 5%. Với việc ký kết Hiệp định thơng mại Việt -
Mỹ đợc hởng quy chế tối huệ quốc (MFN) của Mỹ, trong thời gian tới xuất
khẩu hàng giày dép vào thị trờng Mỹ sẽ tăng trởng rất nhanh.
Tuy nhiên theo nhận xét của các chuyên gia trong ngành, năm 2000 tình
hình sản xuất kinh doanh da giày trên thế giới đang gặp khó khăn. Nền kinh tế
Mỹ, Nhật EU suy giảm, lợng cầu hạ thấp, tiền tệ của thị trờng chính (đồng
EU) mất giá, bệnh bò điên và lở mồm long móng gây khủng hoảng nguyên
liệu da làm giá đầu vào tăng Ngành da giày Việt Nam cũng là nạn nhân của
tình trạng này. Nhng đáng quan tâm nhất là việc Trung Quốc gia nhập WTO.
Lợi thế của ngành da giày Việt Nam là nhân công rẻ, dồi dào, đợc hởng nhiều
u đãi thuế quan từ những thị trờng lớn nhng với Trung Quốc với việc các rào
cản thơng mại đợc loại bỏ dần dần, nhân công của họ dồi dào hơn ta và có một
bề da dày lịch sử, công nghệ hiện đại cùng nhiều u đãi của Chính phủ Trung

Quốc về thuế giá điện, giá thuê đất dẫn đến sản phẩm của họ đến tay ng ời
tiêudùng thấp hơn ta nhiều.
Hiện nay có gần 75% trong tổng số hơn 11 tỷ đôi giày dép trên thế giới
do các nớc đang phát triển ở Châu á, Nam Mỹ sản xuất. Trong khi đó các n -
ớc phát triển và các nớc công nghiệp lại tiêu thụ gần 45% tổng sản lợng giày.
Điều này cho thấy, thế giới thứ 3 ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong sản
xuất giày dép. Họ đẩy các nớc công nghiệp xuống đến mức độ đáng lo ngại
với hai lý do chính : Thứ nhất, đối với các nớc đang phát triển sản xuất chủ
yếu hàng da nh ấn Độ, Nam Mỹ quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tận dụng
mọi nguồn tài nguyên mà không gây thiệt hại cho nớc họ. Thứ hai, mặt bằng
chi phí lao động đem lại cho họ lợi thế đến nỗi những công nghệ tinh vi nhất
sẵn có ở các nớc phát triển và công nghiệp mới (CNM) cũng không thể cứu
vãn nổi. Ngoài ra, các nớc đang phát triển còn có nhiều lợi thế khác bao gồm
chính sách trợ giá cùng các chính sách khuyến khích khác của quốc gia đã
dẫn đến một sân chơi cạnh tranh không thật công bằng. Tuy vậy, tình trạng
không đồng đều vẫn xảy ra nh : Nam Mỹ có nhiều da, da chất lợng cao mà
vẫn bị tụt sau ASEAN về sản xuất giày, trong 10 năm qua, sản lợng giày Nam
Mỹ chỉ tăng 15% mà ASEAN lại tăng gấp đôi. Nhiều chuyên gia nghĩ rằng
thế giới sắp trải qua sự suy giảm lớn về sản lợng giày. Có thể các nhà sản xuất
lớn trong liên đoàn giày thế giới ở ý, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
cũng sẽ phải nhờng vị trí cho các nhà sản xuất ở các khu vực khác đặc biệt là
ở ASEAN. Nền công nghiệp giày trên thế giới đợc chia làm 5 nhóm nớc. Các
nớc có định hớng xuất khẩu, các nớc nhập khẩu có định hớng, các nớc đợc tôn
vinh là chuyên gia về thiết kế và sản xuất thời trang có chất lợng cao, các n-
ớc lấy buôn bán là chính, các nớc đang cần tổ chức lại. Dự đoán rằng công
nghiệp giày ở nớc phát triển và công nghiệp mới lần lợt sẽ phát triển thành
một hoạt động dịch vụ và sẽ đợc tổ chức với sự phối hợp giữa các hoạt động
sản xuất, xuất khẩu và các dịch vụ khác. Khái quát nh sau : Sản xuất ở nội tại
các nớc phát triển và công nghiệp mới sẽ giảm tới mức tối thiểu (dới 20%
khoảng 2/3 sản lợng của họ đợc sản xuất tại các nhà máy đã chuyển ra ngoài

biên giới, khoảng 1/3 sản lợng giày là phải nhập khẩu hoàn toàn).
Các chuyên gia thuộc Liên đoàn giày Châu Âu cho rằng trong tơng lai
khó mà tìm ra bất cứ một sản phẩm nào đợc sản xuất toàn bộ trong cùng một
nớc. Triển vọng của thị trờng toàn cầu sẽ đợc mở rộng, bởi ngành vận tải đợc
cải thiện và chi phí bảo dỡng của ngành này sẽ giảm thấp. Tuy nhiên dự báo
trung hạn còn gặp nhiều yếu tố thờng hay thayđổi bất ngờ, khó lờng. Do đó,
cũng rất khó mà hình dung đợc trong tơng lai những nớc nào sẽ có chi phí
thấp để tiếp tục duy trì sản xuất và xuất khẩu giày mạnh. Chi phí lao động
chắc chắn có ý nghĩa lớn đối với sản xuất giày nhng cha hẳn đã là đủ điều
kiện để trở thành một giải pháp duy nhất trong sự suy xét để phát triển nghề
giày.
Chơng II
Tình hình kinh doanh xuất khẩu da giày của Việt Nam
I. Thực trạng và xuất khẩu da giày Việt Nam trớc 1990 và các
nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam
1.1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam trên thị trờng Đông Âu và
Liên Xô cũ.
Trớc 1990 ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng hợp
tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nớc XHCN Đông Âu, tiến hành các
hoạt động sản xuất găng tay cao su xuất khẩu cho thị trờng Đông Âu với đồng
vốn ít ỏi. Do yêu cầu của sự hợp tác và phân công lao động giữa các nớc
XHCN cũ, năm 1987, Liên hiệp các xí nghiệp da giày thuộc Bộ công nghiệp
nhẹ đợc thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là gia công mũ giày da, giày vải, găng
tay bảo hộ lao động và hàng mềm xuất khẩu theo các hiệp định kinh tế với
Liên Xô cũ và các nớc Đông Âu. Từ đó, ngành da giày Việt Nam đã thực sự
trở thành ngành kinh tế -kỹ thuật độc lập nhng cơ sở vật chất kỹ thuật còn
nghèo nàn, lạc hậu. Sản phẩm làm ra với mẫu mã đơn giản, chất lợng không
cao. Kim ngạch xuất khẩu năm 1987 đạt 33,27tr Rup/USD, năm 1990 đạt 125
tr Rup/USD. Toàn ngành có hơn 50 đơn vị gia công sản xuất da giày đợc hình

thành trên toàn quốc.
Khi Liên Xô và các nớc Đông Âu tan rã đã tác động sâu sắc đến ngành
da giày non trẻ và mới khởi sắc ở Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp đều
không có việc làm, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc giải thể, 2/3 trong
số 25000 lao động của ngành phải rời sản xuất và tự lo cuộc sống. Kim ngạch
xuất khẩu đang ở mức 125 tr.Rup/USD tụt xuống 30tr Rup/USD vào năm
1991 và 48tr Rup/USD vào năm 1992 (chủ yếu là giao nốt số hàng tồn đọng từ
năm 1990).
1.2. Thực trạng ngành da giày xuất khẩu.
Trong giai đoạn này ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp
đồng hợp tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nớc XHCN Đông Âu. Khi
khối này tan rã ngành da giày phải trải qua một thời kỳ đầy khó khăn do thiếu
đơn hàng (tuy nhiên giai đoạn này kéo dài không lâu). Trớc thực trạng ấy rất
nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên vẫn còn
một số doanh nghiệp biết cách tháo gỡ và khắc phục đợc khó khăn để vơn lên
trở thành một trong những gơng mặt sáng của công nghiệp thủ đô.
Ngành da giày Việt Nam chỉ tạo ra đợc trên 25000 chỗ làm việc cho ngời
lao động với trình độ kỹ thuật, tay nghề còn kém, hiệu quả làm việc cha cao.
Đồng thời bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu phụ liệu,
hoá chất, phụ tùng, máy móc từ nớc ngoài và nhất là từ chính đối tác đặt sản
xuất hoặc mua sản phẩm của ta, đây chính là nguyên nhân gây ra rất nhiều
hạn chế về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ảnh hởng đến
thế cạnh tranh của sản phẩm.
Tình trạng quá yếu kém về tài lực, vốn đầu t đều phải tự vay với lãi suất
cao, nhiều doanh nghiệp cha kịp thích ứng với sự thay đổi về chính sách của
Nhà nớc nên phần lớn các doanh nghiệp là thực hiện gia công cho nớc ngoài.
Ngoài yếu kém về vốn, do ngành mới phát triển nên cha có đủ uy tín và
điều kiện để trực tiếp xuất khẩu sản phẩm mà phải thông qua nhiều tầng nấc
trung gian mới đa đợc hàng tới nơi tiêu thụ ở nớc ngoài. Trình độ quản lý kỹ
thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt quản lý và vận hành sản xuất

kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh
tế kỹ thuật, cha có trờng lớp đào tạo. Phần lớn cán bộ cha thể tự mình chủ
động độc lập điều hành sản xuất và kỹ thuật một cách khoa học đồng bộ, đúng
tiến độ và có chất lợng.
2. Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
Vào đầu những năm 90 các doanh nghiệp da giày Việt Nam đều rơi vào
tình trạng khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ nhất, sự lạc hậu về nhà xởng, trang thiết bị, đặc biệt là việc bố trí
mặt bằng, trang bị kỹ thuật, máy móc bất hợp lý và lãng phí, vệ sinh công
nghiệp kém, môi trờng công nghiệp lạc hậu là đặc điểm phổ biến của các
doanh nghiệp ở các nớc đã từng hoạt động theo mô hình quản lý kế hoạch hoá
quan liêu bao cấp mà Việt Nam là một trong những điển hình. Đây thực sự là
một trở lực cho việc đa cái mới vào hoạt động quản lý.
Thứ hai là hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin và do vậy không
nhanh nhạy với thị trờng. Phần lớn các doanh nghiệp đều lúng túng trong việc
tổ chức hoạt động thông tin điều đó một phần quan trọng bắt nguônf từ mô
hình và cơ cấu tiêu dùng tổ chức doanh nghiệp cha có sự đổi mới cần thiết,
phần khác do sự hỗ trợ bên ngoài nh các cơ quan Nhà nớc cán bộ, sở quản lý
ngành chuyên ngành còn yếu.
Thứ ba là do phần lớn các doanh nghiệp có cán bộ dôi d lớn không mạnh
dạn đổi mới cơ cấu doanh nghiệp, còn theo mô hình tổ chức phòng ban cũ, do
vậy không tạo ra sự chuyển biến đồng bộ và tác phong mới trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và sự đồng bộ trong việc giải quyết vấn đề chất lợng.
Ngoài ra nhận thức về quản lý chất lợng sản phẩm còn nhiều điều cha rõ,
nhận thức về tác động của cơ chế thị trờng còn phiến diện nặng về tác động
tiêu cực, từ đó tìm cách đối phó bằng các biện pháp không cơ bản, nh móc nối
mua bán không trung thực, không thấy đợc yếu tố cơ bản của sự cạnh tranh là
uy tín, chất lợng sản phẩm, chất lợng dịch vụ.
Vấn đề sở hữu và quan hệ sở hữu trong khu vực Nhà nớc cha đợc giải
quyết triệt để cũng làm hạn chế sự vơn lên, sáng tạo, dám nghĩ dàm làm của

đội ngũ cán bộ quản lý. Bên cạnh đó cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô còn những
hạn chế, gò bó cha đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và sự chịu trách
nhiệm của các doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp của ta nằm trong các
quan hệ ràng buộc phức tạp và nhìn chung là cồng kềnh cán bộ công nhân
đông mà không mạnh, trình độ kiến thức tay nghề hiểu biết về cơ chế thị trờng
còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ năng lực tài chính yếu, khả năng đổi mới công nghệ hạn chế. Đại bộ phận
doanh nghiệp phụ trách một hoặc vài sản phẩm theo chu trình khép kín từ
khâu đầu đến sản phẩm cuối cùng.
Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, doanh nghiệp da
giày Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn do một số nguyên nhân khác. Chủ
yếu là do việc các nhà quản lý cha thích ứng kịp với những đòi hỏi khắc nghiệt
của cơ chế thị trờng mới đợc vận hành trong nền kinh tế đất nớc. Mặt khác,
một số thị trờng truyền thống thuộc các nớc xã hội chủ nghĩa cũ không còn đ-
ợc duy trì do biến động chính trị về phía doanh nghiệp là sự thiếu vốn trầm
trọng, đội ngũ công nhân tay nghề kém
3. Đánh giá thực trạng của ngành da giày và hoạt động xuất khẩu.
Công nghiệp da giầy là ngành sản xuất gắn liền với nhu cầu mặc và thời
trang: Ngành công nghiệp da giày Việt Nam có vị trí quan trọng đối với nền
kinh tế, là ngành thu hút nhiều lao động, cung cấp nhiều sản phẩm tiêu dùng
trong nớc và xuất khẩu. Đây cũng là ngành có khả năng khai thác nguồn
nguyên liệu trong nớc, có lợi thế và tiềm năng xuất khẩu lớn thu nhiều ngoại
tệ cho đất nớc. Công nghiệp da giày là ngành có công nghệ đơn giản so với
các ngành công nghiệp khác, cần có vốn đầu t nhng có hiệu quả kinh tế cao,
phù hợp với điều kiện thực tế của nớc ta.
Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trờng, chính sách mở cửa của Nhà
nớc những năm qua, trong nền kinh tế nói chung và trong ngành da giầy nói
riêng đang tồn tại và phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức
sở hữu khác nhau cùng hoạt động đan xen, vừa cạnh tranh vừa hợp tác.

Từ một ngành kinh tế kỹ thuật khiêm tốn, non trẻ trong nền kinh tế quốc
dân mới trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập từ năm 1987 ngành da
giầy ngày nay đã trở thành một ngành có sức phát triển mạnh kim ngạch xuất
khẩu lớn cùng ngành dệt may đóng góp đáng kể vào sự tăng trởng kinh tế
chung của đất nớc. Tuy nhiên ngành sản xuất da giầy còn lệ thuộc nhiều vào
các đối tác nớc ngoài do chủ yếu làm gia công, hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ
trừ mặt hàng giày vải là tơng đối chủ động trong sản xuất.
Trong thời gian tới để trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất da và
xuất khẩu giày dép chúng ta phải cần xúc tiến mở rộng thị trờng hơn nữa, có
biện pháp xâm nhập thị trờng khó tính hoà nhập vào mạng lới tiêu thụ của các
tập đoàn lớn trên thế giới. Đồng thời cần quan tâm nâng cao giá trị xuất khẩu
không chỉ ở số lợng mà cả hiệu quả kinh tế bằng cách phát triển sản phẩm độc
lập, tiến tới tự chủ trong cung cấp nguyên vật liệu, tự chủ cả về thị trờng, khoa
học, công nghệ, mẫu, mốt thời trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
Trớc tình hình đó, hởng ứng đổi mới, hoà nhập và mở cửa nền kinh tế của
Đảng và Chính phủ, các doanh nghiệp da giầy Việt Nam đã năng động nắm
bắt những thời cơ và vận hội mới, phát huy mọi tiềm lực với những nỗ lực cao
nhất để tiếp nhận sự chuyển dịch ngành da giầy thế gioứi thông qua việc hợp
tác, gia công, liên doanh liên kết đầu t 100% vốn nớc ngoài với các đối tác nớc
ngoài mà chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan.
II. hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990
1. Thực trạng xuất khẩu
Sau khi Liên Xô cũ và Đông Âu tan rã toàn bộ chơng trình hợp tác gia
công mũ giày với các nớc này chấm dứt ngành da giầy Việt Nam bớc vào thời
kỳ phát triển mới, thời kỳ tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm dày
dép để xuất khẩu từ các nớc nhập khẩu trong khu vực nh Đài Loan, Hàn
Quốc, Hồng Kông nhằm khai thác lợi thế mà Việt Nam có đợc trong sản xuất
và xuất khẩu giày dép. Đó là : Việt Nam có lực lợng lao động dồi dà, trẻ khoẻ,
tiếp thu nhanh, tiền công lao động còn thấp Việt Nam cha bị các nớc nhập
khẩu giày dép khống chế bằng hạn ngạch và đợc chế độ u đãi thuế quan (GSP)

nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn, xuất xứ C/O.
Để khai thác tiềm năng, lợi thế đó chủ trong khoảng thời gian từ năm
1993 đến nay, ngành da giày Việt Nam (của tất cả các thành phần kinh tế) đã
tập trung khai thác mọi nguồn vốn đầu t và bằng nhiều hình thức đầu t các cơ
sở sản xuất các loại giày dép chỉ xuất khẩu. Hiện nay năng lực sản xuất của
toàn ngành đạt gần 300 triệu đôi giày dép các loại, thu hút lực lợng lao động
khoảng 300.000 ngời, đạt tốc độ tăng trởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 40
- 50%. Riêng năm1998 do tác động bởi cuộc khủng hoảng trong khu vực nên
ngành chỉ đạt tốc độ tăng trởng gần 3,8% so với năm 1997, kim ngacạh xuất
khẩu đạt 1 tỷ USD, 1999 kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 1300 triệu USD,
tăng 30% so với 1998.
Tuy có nhiều tiềm năng và lợi thế song ngành giày dép Việt Nam hiện
nay (nhất là các doanh nghiệp trong nớc) vãan còn nhiều khó khăn và hạn chế
về khả năng tài chính, về cung ứng vật t nguyên phụ liệu, về sang tác và phát
triển mẫu mode, về công nghiệp và kỹ thuật, về quản lý để xâm nhập trực tiếp
vào thị trờng nhập khẩu. Do đó phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng
phơng thức hợp tác gia công xuất khẩu với các đơn vị đối tác trong khu vực.
Mặc dù phơng thức này có những hạn chế cho phía các doanh nghiệp Việt
Nam song lại là phơng thức phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình hình
thành và phát triển ngành công nghiệp giày dép của nhiều nớc đang phát triển
nói chung và của Việt Nam hiện nay nói riêng.
Tại cuộc họp báo ngày 10/2/1999, Tổng Công ty Da giày Việt Nam đã
tổng kết việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế năm 1998 và thông qua nhiệm vụ,
kế hoạch năm 1999, đồng thời đa ra các biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện kế
hoạch đã đề ra.
Năm 1998 Tổng Công ty Da giầy Việt Nam phải đơng đầu với những khó
khăn của một ngành kinh tế - kỹ thuật non trẻ, các đơn vị lại luôn trong tình
trạng thiếu vốn, phơng thức sản xuất chủ yếu là gia công cho khách hàng nớc
ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở nhiều khu vực trên thế giới đã
làm nhu cầu tiêu dùng giảm, các đơn đặt hàng bị cắt giảm và ép giá (từ 5 -

7%) nhất là thị trờng Hàn Quốc (từ 20-30%). Đối tác của Công ty da Sài Gòn
đã chấm dứt hợp đồng sản xuất nên sản lợng chỉ đạt 80% kế hoạch đợc giao.
Trong khi đó, các đơn vị sản xuất da thuộc vẫn đang gặp nhiều khó khăn.
Nguồn nguyên liệu không ổn định, chất lợng thấp, thiết bị lạc hậu nên sản
phẩm da thuộc chất lợng thấp, giá thành cao, cha lọt vào kênh tiêu thụ. Vì rất
nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan tác động nên các chỉ tiêu kinh tế đề
ra cha thực hiện đợc nh mong muốn. Tuy giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn
671 tỷ đồng (bằng 92% kế hoạch 1998 và bằng kế hoạch 1997) ; tổng doanh
thu đạt hơn 1.128 tỷ đồng (bằng 102,5% kế hoạch1998) ; giá trị xuất khẩu
toàn Tổng Công ty thực hiện đờc 188 triệu USD đạt 97,1% kế hoạch năm và
bằng 97,7% so với thực hiện năm 1997 nhng Tổng Công ty vẫn nộp ngân sách
Nhà nớc vợt mức kế hoạch 5% đạt 12,3 tỷ đồng.
Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một xu thế tất yếu của
sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam hiện đã là thành viên
của ASEAN, APEC, đang xin đàm phán gia nhập WTO và đã ký kết hiệp định
Việt Mỹ. Qúa trình hội nhập quốc tế yêu cầu chúng ta cần chủ động và tích
cực chuẩn bị để đầu t có hiệu quả, ổn định, bảo đảm phát triển của ngành da
giày. Ngoài việc nghiên cứu phát triển sản phẩm của mình và lựa chọn thị tr-
ờng, các nhà xuất khẩu còn phải quyết định các biện pháp để xâm nhập thị tr-
ờng. Từ năm 1989 đến nay sản lợng giày thế giới liên tục biến động. Khu vực
sản xuất giày dép lớn nhất là Châu á (chiếm 2/3 tổng sản lợng thế giới) tiếp
theo là Châu Âu và Châu Mỹ ; Mỹ, EU, Nhật là ba thị trờng nhập khẩu giày
dép chủ yếu trên thế giới đặc biệt là Mỹ. Có một điều cần chú ý rằng đây đều
là các nớc đòi hỏi tiêu chuẩn ba chất lợng hàng hoá rất cao. Ngoài ra yếu tố
môi trờng và yếu tố thời trang cũng hết sức quan trọng để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Đánh giá về khả năng xuất khẩu giày dép của Việt Nam, báo cáo
của Bộ thơng mại cho biết ngành da giày đã bổ sung hoàn chỉnh và trang bị
đồng bộ gần 200 dây chuyền sản xuất giày, trên 1900 máy may chuyên dùng
sản xuất túi, cặp da, sửa chữa gần 200.000m
2

và xây dựng mới trên 240.000m
2
nhà xởng với tổng số vốn đầu t trên 3000 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 1997, cả
nớc đã thiết lập đợc một mạng lới sản xuất giày dép, chủ yếu để xuất khẩu với
năng lực sản xuất 260 triệu đôi/năm trong đó giày thể thao chiếm 50%.
1.1. Thị trờng EU.
Hiện nay EU là thị trờng nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm giày dép của
Việt Nam, chiếm xấp xỉ 80% kim ngạch bỏ vốn đầu t nhng có hiệu quả kinh
tế cao, phù hợp với điều kiện thực tế của nớc ta.
Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trờng, chính sách mở cửa của Nhà
nớc những năm qua, trong nền kinh tế nói chung và trong ngành da giày nói
riêng đang tồn tại và phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức
sở hữu khác nhau cùng hoạt động đan xen, vừa cạnh tranh vừa hợp tác.
Từ một ngành kinh tế kỹ thuật khiêm tốn, non trẻ trong nền kinh tế quốc
dân - mới trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập từ năm 1987 ngành da
giày ngày nay đã trở thành một ngành có sức phát triển mạnh kim ngạch xuất
khẩu lớn cùng ngành dệt may đóng góp đáng kể vào sự tăng trởng kinh tế
chung của đất nớc. Tuy nhiên ngành sản xuất da giày còn lệ thuộc nhiều vào
các đối tác nớc ngoài do chủ yếu làm gia công, hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ
trừ mặt hàng giày vải là tơng đối chủ động trong sản xuất).
Trong thời gian tới để trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất da và
xuất khẩu giày dép chúng ta phải cần xúc tiến mở rộng thị trờng hơn nữa, có
biện pháp xâm nhập thị trờng khó tính hòa nhập vào mạng lới tiêu thụ của các
tập đoàn lớn trên thế giới. Đồng thời cần quan tâm nâng cao giá trị xuất khẩu
không chỉ ở số lợng mà cả hiệu quả kinh tế bằng cách phát triển sản phẩm độc
lập, tiến tới tự chủ trong cung cấp nguyên vật liệu, tự chủ cả về thị trờng, khoa
học, công nghệ, mẫu, mốt thời trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
Trớc tình hình đó, hởng ứng đổi mới, hòa nhập và mở cửa nền kinh tế của
Đảng và Chính phủ, các doanh nghiệp da giày Việt Nam đã năng động nắm
bắt những thời cơ và vận hội mới, phát huy mọi tiềm lựcvới những nỗ lực cao

nhất để tiếp nhận sự chuyển dịch ngành da giày thế giới thông qua việc hợp
tác, gia công, liên doanh liên kết đầu t 100% vốn nớc ngoài với các đối tác n-
ớc ngoài mà chúng ta cần củng cố và phát triển thị trờng này, khai thác tối đa
các u đãi mà thị trờng này còn giành cho Việt Nam (cha bị quản lý bằng hạn
ngạch, đợc hởng u đãi thuế quan, bằn 70% mức thuế bình thờng nếu bảo đảm
tiêu chuẩn xuất xứ C/O). Tăng cờng các mối quan hệ kinh doanh trực tiếp với
các nhà nhập khẩu EU, một vấn đề đang đợc EU quan tâm. EU chiếm gần
70% thị phần, trị giá xuất khẩu giày sang EU năm 1996 tăng gấp 30 lần so với
năm 1992 ; từ 1996 đến 1997 tăng bình quân 4 đến 50% mỗi năm. Việt Nam
là một trong năm nớc có số lợng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU do giá rẻ,
chất lợng và mẫu mốt chấp nhận đợc 9 tháng xuất khẩu (năm 1999) đạt 1.014
triệu USD, tăng 34% so với cùng kỳ năm 1998, bình quân xuất khẩu đạt 113
triệu USD tháng tăng 30 triệu USD/tháng. Cơ cấu thị trờng 9 tháng đầu năm
1999 so với năm 1998 thì Châu Âu là khoảng 730 triệu USD, chiếm 72% tăng
8% trong đó EU : 700 triệu USD, chiếm 69,6% tăng 8%. Các thị trờng nhập
khẩu chủ yếu là Đức với tỷ trọng 18%. Vơng quốc Anh 17%, Bỉ 10%, Pháp
9%, Hà Lan 8,6%, Italia 6%, Đài Loan 3,8%.
1.2. Thị trờng Mỹ.
Cơ cấu thị trờng 9 tháng đầu năm 1999 so với 1998 Châu Mỹ : 101 triệu
USD, chiếm 10% giảm 3,6%. Trên thị trờng Mỹ năm 1997 chúng ta mới đạt
70,2 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật cũng tăng nhanh, năm 1997
đạt 79 triệu USD.
Mỹ là nớc có nhu cầu tiêu thụ và nhập khẩu giày dép lớn nhất thế giới.
Hàng năm nhập khẩu khoảng 1,4 tỷ đôi giày dép các loại trị giá khoảng 14
-15tỷ USD. Hiện nay Việt Nam mới xuất khẩu giày dép sang Mỹ đạt kim
ngạch xuất khẩu năm 1998 trên 110 triệu USD (chiếm trên 10% kim ngạch
xuất khẩu toàn ngành). Với việc ký kết hiệp định thơng mại Việt- Mỹ và đã
bắt đầu có hiệu lực trong năm tới (từ 12/2001 trở đi) kim ngạch xuất khẩu da
giày trên thị trờng Mỹ sẽ tăng rất mạnh, không hề thua kém vào thị trờng EU
thậm chí còn có thể cao hơn.

1.3. Thị trờng Châu á và một số thị trờng khác.
Về cơ cấu thị trờng 9 tháng đầu năm 1999 so với 1998, Châu á :
111 triệu USD, chiếm 11% giảm 6%, thị trờng khác : 72 triệu USD, chiếm
7%, xấp xỉ 1998, Đài Loan : 3,8%, Hàn Quốc 3,2% và Tây Ban Nha 2,4%.
Nhật là thị trờng có nhu cầu nhập khẩu hàng năm khoảng 350 triệu đôi
giày dép từ nớc ngoài. Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật cũng tăng nhanh,
năm1997 đạt 79 triệu USD, năm 1999 chiếm khoảng 7- 8% tổng kim ngạch.
Dự đoán kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng. Ngoài ra các khu vực thị trờng
thế giới khác nh Trung Quốc, Bắc Âu, úc, Liên Xô cũ và cả thị tr ờng nội
địa với trên 80 triệu dân trong những năm tới cũng sẽ là các thị trờng đáng
quan tâm và có thể phát triển.
Sản phẩm da giày nớc ta hớng tới thị trờng ngoài nớc trên cơ sở sử dụng
lợi thế so sánh. Hoàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi và danh sách 10
nớc xuất khẩu giày hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thứ tự, thay thế lẫn nhau, các n-
ớc Đông Nam á sẽ chiếm ngôi vị cao trong bảng, riêng Trung Quốc (bao gồm
cả Hong Kông) vẫn giữ ngôi xuất khẩu (trên 2 tỷ đôi/năm); ý sẽ nhờng về số
lợng cho Inđônêxia hoặc Thái Lan nhng vẫn giữ vị trí về giá trị và thị trờng
giày da đắt tiền. Trong tình hình đó ta cần phấn đấu tờng bớc giành thị phần
thế giới, với u thế chất lợng giá rẻ. Trớc hết là sự chọn lựa các sản phẩm phù
hợp với xu thế phát triển thị trờng, u tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên
liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguyên liệu thô nhập khẩu để chế
biến. Cần lu ý thêm, giày cũng nh đồ da thuộc, ngay cả trong từng khu vực
trên thế giới đều cha và sẽ không bao giờ là một thị trờng thống nhất. Bởi có
rất nhiều bản sắc văn hoá khác nhau, khí hậu khác biệt từng vùng, mức sống
khác nhau. Giày có hai thời vụ bán hàng là đông, hè. Nhng mỗi năm đồ da có
đến năm cao điểm bán hàng cho từng loại sản phẩm. Cần nắm vững t tởng chủ
đạo là tuy hớng vào xuất khẩu nhng cần coi trọng thị trờng trong nớc với hơn
77 triệu dân gồm nhiều lứa tuổi sống ở nhiều khu vùng khác nhau, có mức
sống khác nhau, không để cho hàng ngoại lấn át. Cần sử dụng các giải pháp
khoa học công nghệ để làm sản phẩm nội địa có sức cạnh tranh trực tiếp với

hàng Trung Quốc, đứng vững đợc tại thị trờng trong nớc. Coi trọng thị trờng
nội địa còn có ý nghĩa đủ sức tự cứu khi các rủi ro, bấp bênh có thể có của thị
trờng tiêu thụ hớng ngoại. Để xâm nhập thị trờng các doanh nghiệp cần xây
dựng chiến lợc Marketing hỗn hợp và tổ chức các bộ phận Marketing.
1.4. Vài nét về hoạt động gia công da giày ở Việt Nam
10 năm kể từ khi thị trờng Liên Xô cũ và Đông Âu khủng hoảng, đến nay
ngành da giày đã có những bớc tiến phi thờng. Tuy nhiên đó mới chỉ là sự
khẳng định và tiềm lực và khát vọng vơn dậy của ngành kinh tế kỹ thuật này.
Xu hớng hội nhập đang đặt ngành da giầy lên sàn đấusống còn của thị tr-
ờng quốc tế bình đẳng và khắc nghiệt. Thế nhng da giầy Việt Nam đang khoác
tấm áo rội lên mình những sản phẩm của ngoại quốc, đổi lại chỉ nhận đợc
những đóng tiền gia công rất nhỏ bé.
Những năm gần đây ngành da giầy luôn có mức tăng trởng từ 12 - 14%
trong cơ cấu sản xuất giày dép xuất khẩu 4 tháng đầu năm 1999 thì 70% là gia
công cho nớc ngoài, trong nớc chí chiếm 30%, về mặt hàng giày dép liên
doanh với nớc ngoài, trong nớc chỉ chiếm 30%, về mặt hàng giày dép liên
doanh với nớc ngoài có u thế hơn nhiều nhất là loại giày cao cấp với 55% tỷ
trọngcòn các doanh nghiệp trong nớc là 45%, kim ngạch xuất khẩu, năm 2000
đạt 1,468 tỷ USD, tơng ứng với 450 triệu sản phẩm các loại Những con số đó
đã vợt qua các nớc cùng khu vực nh Thái Lan, Malaysia, sugapore và cho
thấy ngành kinh tế kỹ thuật này đã giữ một vị trí quan trọng trong lĩnh vực
công nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, sức mạnh về sự đóng góp thực tế của ngành da
giầy chỉ bằng một phần rất nhỏ con số trên.
Nguyên do thứ nhất là phần lớn lợi nhuận, ngoại tệ xuất khẩu không rơi
vào túi nhà nớc, doanh nghiệp hay ngời lao động Việt Nam vì hiện 98% sản
phẩm của ngành đợc xuất khẩu nhng thực ra ta chỉ đóng góp duy nhất phần
gia công. Gọi là xuất khẩu nhng các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết nhận
nguyên liệu, mẫu mã của đối tác nớc ngoài để sản xuất, khi ra sản phẩm lại
giao cho họ. Giá bán bao nhiêu, bán cho ai thì không đợc biết. Có nghĩa là ng-
ời Việt Nam chỉ đợc hởng tiền công lao động. Nếu tính giá trị sản phẩm da

giày khi xuất khỏi cửa khẩu Việt Nam trong năm qua là gần 1,5 tỷ USD thì sẽ
tiến ngời Việt Nam đợc hởng chỉ xấp xỉ 400 triệu USD (1/4 giá trị). Hiện nay
cả nớc có hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu da giày, chiếm tới 90% lao động,
sản lợng toàn ngành thì đều chỉ làm gia công. Điều đó dẫn đến lao độngt rong
ngành da giày tuy rất động (400.000 ngời) vất vả (phải tăng ca từ 300-
600h/năm) nhng lơng thấp (680.000đồng/ ngời/ tháng).
Mặt khác các khoản thu của Việt Nam tiền công, thuế và loại phí luôn bị
tính vào mức giá thành sản phẩm thấp hơn thực tế 30%. Chứng minh điều này
ông Trởng ban kế hoạch đầu t Tổng Công ty da giày cho biết khách hàng tiêu
thụ sản phẩm da giày Việt Nam (Châu Âu) luôn bày tỏ mong muốn đợc trực
tiếp mua hàng của nhà sản xuất (doanh nghiệp Việt Nam). Vì nh vậy họ sẽ bớt
đợc 20% số tiền mua mỗi sản phẩm. Ngợc lại,nhà sản xuất cũng đợc tăng giá
bán thêm 10% Điều này cho thấy, sản phẩm da giày xuất khẩu của t đều bán
thấp hơn giá thực tế tới 30% dù tất cả các tiêu chuẩn khác đều tơng đơng.
Nguyên do thứ hai : Trong ngành da giày, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đặc biệt doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài thâu tóm cơ bản kim ngạch
xuất khẩu lơị nhuận, nhân công, thị trờng và máy móc thiết bị. Hiệp hội da
giày Việt Nam thống : Cả nớc có khoảng 200 doanh nghiệp da giày (gồm
quốc doanh trung ơng, quốc doanh địa phơng, t nhân, liên doanh, 100% nớc
ngoài ) thì kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn n ớc ngoài
chiếm 41,3%, khối liên doanh chiếm 5,6%, khối t nhân chiếm 26,73%, 26,3%
còn lại thuộc các doanh nghiệp quốc doanh. Những chỉ số khác nh : Lợi
nhuận, nhân công, thị phần, sản lợng cũng tỷ lệ thuận. Đã vậy tình trạng đầu t
chui của nớc ngoài đang lũng đoạn ngành da giày.Cụ thể từ năm 1999 đến
nay luôn xuất hiện một số t nhâ Việt Nam đứng lên thành lập doanh nghiệp t
nhân nhng vốn thiết bị nguyên liệu, mẫu mã sản phẩm, đơn hàng lại do ngời
nớc ngoài đa vào. Họ thuê đất lập nhà xởng và thuê nhân công sản xuất. Sau
đó mang sản phẩm về nớc hoặc bán thẳng cho khách hàng, làm nh vậy họ lợi
dụng đợc giá nhân công rẻ, u đãi của EU cho hàng sản xuất tại Việt Nam để
phục vụ lợi ích riêng. Mặt khác họ cũng tránh đợc các khoản đóng góp cho

Nhà nớc theo luật đầu t nớc ngoài. Nguy hiểm hơn các doanh nghiệp này có
dây chuyền hiện đại, nhà xởng, quy mô lớn, trả lơng cao để thu hút cán bộ
công nhân viên Việt Nam có trình độ tay nghề cao và khi khách hàng n ớc
ngoài vào tìm đối tác để đặt hàng thì họ lại chọn các doanh nghiệp t nhân giả
bia. Từ đó thị phần và đơn hàng của doanh nghiệp vốn trong nớc dần bị thu
hẹp. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở Đồng Nai, Hải Phòng và Thành phố Hồ
Chí Minh. Ví dụ ở Hải Phòng có Công ty TNHH Đỉnh Vàng lớn nhất thành
phối với 10 dây chuyền sản xuất giày thể thao, giày nữ và 2 xí nghiệp sản xuất
để cho 12 triệu đôi sản phẩm/ năm. Bà Nguyễn Thị Kim Thúy làm giám đốc
nhng do một ngời Thái Lan bỏ vốn và thâu tóm : Công ty TNHH Thành Hng
cho 3 triệu sản phẩm/năm do Bà Đoàn Thị Thu Hà làm Giám đốc nhng vốn và
quyền nằm trong tay ngời ngoại quốc.
Nh vậy ngành da giày chỉ dựa vào Tổng Công ty da giày làm nòng cốt.
Tổng Công ty này có 17 doanh nghiệp, năng lực sản xuất 39 triệu đôi giày
dép/năm bằng 1/10 toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu, lao động cũng tỷ lệ
thuận. Nhng thiết bị, vốn cố định và lu động tỷ lệ đó còn thấp hơn nhiều.
Các nhà nghiên cứu cho biết gốc rễ của tình trạng không làm chủ đợc sản
xuất và thị trờng của ngành da giày chỉ là khả năng cung cấp nguyên liệu (yếu
tố đầu tiên và gần nh quyết định) của ta quá yếu. Theo tính toán của hiệp hội
da giày Việt Nam, với sản lợng sản xuất nh hiện nay thì mỗi năm cả nớc cần
khoảng 130 triệu square feet (gọi tắt là bia) da thành phẩm, cùng một lợng lớn
giả da, vải, vải tráng PU, PU, keo tổng hợp nh ng đều phải nhập ngoại từ 80 -
90% nhu cầu. Đây không phải là sự khống chế của nớc ngoài khi ta gia công
cho họ (vì họ cũng muốn mua tại Việt Nam để đỡ tốn kém) mà chỉ vì ta
không sản xuất đợc những sản phẩm đó. Ông Phan Đình Độ chủ tịch hiệp hội
da giày Việt Nam cho biết sản lợng da thuộc thành phẩm của năm 2000 của
ngành đạt 32 triệu bia. Những các chuyên gia nhận xét đây là da chất lợng
thấp. Họ phân tích : Để sản xuất đợc sản phẩm da thuộc có chất lợng cao phải
có quy hoạch tổng thể từ chăn nuôi gia súc đợc chăn nuôi hỗn hợp, chủ yếu để
lấy thịt sức kéo và sữa, không có loại dành riêng cho lấy da. Khâu giết mổ lại

hoàn toàn bằng thủ công không có công nghệ lột da). Vì vậy mà vừa lãng phí
da vừa tốn kém cho làm sạch môi trờng và quan trọng nhất là da bị thủng, rách
không đủ tiêu chuẩn làm sản phẩm xuất khẩu. Giải quyết vấn đề da thuộc đòi
hỏi hai yếu tố. Thứ nhất : Quy hoạch về chăn nuôi giết mổ ở ta cha làm đợc và
chỉ nuôi gia súc lấy thịt sữa và sức kéo. Ngành thuộc da không thể mua (hay
nuôi) một con bò chỉ để lấy một bộ da. Sự hợp tác giữa chăn nuôi và thuộc da
mới nằm trong tơng lai. Thứ hia, thuộc da đòi hỏi vốn đầu t, vốn lu động lớn,
chu kỳ sản xuất dài. Hiện chiến lợc của tổng Công ty da giày mới bàn đến hợp
nhất, nâng cấp hai cơ sở thuộc da, hiện có để tăng công suất lên 10 triệu bia
vào năm 2005 (gần bằng 1/10 nhu cầu toàn ngành năm 2000) đã hết 30 tỷ
đồng và cần 5 tỷ nữa cho nhà máy xử lý nớc thải. Vấn đề trên tổng Công ty da
giày cha tự giải quyết đợc các doanh nghiệp có vốn lớn (vốn nớc ngoài) thì
không đầu t và lâu thu hồi. Ngoài ra các nguyên phụ liệu : giả da, vải, nhựa
bạt, keo cũng t ơng tự nh tình trạng thiếu da thuộc. Phải có sự kết hợp các
ngành may mặc, hoá chất mới có thể giải quyết đợc Đặc thù của ngành da
giày là phải có sản phẩm hoàn chỉnh đem giới thiệu trên thị trờng, nếu đợc lựa
chọn bớc 2 mới đợc kiểm tra về công nghệ, rằng lực sản xuất, môi trờng thì
mới đợc ký hợp đồng. Vì thế ta không thể nhập một lợng nguyên phụ liệu để
sản xuất một đôi giày đem giới thiệu và cũng không thể nhập một lợng lớn
nguyên phụ liệu khi không biết sản phẩm có đợc lựa chọn hay không. Điều
này kéo theo trình độ thiết kế mẫu mã, khai thác thị trờng mẫu mã dẫm chân
tại chỗ vì luôn phụ thuộc vào mẫu mã và thị trờng của nớc thuê mình gia công.
Cái gốc đã thiếu ngành da giày còn vấp phải hàng loạt những khó khăn khách
quan nh : Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trốn nộp bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế (60% cho công nhân nhng các doanh nghiệp quốc doanh lại phải
thực hiện đầy đủ, gây lực cạnh tranh không cân đối. Thuế nhập khẩu đối với
dụng cụ, phụ tùng sản xuất da giày đánh giá cao. Đặc thù của ngành là chạy
theo thời vụ và hợp đồng nên luật lao động hiện hành quy định về tăng ca,
giãn ca gây trở ngại cho sản xuất kinh doanh. Bởi vậy
Gia công là bớc tất yếu đối với ngành da giày của tất cả các quốc gia khi

muốn biết từ lạc hậu, non trẻ lên hiện đại, quy mô. Điều này cũng đã xảy ra ở
Trung Quốc một quốc gia hiện đang rất mạnh về da giày.
2. Đánh giá hoạt động xuất khẩu
2.1. Những thành tựu đạt đợc
Bắt đầu từ năm 1993, ngành da giày đã khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di
chuyển sản xuất và cùng với đó là sự di chuyển của đơn hàng, từ những vùng
có truyền thống về sản xuất da giày nh Đài Loan, Hàn Quốc sang nớc ta. Nếu
nh thời kỳ 1990 1992 mới chỉ có 4 doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài hoạt
động trong lĩnh vực da giày thì sang đầu năm 1998 cả nớc có 32 doanh nghiệp
với tổng vốn đầu t đã thực hiện là 124 triệu USD, năng lực sản xuất đạt 87
triệu đôi giày dép/năm và 34 triệu sản phẩm da/năm. Cho tới nay toàn ngành
giày dép có khoảng 130 nhà máy và cơ sở sản xuất với 250 dây chuyền đồng
bộ, công suất thiết kế đạt 265 triệu đôi/năm.
Về cơ cấu sản phẩm, giày thể thao đạt 130 triệu đôi (49%), giày vải đạt
48 triệu đôi, giày nữ đạt 38 triệu đôi (14%), dép đạt 48 triệu đôi (18%) và giày
da đạt 4 triệu đôi (1,5%) (Năm 1999).
Quá trình đầu t và phát triển sản xuất kinh doanh ngành da giầy đã thu
hút và đào tạo đợc một đội ngũ lao động đông đảo, tính đến 31/12/1998 đã có
hơn 200.000 lao động làm việc, đông gấp 12 lần, có tay nghề tốt hơn, học vấn
cao hơn, phong cách làm việc hiện đại hơn so với trớc 1992. Trình độ quản lý
kỹ thuật sản xuất, quản trị kinh doanh, khả năng tiếp thị của đội ngũ cán bộ
quản lý đã đợc nâng lên rõ rệt.
Về giá xuất khẩu, do chi phí sản xuất và chi phí lu thông thấp nên giá
hàng giày dép xuất khẩu của Việt Nam tơng đối thấp, có thể cạnh tranh đợc
với các nớc khác. Số lợng các sản phẩm giày dép chất lợng cao đợc sản xuất
và xuất khẩu tăng lên đã góp phần nâng cao đơn giá xuất khẩu bình quân từng
chủng loại tăng cao hơn.
Về kim ngạch xuất khẩu, hàng giày dép là một trong những mặt hàng có
tốc độ tăng trởng nhanh nhất : Năm 1997 là 965,5 triệu USD, tăng 82,2% năm
1998 : 1.031,8 triệu USD, tăng 6,9%, năm 1999 : 1391,6 triệu USD tăng

34,9%, đứng thứ 3 sau Dầu khí và Dệt may, đã thu hút hơn 300.000 lao động
trong đó 80% là nữ. Trong năm 1999, thị trờng xuất khẩu chủ yếu là EU đạt
932,4 triệu USD, chiếm 67% trong đó Anh : 194,5 triệu USD, chiếm 14%,
Đức : 192,3 triệu USD chiếm 13,8%, Bỉ : 146,5 triệu USD, chiếm 10,5%, Pháp
: 132,7 triệu USD chiếm 9,5% và Hà Lan : 125,6 triệu USD, chiếm 9%. Ngoài
ra còn có Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan cũng là những thị trờng nhập khảu
nhiều giày dép Việt Nam.
Về so sánh khả năng cạnh tranh với hàng ngoại, khả năng cạnh tranh của
hàng giày dép Việt Nam đạt vào loại trung bình, xấp xỉ sản phẩm cùng loại
của Thái Lan, Inđônêxia, philippin, nhng thấp hơn hàng Trung Quốc. Thông
thờng giá bán hàng Trung Quốc nhập khẩu thấp hơn từ 20 50% hàng Việt
Nam cùng loại.
Năm 2000 là năm chuyển giao thế kỷ với bao biến động trong nền kinh
tế thế giới. Thời cơ với ngành da giày Việt Nam hết sức thuận lợi đó là thị tr-
ờng Mỹ rộng lớn, đầy hứa hẹn. Hiệp định Thơng mại Việt Mỹ đã đợc ký
kết tháng 7/2000, đợc Quốc hội hai nớc thông qua và có hiệu lực từ tháng
12/2001. Tiếp đó là việc Việt Nam đang đàm phán để trở thành thành viên tổ
chức thơng mại Quốc tế (WTO) trong thời gian tới. Điều đó, đồng nghĩa với
việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá nớc ta xuất
khâủ vào Mỹ và các nớc trong tổ chức Thơng mại Quốc tế. Đó là thời cơ lớn
đối với ngành da giầy Việt Nam, một ngành đang có u thế xuất khẩu, có đội
ngũ lao động đông đảo, cần cù, chịu khó, tiếp thu nhanh, có đội ngũ cán bộ
quản lý và kỹ thuật có kinh nghiệm sau khoảng 10 năm hợp tác gia công với
nớc ngoài.
2.2. Những tồn tại thách thức và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt đợc ngành da giày Việt Nam còn có những
tồn tại và yếu kém đó là :
- Đang bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu,
hoá chất, phụ tùng máy móc từ nớc ngoài và nhất là từ chính các đối tác đặt
sản xuất hoặc mua sản phẩm của t. Yếu kém này làm hạn chế rất nhiều về

hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ảnh hởng đến thế cạnh
tranh của các sản phẩm.
- Tình trạng quá yếu kém về tài lực, vốn đầu t đều phải tự vay trung hạn
với lãi suất cao, nếu trên 70% các doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện gia
công sản phẩm cho nớc ngoài. Phơng thức này đang tạo điều kiện cho khách
hàng nớc ngoài vào khai thác thị trờng lao động rẻ (cha đến 0,3 USD cho 1 giờ
công lao động giầy, thấp nhất so với các nớc trong khu vực).
- Trình độ quản lý kỹ thuật công nghệ thiết kế và phát triển mẫu mốt
quản lý và vận hành sản xuất kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém
do mới hình thành ngành kinh tế kỹ thuật, cha có trờng lớp đào tạo. Phần lớn
cán bộ Việt Nam cha thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất và kỹ
thuật một cách khoa học, đồng bộ, đúng tiến độ và có chất lợng.
- Do lợng hàng tồn kho lớn và sự mất giá của đồng EURO, nên sức mua
của thị trờng truyền thống của chúng ta (EU) đang giảm mạnh vào năm 2000.
Đặc biệt là đối với giày vải và giày thể thao, lợng đơn hàng năm 2000 chỉ đạt
từ 50 70% so với 1999.
Thêm vào đó là sự cạnh tranh khốc liệt với Trung Quốc, một đất nớc có
thế mạnh giống Việt Nam nhng lớn hơn và mạnh hơn ta nhiều lần. Mới đây
Trung Quốc lại có lợi thế thơng mại hơn ta do hiệp định Thơng mại Trung Mỹ
đã có hiệu lực về Trung Quốc đã gia nhập WTO. Bên cạnh đó giá giày dép
Trung Quốc luôn thấp hơn ta từ 10 30% do chính sách hỗ trợ xuất khẩu của
Trung Quốc tốt hơn, năng suất lao động ở Trung Quốc cao hơn đặc biệt là
Trung Quốc đã đầu t và sản xuất đợc hầu hết các nguyên phụ kiện cho giày
dép nên có điều kiện hạ giá thành sản phẩm và hoàn toàn chủ động trong sản
xuất và đa dạng về mẫu mốt. Có lẽ đây là thách thức lớn nhất đối với ngành
da giầy Việt Nam.
- Thị trờng Mỹ và một số nớc mở rộng đối với ngành Da giầy Việt Nam
với những u đãi về thuế quan và phi thuế qaun, nhng cũng có những đòi hỏi
khắt khe về tiêu chuẩn chất lợng, vệ sinh công nghiệp, môi trờng luật pháp mà
không phải doanh nghiệp nào, sản phẩm nào cũng có thể vào đợc một cách dễ

dàng. Trong khi đó ngành da giầy Việt Nam còn quá nhỏ bé so với các nớc
trong khu vực và trên thế giới, chủ yếu vẫn làm theo phơng thức gia công,
trình độ thiết bị công nghệ chỉ ở mức trung bình, số máy móc thiết bị cũ thế
hệ 2,3 còn đang phổ biến. Trình độ nghiên cứu công nghệ, thiết kế mẫu mốt
thời trang còn yếu. Nguyên vật liệu và phụ tùng phải nhập ngoại nhiều.
Hiện nay (năm 2001) một số doanh nghiệp sản xuất giày dép xuất khẩu
đang gặp phải trở ngại lớn đó là sự giảm sút về đơn hàng do khách hàng
chuyển đơn hàng từ các đơn vị thành viên của Tổng Công ty sang các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Việc xúc tiến thơng mại diễn ra còn
chậm, kém hiệu quả. Tính đến hết quý I/2001 giá trị sản xuất công nghiệp đạt
125 tỷ đồng, bằng 75% so với cùng kỳ năm 2000, doanh thu đạt 182 tỷ đồng
bằng 20% kế hoạch năm. Mặt khác, do sản lợng sản phẩm sản xuất và xuất
khẩu giảm sút và nguyên nhân chủ yếu làm giá trị xuất khẩu trong quý 1 năm
2001 của Tổng Công ty giảm chỉ đạt 31 triệu USD bằng 21% kế hoạch và
bằng 70% so với cùng kỳ năm 2000. Ngoài ra còn có nguyên nhân khác là các
doanh nghiệp tăng sản xuất các mặt hàng phục vụ thị trờng nội địa, giảm sản
lợng gia công tăng sản lợng tự sản xuất và xuất khẩu điều đó cũng góp phần
làm cho giá trị xuất khẩu tính theo giá FOB giảm.
Chơng III
Triển vọng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu da giầy Việt Nam
I. Triển vọng xuất khẩu của ngành da giầy
Theo đánh giá và dự đoán của các chuyên gia thì trong những năm tới,
các nớc Châu á, Viễn Đông sẽ chiếm tới 75% sản lợng giày dép toàn thế giới
(khoảng trên 10 tỷ đồng), trong đó Việt Nam cũng sẽ là một trong các nớc có
tiềm năng để phát triển ngành hàng này.
Các nớc và các khu vực có mức tiêu thụ và nhập khẩu giày dép lớn trên
thế giới mà Việt Nam có lợi thể đã xâm nhập vào EU, Mỹ, Nhật Bản. Căn cứ
vào tiềm năng và lợi thể của Việt Nam trong các năm tới có thể đạt tốc độ
tăng trởng hàng năm khoảng 20 -25% về kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó,

việc Trung Quốc gia nhập WTO, đợc tháo bỏ các rào cản thơng mại sẽ làm
những thế mạnh của ta bị đe doạ và mờ nhạt. Tuy nhiên ban đầu Trung Quốc
vẫn bị khống chế bởi hạn ngạch và một số điều khoản chống phá giá của
WTO nên ta cũng không gặp biến động ngay, song thời gian để đối phó cũng
không còn nhiều.
Cần phải nói thêm rằng ngành da giầy của Việt Nam có rất nhiều điểm
thuận lợi, nguồn lao động dồi dào. Nhân công tại Việt Nam, Inđônêxia vẫn rẻ
hơn nhiều so với các nớc trong khu vực. Tham gia vào sản xuất da giầy có
nhiều loại hình doanh nghiệp nh t nhân, Nhà nớc, liên doanh và đây là cơ hội
để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý và cạnh tranh
nhau cùng tiến lên. Hơn nữa, những cánh cửa mở ra cho Việt Nam nh AFTA,
WTO cũng sẽ là điều kiện thuận lợi để công nghiệp da giày nói riêng và
ngành công nghiệp nói chung cuả Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Dự đoán
trong 10 năm nữa sản lợng giày dép, cặp túi các loại của ta khoảng 720 triệu
chiếc, kim ngạch xuất khẩu là 4,7 tỷ USD sản xuất gia công đợc thay bằng sản
xuất khép kín, 80 triệu bia da, 250 triệu yard giả da và các loại vải 550000 tấn
đế giày, 10000 tấn keo tổng hợp là nguyên phụ liệu sản xuất trong n ớc. Việt
Nam sẽ có các Trung tâm thơng mại, trung tâm nghiên cứu thiết kế mẫu mốt
ngang tầm khu vực. Sản phẩm có mặt ở tất cả các thị trờng lớn. Tuy nhiên,
ngành da giày Việt Nam chỉ có thể tìm đợc con đờng vạn dặm khi tất cả các
doanh nghiệp đều nỗ lực hết mình cùng sự hỗ trợ kịp thời của nhà nớc.
II. Giải pháp và kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu da giầy.

×