Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN MỘT SỐ HƯỚNG KHAI THÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬTTRONG TÁC PHẨM TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH. BỘ MÔN: NGỮ VĂN 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 79 trang )

UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ HƯỚNG KHAI THÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT
TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM

THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

BỘ MÔN: NGỮ VĂN 9

NĂM HỌC 2014 – 2015
1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.

Tên sáng kiến: Một số hướng khai thác biện pháp nghệ thuật
trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh.

2.

Lĩnh vực áp dụng SK: Dạy - Học Ngữ văn 9 ở trường THCS

3. Tác giả:

NGÔ HỒNG LOAN

Sinh ngày 22 tháng 10 năm 1971


Trình độ chun mơn: Đại học Sư phạm Ngữ văn
Chức vụ, đơn vị cơng tác: Bí thư chi bộ - Phó Hiệu trưởng trường THCS
Vĩnh Hịa, Ninh Giang, Hải Dương.
Điện thoại: 0975.204.266
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến :
Trường THCS Vĩnh Hòa - Huyện Ninh Giang - Tỉnh Hải Dương
Địa chỉ : Thôn Vĩnh Xuyên - xã Vĩnh Hòa - Ninh Gang - Hải Dương
Điện thoại : 0916. 895. 266
2. Đơn vị áp dụng SK lần đầu :
Trường THCS Vĩnh Hòa - huyện Ninh Giang - Tỉnh Hải Dương.
Địa chỉ : Thơn Vĩnh Xun - xã Vĩnh Hịa - Ninh Gang - Hải Dương.
Điện thoại : 0916. 895. 266
3. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS - Học sinh lớp 9.
Phương tiện, thiết bị đồ dùng dạy học - Tài liệu tham khảo.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2014 -2015
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Ngô Hồng Loan

2


TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Sáng kiến “Một số hướng khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác
phẩm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9 theo
định hướng phát triển năng lực học sinh” dài 105 trang, gồm 7 mục: Hoàn
cảnh nảy sinh sáng kiến, Cơ sở lý luận của vấn đề, Thực trạng của vấn đề,

Các giải pháp, biện pháp thực hiện, Quá trình thực hiện và kết quả đạt được,
Khả năng áp dụng; Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Trong phần mô tả sáng kiến, tôi đã đưa ra những cơ sở, căn cứ để nghiên
cứu như cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, đồng thời xác định đối tượng và phạm
vi nghiên cứu, các biện pháp nghiên cứu, các biện pháp thực hiện, so sánh kết
quả trước và sau khi áp dụng sáng kiến, những ưu điểm cũng như hạn chế và
đề xuất, khuyến nghị.
Thực tế dạy - học môn Ngữ văn trong trường trung học cơ sở (THCS)
hiện nay còn nhiều hạn chế. Giáo viên (GV) chưa có những hướng khai thác
tác phẩm nghệ thuật đạt hiệu quả, học sinh (HS) ngại học, lười học văn. Đặc
biệt là yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực HS càng địi hỏi phải tìm tịi đổi mới các thức dạy học, nhất tìm
tịi các hướng khai thác tác phẩm văn học sao cho hợp lý, linh hoạt, hiệu quả.
Tất cả những điều này đã thôi thúc tôi nghiên cứu, đề xuất sáng kiến “Một số
hướng khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm truyện hiện đại
Việt Nam theo trong chương trình Ngữ văn định hướng phát triển năng
lực học sinh” để áp dụng cho chỉ đạo chuyên môn của cán bộ quản lý, giảng
dạy của GV môn Ngữ văn 9 ở đơn vị nói riêng, các trường THCS nói chung.
Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến thể hiện ở chỗ các định hướng, giải
pháp, biện pháp đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nội dung,
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực,
phẩm chất người học từ năm học 2014 - 2015. Trên cơ sở đó, giúp HS có kĩ
năng sống, có thái độ đối xử với con người, với lịch sử, với quê hương đất
nước và định hướng hoạt động cho bản thân trong cuộc sống.
3


Các định hướng, giải pháp, biện pháp mà sáng kiến đề ra dễ hiểu, dễ áp
dụng, có tính khả thi cao, có thể áp dụng cho chỉ đạo chun mơn của cán bộ
quản lý và giảng dạy của tất cả GV dạy Ngữ văn của cấp THCS trong các tiết

dạy truyện ngắn hiện đại Việt Nam lớp 9. Trên cơ sở nắm vững những đặc
điểm cơ bản của văn bản tự sự hiện đại Việt Nam, cách lựa chọn ngôi kể,
phương thức trần thuật, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngơn ngữ
giọng điệu, nghệ thuật tạo tình huống và kết cấu truyện, nghệ thuật tái tạo
hiện thực, nghệ thuật dùng nhan đề truyện ngắn giàu ý nghĩa... bằng cách
vận dụng các kiến thức có liên quan, GV dễ dàng thiết kế giáo án tốt, đảm bảo
bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng môn học, bài học, chuẩn bị phương tiện đồ
dùng dạy học đầy đủ phù hợp, hiệu quả, tạo tâm thế dạy học thất tốt; vận dụng
linh hoạt, sáng tạo phương pháp, biện pháp dạy học tích cực vào tổ chức các
hoạt động đọc hiểu văn bản trên lớp, hướng dẫn HS vận dụng kiến thức để
giải quyết các tình huống thực tiễn.
Sáng kiến sau khi thực hiện tại đơn vị đã đạt được kết quả cao. GV dự
giờ dễ hiểu, có cảm giác thoải mái, có ấn tượng đẹp với tác phẩm, với tiết
dạy; học sinh hăng hái phát biểu, có những cảm nhận, liên hệ tốt. Kết quả
khảo sát đạt 85% khá, giỏi.
Với tâm huyết của người làm công tác quản lý chuyên môn và trực tiếp
giảng dạy môn Ngữ văn nhiều năm, chúng tôi mong muốn sáng kiến này
được áp dụng rộng rãi nhằm góp phần thiết thực năng cao chất lượng dạy và
học môn Ngữ văn trong trường THCS, tạo tiền đề để học sinh học tốt hơn
chương trình Ngữ văn trung học phổ thơng (THPT). Đồng thời góp phần làm
cho vẻ đẹp của văn chương thực sự được tỏa sáng trong tâm hồn thế hệ trẻ,
thắp lên trong lòng các em ngọn lửa của tình yêu gia đình, yêu quê hương đất
nước và trái tim nhân hậu, từ đó có kĩ năng sống, thái độ, hành vi tốt để đáp
ứng với sự phát triển ngày càng cao của xã hội, của nhân loại tiến bộ.

4


MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến

Cùng với các môn khoa học khác, môn Ngữ văn ở trường THCS có vai
trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách tồn diện cho HS.
Thơng qua môn học, các em nắm vững được những kiến thức cơ bản về khoa
học xã hội, giáo dục các em tình yêu gia đình, yêu con người, yêu thiên nhiên,
đất nước, từ đó hình thành kĩ năng sống tốt, cách ứng xử nhân hậu với con
người.
Trong chương trình mơn Ngữ văn, việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu
hay, cái đẹp của các biện pháp nghệ thuật trong các tác phẩm văn học nói
chung và văn xi nói riêng, từ đó hình thành năng lực cảm thụ văn học, rèn
kĩ năng sống tốt, bồi đắp tình yêu cái đẹp, yêu gia đình u q hương đất
nước, thái độ sống tích cực... vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ cấp thiết.
Đặc biệt, năm học 2014 -2015, năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết
số 29 của Đảng, chương trình hành động của Bộ, ngành về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm
tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực HS là nhiệm vụ sống còn,
phải triển khai, thực hiện nghiêm túc.
Tuy nhiên, thực tế khảo sát cho thấy: dạy và học môn Ngữ văn trong
trường THCS hiện nay nói chung, dạy các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam
lớp 9 nói riêng cịn nhiều bất cập, hạn chế. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
thực trạng trên có nguyên nhân sâu xa là do giáo viên vận dụng chưa linh
hoạt, chưa nhuần nhuyễn và hiệu quả những phương pháp giảng dạy phù hợp,
thậm chí khơng ít giáo viên cịn lúng túng về phương pháp, khơng tạo được
hứng thú học tập và hợp tác của học sinh, nhất là hướng khai thác các biện
pháp nghệ thuật.
Xuất phát từ thực tế và những trăn trở của bản thân, được đồng nghiệp
cộng tác, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đề xuất sáng kiến Một số hướng
khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam
trong chương trình Ngữ văn lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực
5



học sinh nhằm góp phần khắc phục bất cập trong dạy học bộ mơn, góp phần
cải thiện và nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn 9 trong trường THCS.
2. Cơ sở lí luận
Đối với bất kỳ cộng đồng cư dân văn hố nào, văn chương đều có ý
nghĩa cực kì to lớn trong nhận thức các tri thức muôn màu của dân tộc và
nhân loại, bồi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách con người, nhất là đối với
nước ta "một nước thơ" như Ngơ Thì Nhậm từng khẳng định.
Đến với văn chương, con người cảm nhận và ý thức sâu sắc được cái
đẹp, tiếp cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng và tình cảm cao đẹp,
sâu sắc và tinh tế, được bồi dưỡng về ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ phong phú,
sinh động, giàu sức biểu cảm nhất của dân tộc. Rõ ràng, văn chương là phần
có giá trị bậc nhất trong di sản tinh thần của dân tộc. Người Việt hôm qua,
hôm nay và cả mai sau đã và sẽ còn gửi vào văn chương những tri thức và
kinh nghiệm sống, tình yêu và khát vọng, đạo đức và triết học, thậm chí cả
tín ngưỡng của mình. Vì vậy, học văn là học làm người, học các phép tắc ứng
xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một mơn học nghệ thuật, kích thích trí
tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người học. Để dạy và học tốt môn
Ngữ văn, người dạy và người học phải không ngừng trau dồi vốn kiến thức
ngôn ngữ và các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ thuật, các nhà văn,
nhà thơ, các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh nghiệm cho
bản thân.
Khi đánh giá và tiếp nhận tác phẩm văn học, yếu tố được cơ bản và
then chốt nhất chính là giá trị nội dung và nghệ thuật (hình thức) của tác
phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ, thống nhất và tác động
qua lại lẫn nhau. Hình thức nghệ thuật chứa đựng nội dung. Nội dung phải
được thể hiện dưới một hình thức phù hợp. Hình thức là yếu tố thứ nhất,
khơng thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung, truyện ngắn tự sự hiện
đại Việt Nam nói riêng. Biêlinxki nhà phê bình lí luận văn học Nga nổi tiếng
đã khẳng định: “Trong tác phẩm nghệ thuật, nội dung và các hình thức nghệ

thuật phải ln hịa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác.
6


Nếu hủy diệt hình thức nghệ thuật thì cũng là hủy diệt nội dung tư tưởng của
tác phẩm và ngược lại cũng vậy ”. Cùng chung khẳng định này, Hêghen viết:
“Tác phẩm văn học mà thiếu đi hình thức nghệ thuật thích đáng thì khơng
phải là một tác phẩm văn học thực sự. Và đối với người nghệ sĩ khi đó sẽ là
một biểu hiện tồi nếu như người ta nói rằng về nội dung thì tác phẩm anh tốt,
nhưng nó thiếu đi các hình thức nghệ thuật thích đáng. Chỉ có những tác
phẩm văn học mà nội dung và hình thức thống nhất với nhau mới là những
tác phẩm văn học đích thực”.
Thế nhưng, thực tế dạy học mơn Ngữ văn trong trường phổ thông hiện
nay, nhất là với tác phẩm tự sự, thầy và trò mới chỉ chú trọng tìm hiểu nội
dung mà quên đi hoặc chưa chú ý đúng mức đến những hình thức nghệ thuật
của tác phẩm khiến bài học, giờ học khô khan, cứng nhắc, đơn điệu. HS
không hứng thú học tập, không hiểu được những giá trị tư tưởng mà tác giả
muốn gửi gắm, truyền đạt đến, đơi khi cịn hiểu sai giá trị của tác phẩm.
Chỉ khi nào cả thầy và trò nắm bắt được tồn diện tác phẩm, có một cái
nhìn bao quát về cả nội dung và nghệ thuật mới có thể hiểu đúng, hiểu sâu các
giá trị tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm. Chỉ khi hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm
mới thấm thía những giá trị nhân văn sâu sắc, thông điệp thẩm mỹ mà nhà văn
gửi gắm, từ đó mới có thể phát huy năng lực, phẩm chất của bản thân, vận
dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn.
Như vậy, muốn dạy phần truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, không thể không
khai thác các biện pháp nghệ thuật trong văn bản.
3. Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học dạy phần truyện hiện đại
Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9
3.1.Về phía giáo viên

Theo đánh giá chủ quan của tác giả và thực tế công tác quản lý chỉ đạo
dạy và học bộ môn nhiều năm cho thấy: nhiều giáo viên trong dạy học chủ
yếu là tập trung truyền thụ kiến thức trên cơ sở HS đọc sách giáo khoa hoặc
nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Trong quá trình phân tích văn bản, GV
7


làm việc q nhiều, phương pháp chính là thuyết trình, bình luận. Kết quả là
giờ học rất nhàm chán, HS hiểu tác phẩm mơ hồ, chung chung, khi phân tích
tác phẩm thường hợt hợt, thậm chí nhiều bài văn như một khuôn đúc sẵn. Đa
số GV chỉ đi sâu khai thác nội dung, chưa chú trọng khai thác nghệ thuật văn
bản. Khơng ít GV cịn lúng túng khi đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác nghệ
thuật, khả năng kết hợp từ nghệ thuật để làm nổi bật nội dung cịn yếu. Nhiều
văn bản mới đưa vào cũng gây khơng ít khó khăn khi tìm hiểu và truyền thụ
kiến thức. Kiến thức lí luận văn học cịn yếu và điều quan trọng là rất nhiều
GV còn chưa nắm bắt sâu sắc nhiệm vụ cơ bản của năm học là đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên chất
lượng dạy học còn hạn chế, chưa đáp ứng được với yêu cầu ngày càng cao
của giáo dục hiện đại.
Để có số liệu chính xác, khách quan khoa học về thực trạng dạy học dạy phần
truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9 làm cơ sở thực
tiễn của sáng kiến, chúng tôi đã tiến hành khảo sát GV và HS bằng phiếu hỏi:
Phiếu hỏi dành cho giáo viên:
Câu 1. Thầy (cô) thường dạy phần hoàn cảnh sáng tác các tác phẩm văn
học như thế nào?
a. Cho HS đọc

c. Cho HS tự đọc ở nhà

b. GV đọc cho HS nghe


d. Bỏ qua

Câu 2. Khi dạy về nội dung các tác phẩm, thầy (cô) thường khai thác cốt
truyện bằng cách nào?
a. Phân tích ngơn từ

b. Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật

c. Phân tích tình huống truyện

d. Phân tích ý nghĩa nhan đề truyện.

Câu 3. Thầy (cô) hiểu thế nào là dạy học Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực HS ?
a. Lấy GV làm trung tâm

b. Lấy kiến thức làm trung tâm

c. Lấy HS làm trung tâm

d. Lấy hoạt động của HS làm trung tâm

Câu 4. Thầy (cô) hay sử dụng phương pháp nào trong khi dạy các văn
bản văn xuôi tự sự?
8


a. Phân tích


b. Giảng bình

c. Tổ chức các hoạt động tích cực cho HS

d. Thuyết trình

Câu 5. Khi biên soạn câu hỏi, đề kiểm tra môn Ngữ văn, thầy (cô) hay ra
loại câu hỏi nào nhiều nhất?
a. Yêu cầu trình bày nôi dung

b. Yêu cầu liên hệ thực tế

c. Yêu cầu so sánh với tác phẩm khác

d. Yêu cầu sáng tạo văn học

e. Yêu cầu phân tích tác phẩm

g. Yêu cầu cảm thụ tác phẩm

Kết quả khảo sát như sau:
Câu 1: Chọn phương án a: 30%; b: 10%; c: 20% ; d: 40%
Câu 2: Chọn phương án a: 20%; b: 10%; c: 20%; d: 20%;
chọn cả a, b, c, d: 30%
Câu 3: Chọn phương án a: 13%; b: 20%; c: 30%; d: 37%
Câu 4:Chọn phương án a: 20%; b: 20%; c: 15%; d: 20%;
chọn cả a, b, c, d:25%
Câu 5: Chọn phương án a: 30%; b: 20%, c: 10%, d: 7%; e: 20%, g:13%
Kết quả trên cho thấy có 40% GV bỏ qua phần dạy hồn cảnh sáng tác,
nếu có dạy cũng chỉ dừng lại ở việc cho HS đọc, hoặc đọc cho HS nghe nên

các em không hiểu hoặc hiểu mơ hồ về hoàn cảnh sáng tác dẫn tới việc nắm
bắt nội dung văn bản rất mờ nhạt. Trong giờ dạy chỉ có 15% GV tổ chức các
hoạt động cho HS, nhưng có đến 85% GV thuyết trình, phân tích, giảng bình .
Chỉ có 37 % GV hiểu được thế nào là định hướng phát triển năng lực HS.
Như vậy chứng tỏ rằng GV vẫn chưa thực sự đổi mới về phương pháp dạy
học, còn hiểu lơ mơ về việc hình thành năng lực cho học sinh thơng qua mơn
học. Chính vì thế mà chất lượng dạy học Ngữ văn chưa cao, học sinh chán
học, thậm chí động cơ học môn văn của một số học sinh rất thực dụng, chủ
yếu là đối phó với việc thi cử, chuyển cấp học.
3.2. Về phía học sinh
Học sinh có nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm tự
sự. Một mặt do trình độ nhận thức của học sinh còn kém, tư duy sáng tạo

9


chưa sâu. Học sinh chưa nắm bắt được hết mối liên hệ giữa nội dung và hình
thức của một tác phẩm.
Tình trạng chung của HS khi soạn văn hiện nay là sử dụng sách tham
khảo, để học tốt và các tài liệu tham khảo khác để trả lới câu hỏi trong hướng
dẫn học bài. Vì vậy, bài soạn vẫn đầy đủ song đa số HS đều lúng túng, thụ
động, thiếu tự tin, thiếu sự tìm tịi, đánh giá, phân tích chi tiết, thực chất
khơng phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo, năng lực cá nhân của
các em.
Theo đó, trong từng đơn vị bài học, HS chưa xác định được kiến thức
trọng tâm. Lỗ hổng kiến thức từ các cấp lớp học cứ lớn dần, học trước quên
sau dẫn đến tình trạng các em rất khó tiếp thu được kiến thức của một văn bản
khi chứa nhiều hình thức nghệ thuật.
Khi phân tích tác phẩm tự sự, hầu hết HS khơng bám sát vào hình thức
nghệ thuật để chỉ ra cái hay cái đẹp của nội dung tác phẩm mà phần lớn chỉ

biết diễn xuôi nội dung một cách cứng nhắc và gượng ép, vụng về, tách nội
dung ra khỏi các hình thức tự sự, cá biệt có hiện tượng trong bài làm học sinh
cịn rơi vào tình trạng kể lại tác phẩm một cách đơn thuần.
Thêm nữa, một số văn bản trong chương trình có dung lượng lớn (tác
phẩm dài), nhưng thời lượng để học tập trên lớp lại hạn chế (chỉ từ 45 phút
đến 90 phút, kể cả rất nhiều các hoạt động khác), thầy và trị rất khó có thể
khai thác hết được tồn bộ các giá trị tác phẩm.
Thực tế đó thơi thúc chúng tôi tiến hành khảo sát 80 học sinh lớp 9
Phiếu hỏi dành cho học sinh:
Câu 1. Em có thích học các truyện ngắn khơng?
a. Thích

b. Bình thường

c. Khơng thích

Câu 2. Khi học các truyện ngắn các thầy cơ có chú trọng đến hồn cảnh
sáng tác khơng?
a. Có

b. Khơng

Câu 3. Trong khi tìm hiểu tác phẩm, em thích nhất nội dung gì?
a. Tìm hiểu hồn cảnh ra đời của tác phẩm.
10


b. Tìm hiểu các biện pháp nghệ thuật của tác phẩm.
c. Tìm hiểu nội dung của tác phẩm
d. Tìm hiểu nhân vật.

Câu 4. Em cảm nhận về giờ học ngữ văn khi nghiên cứu các tác phẩm
văn xuôi như thế nào ?
a. Tẻ nhạt

b. Khó hiểu

c. Dễ hiểu

d. Thích thú

Câu 5. Em có mong muốn gì khi học các văn bản Ngữ văn hiện nay?
a. Bài học cần ngắn gọn hơn nữa

b. Thầy cơ hướng dẫn phân tích TP

c. Cần tránh việc học thuộc lịng

d. Bài học cần có nhiều hình ảnh hơn

e. Thầy cơ hướng dẫn tự học

g. Khơng có mong muốn gì
Kết quả khảo sát như sau:

Câu 1: Chọn phương án a : 45%; b: 25%; c: 30%
Câu 2: Chọn phương án a : 70% ; b: 30%
Câu 3: Chọn phương án a: 20%; b: 25%; c: 30%; d: 25%
Câu 4: Chọn phương án a: 50%; b: 35%; c: 15%;d: 10%
Câu 5: Chọn phương án a: 30%; b: 20%; c: 15%; d: 10%; e: 20%; g: 5 %
Căn cứ vào kết quả khảo sát trên chúng tôi nhận thấy HS chưa thực sự phát

huy vai trò chủ động tích cực trong việc học tập. Sự hứng thú học tập mơn học và
sự hình thành các năng lực tiếp nhận và sáng tạo văn học rất hạn chế.

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4.1. Phương pháp nghiên cứu.
- Nghiên cứu tài liệu.
- Điều tra thực tế; Phiếu thăm dị.
- Dạy thực nghiệm.
- Tổ chức ngoại khóa; sắm vai.
4.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh hiểu thêm về các biện pháp nghệ thuật trong văn bản tự
sự hiện đại Việt Nam.
- Biết cách phân tích và đưa ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật
đó trong mối liên hệ với nội dung tác phẩm.

11


- Biết vận dụng các hiểu biết để phân tích các tác phẩm tự sự nói chung
và văn bản tự sự hiện đại Việt Nam nói riêng. Giáo viên có thể áp dụng vào
các bài dạy, biết cách khai thác và truyền thụ tốt hơn tới học sinh giá trị của
các hình thức nghệ thuật theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
4.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Giới hạn ở đối tượng học sinh khối 9 trường THCS .
Phạm vi là các văn bản tự sự hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tháng 8
(trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc và giai đoạn sau 1975) trong chương
trình. Cụ thể là 5 tác phẩm:
1. Làng Kim Lân 1948
2. Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long 1970
3. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng 1966

4. Những ngôi sao xa xôi Lê Minh Khuê - 1971
5. Bến quê Nguyễn Minh Châu trong tập Bến quê 1985.
Sáng kiến cũng giới thiệu giáo án minh họa là: Văn bản Chiếc lược ngà
Nguyễn Quang Sáng trong chương trình Ngữ văn 9 (Học kì I).
4.4. Quan điểm chung về dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh.
4.4.1. Năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Hiểu một cách
đơn giản là sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với một công
việc. Năng lực là một thuộc tính tâm lý phức tạp là điểm tụ hội của nhiều yếu
tố như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách
nhiệm. Năng lực gắn liền với khả năng hành động, thực hiện có trách nhiệm
và hiệu quả các hành động, giải quyết các tình huống trên cơ sở hiểu biết, kỹ
năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là phương pháp
dạy học theo định hướng tiếp cận năng lực của người học (học sinh làm được
gì thơng qua việc học). Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
chú trọng việc lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm, giáo viên giữ vai trò
là người tổ chức, điều khiển, hỗ trợ học sinh tự lực, tự hoc, tích cực lĩnh hội
12


tri thức và chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao
tiếp, tiến bộ trong học tập, khả năng vận dụng các tình huống vào thực tiễn.
Giáo viên cần chú ý sử dụng các quan điểm, phương pháp, kỹ thuật dạy học
tích cực, các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành. Ngồi việc hướng
dẫn học sinh học lí thuyết, nắm bắt kiến thức trên lớp, cần tổ chức các hình
thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động nhóm, thảo luận, ngoại khóa,
nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đấy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin...
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là mơ hình cụ thể

hóa của chương trình định hướng kết quả đầu ra, bởi vậy triển khai phương
pháp dạy hoc mới phải đi đôi với việc đổi mới về kiểm tra đánh giá. Các đề
thi kiểm tra chuyển nội dung đánh giá từ việc ghi nhớ, nắm bắt kiến thức sang
việc đánh giá khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống
trong thực tiễn cuộc sống, đánh giá năng lực của người học.
4.4.2. Một số năng lực chủ yếu cần hình thành và phát triển cho HS
khi dạy học các tác phẩm văn xuôi hiện đại Việt Nam
Năng lực tiếp nhận văn bản: Năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật,
tái hiện hình tượng nghệ thuật, liên tưởng, năng lực cảm thụ, so sánh, khái
quát hóa các chi tiết nghệ thuật, nhận biết thể loại, tự nhận thức và đánh giá.
Năng lực xã hội, giao tiếp, hợp tác.
Năng lực sáng tạo văn học: Lòng say mê văn học, năng lực phát triển
cảm xúc nhân văn và thẩm mĩ, năng lực tưởng tượng sáng tạo, năng lực tư
duy sáng tạo nghệ thuật khái qt hóa bằng hình tượng văn học, năng lực sáng
tạo ngôn từ....
4.5. Quan điểm chung về cách khai thác các biện pháp nghệ thuật
trong văn bản tự sự theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Trong một tác phẩm văn học, tác giả thường sử dụng, kết hợp rất
nhiều các biện pháp nghệ thuật để chuyển tải tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Tuy nhiên khi đọc hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường, căn cứ mục tiêu
bài học, thời gian theo quy định và đặc điểm đối tượng học sinh, thầy và trò
13


khơng thể tìm hiểu được tất cả cả biện pháp nghệ thuật có trong tác phẩm mà
chỉ tập trung vào một số biện pháp nghệ thuật chủ yếu, đặc sắc, tiêu biểu. Vì
vậy, GV cần có cái nhìn bao qt, cũng như khơng nên q sa đà vào việc tìm
hiểu tất cả các biện pháp nghệ thuật mà không chú ý đến nội dung, thơng
thường nghệ thuật chỉ có tác dụng làm nổi bật nội dung tác phẩm.
- Để tìm hiểu giá trị, ý nghĩa của các biện pháp nghệ thuật cụ thể trong

tác phẩm, rất cần cung cấp những khái niệm, thuật ngữ mang tính cơng cụ,
quan trọng thường gặp trong quá trình tiếp cận truyện hiện đại như: cốt
truyện, nhân vật, ngơi kể, điểm nhìn nghệ thuật,...
- Xác định trình tự khai thác các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm:
Từ phát hiện chi tiết đến xác định biện pháp nghệ thuật rồi nhận xét phân tích
tác dụng.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi khai thác, hiểu và cảm thụ các biện pháp
nghệ thuật một cách hợp lí.
- Khai thác các biện pháp nghệ thuật trong từng tác phẩm trong mối
quan hệ với các tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, cùng thời kì, hoặc trong cả
chương trình.
- Kết hợp giữa các tiết dạy theo phân phối chương trình với các tiết dạy
tự chọn, dạy ngoại khố... để cung cấp đầy đủ các kiến thức lý thuyết có liên
quan và khắc sâu kiến thức.
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết với thực hành. Cụ thể là bên
cạnh phân tích, cung cấp kiến thức cơ bản về tác phẩm trên lớp phải chú trọng
kĩ năng thực hành, thảo luận nói và nghe, tổ chức các hoạt động nhóm,... Đa
dạng hóa các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh nhằm kiểm tra, đánh
giá và thu nhận tín hiệu phản hồi từ kết quả lĩnh hội của học sinh, đồng thời
qua đó khắc sâu kiến thức của học sinh theo định hướng phát triển năng lực,
tăng cường đánh giá học sinh thông qua các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm
tra định kỳ hoặc các bài khảo sát, ra đề và đáp án theo hướng mở nhằm đánh
giá khả năng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống nảy sinh trong

14


thực tiễn cuộc sống, đánh giá năng lực cảm thụ, sáng tạo văn học và kỹ năng
sống của học sinh...
4.6. Một số hướng khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm

hiện đại Việt Nam theo định hướng phát triển năng lực học sinh
4.6.1. Một số khái niệm và kiến thức liên quan
Khi tìm hiểu Văn bản tự sự, giáo viên cần nắm vững và cung cấp cho
HS những khái niệm liên quan để khai thác tốt nhất văn bản (tập trung trong
các bài học Lí luận văn học trong chương trình và trong từng tiết đọc hiểu văn
bản).
Tác phẩm tự sự: Nếu trong tác phẩm trữ tình, hiện thực được tái hiện
qua những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ con người thì trong tác phẩm tự sự hiện
thực đời sống được phản ánh trong tính khách quan của nó. Con người, hành
vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nhất định (có thể là nhân vật
xưng tôi). Đây là yếu tố đặc trưng để nhận diện tác phẩm tự sự (hiểu rộng ra:
tác phẩm tự sự gồm anh hùng ca, sử thi, truyện thơ, trường ca, thơ trường
thiên, truyện ngụ ngôn).
Truyện ngắn tự sự: (chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi nhỏ) là hình
thức ngắn của tự sự, khuôn khổ ngắn, tái hiện lại cuộc sống đương thời. Nội
dung của truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay sử thi. Truyện
ngắn có thể kể về cả một cuộc đời, một đoạn đời hay một chốc lát trong cuộc
sống nhân vật. Cái chính của truyện ngắn không phải là hệ thống sự kiện mà ở
cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Truyện ngắn nói chung khơng phải là vì
truyện của nó ngắn mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại: ít nhân vật, ít
sự kiện phức tạp. Ở truyện ngắn, bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Kết
cấu thường là sự liên tưởng, tương phản. Ý nghĩa quan trọng nhất của truyện
ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và mang nhiều ẩn ý.
Nhân vật: Nhân vật là những con người có hành động, ngơn ngữ và
tính cách trong truyện. Nhân vật là trung tâm của truyện, thể hiện các quan
điểm của tác giả. Nhân vật trong truyện ngắn thường là một mảng nhỏ của thế
giới. Tồn tại các kiểu nhân vật như:
15



Nhân vật chức năng (hay mặt nạ), khơng có đời sống nội tâm, phẩm
chất và đặc điểm cố định đến cuối truyện.
Nhân vật loại hình: Thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức
của một loại người nhất định của xã hội (Anh thanh niên Lặng lẽ Sa Pa).
Nhân vật tính cách: Là nhân vật có diễn biến nội tâm phức tạp, khơng
đồng nhất, thường có một q trình phát triển với nhiều cung bậc, tâm trạng
khác nhau. (Thu Chiếc lược ngà, ông Hai Làng, Phương Định Những
ngôi sao xa xơi) có diễn biến phức tạp, đa dạng, nhiều chiều.
Nhân vật tư tưởng, nhận thức: Nhân vật nhận thức là kiểu nhân vật
chủ đạo trong truyện ngắn sau 1975. Nhân vật này cũng thể hiện một cá tính,
một nhân cách nhưng cái chính là một hiện tượng tư tưởng, nhận thức diễn ra
trong đời sống. Xét từ góc độ trần thuật: nhân vật là một chất liệu có tính bản
thể của văn bản tự sự. Chất liệu đó có thể được soi chiếu từ nhiều góc độ khác
nhau (như một thực thể sống, có số phận riêng tư và đời sống tâm lý cá biệt;
như một hình chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc của đời sống xã hội…).
Song dù ở góc độ nào, đó vẫn là một hệ thống có quan hệ nội tại và thống
nhất sâu sắc với cấu trúc tự sự của tác phẩm.
Từ nhận thức thế giới bên ngoài đến nhận thức thế giới tâm hồn mình là
bước phát triển mới của tư duy nghệ thuật về con người, gắn với sự thức tỉnh
ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Kiểu nhân vật này
thường gắn với chủ đề tự thú hay sám hối. Như Bến quê được tạo nên bởi sự
kết hợp hài hoà của nghệ thuật xây dựng hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng và
khả năng miêu tả tâm lí tinh tế. Qua tác phẩm người đọc cảm nhận được
những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời.
Đọc Bến quê ta thấy một cốt truyện đơn giản nhưng tính triết lí sâu sắc, có ý
nghĩa tổng kết về cuộc đời một con người. Tác giả đã đặt nhân vật của mình
vào những éo le, đầy nghịch lí (cả cuộc đời Nhĩ đã từng đi khơng sót một xó
xỉnh....rồi bãi bồi bên kia sơng Hồng - thật gần gũi nhưng chẳng bao giờ anh
đặt chân tới... rồi đứa con trai anh lỡ chuyến đò ngang...rồi đến lúc cuối đời
anh mới nhận ra sự tần tảo, đức hi sinh của vợ...). Phải chăng đặt nhân vật Nhĩ

16


vào cả một chuỗi những nghịch lí như thế nhà văn muốn hướng người đọc
vào nhận thức của cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những
điều bất thường "cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan".
Để nhân vật “thức tỉnh” nhà văn đã chú ý nhiều đến việc xây dựng tình
huống, miêu tả nội tâm nhân vật. Khắc họa nhân vật trong trạng thái đột biến
của nhận thức, nhà văn đã mở rộng biên độ khám phá con người ở chiều sâu
cảm thức. Mỗi con người có một số phận riêng, một tính cách riêng, một cuộc
đời riêng và chịu tác động khác nhau của các yếu tố trong cuộc sống, nhưng
tự ý thức luôn là điều cần thiết cho tất cả mọi người để tránh sai lầm và để
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhân vật cô đơn: Sau năm 1975 với sự đổi mới trong tư duy nghệ
thuật của nhà văn về con người nhu cầu tự ý thức trước sự đổi thay của đời
sống, các nhà văn đã quan tâm đến nhu cầu tự ý thức, đến sự thức tỉnh của cá
nhân, đến trạng thái tâm lí cơ đơn của con người. “Cơ đơn trở thành chủ đề
thu hút sự chú ý của nhiều cây bút văn xuôi, bởi bản chất của tâm trạng cô
đơn là khao khát cái đẹp, cái thiên lương của con người." Cô đơn là vấn đề
của mỗi bản thể, cá nhân nhưng nó khơng hẳn là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Có
thể nói từng cuộc đời riêng của mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng
đồng, của xã hội, một khía cạnh của chủ nghĩa nhân đạo hôm nay.
Nhân vật bi kịch: “Nếu muốn dùng sức mạnh của tay ta lay động thân
cây này, ta sẽ khơng thể làm nổi. Nhưng ngọn gió mà ta khơng nhìn thấy sẽ
dồi dập, bẻ cong thân cây theo ý muốn. Cũng thế chúng ta bị uốn cong và dồi
dập bởi những bàn tay vơ hình.” (Riezsche) Bi kịch là cái hầu như không xuất
hiện trong văn học Việt Nam 1945 - 1975, thậm chí nó cịn là điều cấm kị.
Luồng gió đổi mới đã đưa văn học về với quỹ đạo bình thường của nó. Cùng
với sự đổi mới mạnh mẽ quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực, các
nhà văn không ngần ngại đi sâu vào những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn

nhân thế, thể hiện cảm nhận sâu sắc về những mất mát của con người.
Cốt truyện: Là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ
truyện lớn, truyện nhỏ cốt truyện nói chung cũng bao gồm các thành phần
17


chính là thắt nút - phát triển - cao trào - mở nút. Có cốt truyện thì đơn giản
(như truyện Lặng lẽ Sa Pa cốt truyện chỉ xoay quanh một tình huống gặp gỡ
bất ngờ giữa ơng họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở
trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn nhân vật chính chỉ hiện ra trong chốc lát
nhưng để lại cho các nhân vật khác nhiều tình cảm tốt đẹp), có cốt truyện thì
phức tạp. Mục đích của cốt truyện là giúp người đọc nhận ra một điều gì đó
và gửi gắm tư tưởng của mình vào trong đó.
Kết cấu: là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Là toàn bộ
tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ cơ thể mà nhà
văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm khơng bao giờ tách rời nội dung
cuộc sống và nội dung tư tưởng trong tác phẩm văn học.
Trần thuật: Là yếu tố quan trọng trong văn bản tự sự. Trần thuật là sự
trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi
về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách
cảm nhất định. Đây là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới
người thưởng thức.
4.6.2. Đặc điểm của văn bản tự sự hiện đại Việt Nam.
Văn bản tự sự Việt Nam nằm trong chương trình ngữ văn lớp 9, gồm 5
tác phẩm (như chúng tơi đã nói ở trên) sáng tác theo 3 giai đoạn chính: Kháng
chiến chống Pháp (Làng – Kim Lân), kháng chiến chống Mĩ (Chiếc lược
ngà, Lặng lẽ Sa Pa, Những ngôi sao xa xôi), sau 1975 Giai đoạn đất nước
thống nhất. (Bến quê).
Đề tài và nội dung các tác phẩm này rất đa dạng, mở ra những bức
tranh phong phú về đời sống và con người ở rất nhiều vùng, miền đất nước,

trong nhiều hồn cảnh, với những tính cách và số phận khác nhau, phản ánh
rõ nét thành tựu và đặc điểm của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945:
+ Hình ảnh con người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. (ơng Hai có tình yêu làng đặt trong
tình cảm yêu nước và kháng chiến. Bé Thu có tính cách cứng cỏi, tình cảm
18


nồng nàn, thắm thiết với cha, Ông Sáu, hay ba cơ thanh niên xung phong có
tinh thần dũng cảm khơng sợ hi sinh, tình cảm trong sáng, hồn nhiên, lạc quan
trong hồn cảnh chiến tranh ác liệt).
+ Tình u q hương đất nước, trân trọng vẻ đẹp bình dị của quê
hương. (Nhân vật Nhĩ Bến quê cảm nhận vẻ đẹp của quê hương mình lúc
nằm trên giường bệnh).
+ Vẻ đẹp của con người lao động bình dị, chân chính (anh thanh niên
với cơng việc thầm lặng, tính cách cao đẹp, cống hiến sức mình cho đất
nước).
4.6.3. Các biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng và cách khai
thác tìm hiểu, hướng dẫn học sinh
Đọc hiểu các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn 9, địi hỏi giáo viên và học sinh phải nắm chắc kiến thức và cách
triển khai, phân tích một tác phẩm như: cốt truyện, người kể chuyện, nhân vật,
ngôn ngữ, các lời đối thoại, độc thoại và cả độc thoại nội tâm trong văn bản,
nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngơn ngữ nhân vật, hệ thống ngôn ngữ, sử dụng
bút pháp tái hiện hiện thực nghiêm ngặt, hay cách tạo tình huống truyện, hay
cách sử dụng ngôn ngữ địa phương.
4.6.3.1. Phương thức trần thuật (Người kể chuyện trong văn bản tự
sự hiện đại Việt Nam).
*Quan điểm về phương thức trần thuật

Nói đến phương thức trần thuật hay là nói đến điểm nhìn trần thuật, nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã đưa ra một định
nghĩa có thể coi là tồn diện về điểm nhìn trần thuật: “Nó khơng chỉ là điểm
nhìn thuần túy quang học mà cịn mang nội dung quan điểm, lập trường, tư
tưởng, tâm lí của con người”. Có nghĩa là trần thuật được đặt ở vị trí nào thì
đối với tác phẩm nghệ thuật cũng khơng thể thiếu vắng điểm nhìn ở vị trí ấy.
Có rất nhiều điểm nhìn trần thuật: Điểm nhìn bên ngồi, điểm nhìn
bên trong, điểm nhìn khơng gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thời gian,
điểm nhìn tâm lí, điểm nhìn của nhân vật được kể. Khảo sát 5 truyện ngắn
19


hiện đại Việt Nam trong chương trình ngữ văn 9, chúng tơi nhận thấy những
câu chuyện kể thường có sự đan xen, nhập nhòa giữa chủ thể sáng tạo là tác
giả với người trần thuật. Đó là cội nguồn của sự nhận thức, phán đoán, kiến
giải chủ quan mà nhà văn hiện hình nó trên văn bản của mình. Người trần
thuật trong truyện ngắn luôn truyền tải được đầy đủ và sắc nét những yêu
thương, tâm tình, những khát khao về hạnh phúc gia đình, hồ bình, tình u
q hương đất nước...
Người kể chuyện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với
những ngơi kể khác nhau, khi vô nhân xưng, khi nhập vào một nhân vật trong
truyện, thông thường trong văn bản tự sự hiện đại Việt Nam người kể chuyện
xuất hiện ở ngôi thứ nhất xưng “tơi” hoặc là ngơi thứ ba. Khi trình bày miêu
tả, người kể chuyện thường gắn với điểm nhìn nhất định.
Người ta thường dùng ba điểm nhìn trong văn bản tự sự hiện đại Việt
Nam.
Điểm nhìn bên trong (điểm nhìn thơng qua đơi mắt của một nhân vật
trong truyện), theo lí thuyết tự sự học, người kể chuyện mang điểm nhìn bên
trong khi anh ta/chị ta là nhân vật có mặt trực tiếp ngay trong câu chuyện.
Điểm nhìn trần thuật bên trong ln được biểu hiện bằng hình thức tự quan

sát, tự thú nhận của nhân vật, hoặc bằng hình thức người trần thuật dựa vào
cảm giác, tâm hồn nhạy cảm của nhân vật để biểu hiện thế giới nội tâm bên
trong của nhân vật. Với dạng thức này, người kể chuyện sẽ đảm nhiệm vai trò
kể chuyện từ đầu đến cuối và có vai trị to lớn trong việc quyết định cấu trúc
tác phẩm cũng như toàn quyền miêu tả nhân vật khác từ điểm nhìn của bản
thân. Có nghĩa là, người kể chuyện đứng trong tầm sự kiện được kể, có tham
gia phần nào vào hoạt động khi sự kiện xảy ra. Người kể chuyện ở đây cũng
chỉ biết và chỉ kể được những thông tin tương đương với nhân vật trực tiếp
tham gia trong tác phẩm. Về bản chất, điểm nhìn của nhân vật chính là điểm
nhìn mà người kể chuyện lấy đôi mắt của nhân vật thay cho đơi mắt riêng của
mình. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn
Thành Long thuộc tác phẩm sử dụng điểm nhìn bên trong.
20


Điểm nhìn bên ngồi: Điểm nhìn trần thuật bên ngồi (hay cịn gọi là
điểm nhìn trần thuật theo ngơi thứ ba - tác giả). Đây là điểm nhìn phổ biến
trong văn học truyền thống với cái nhìn thuần túy khách quan, khơng thuộc về
ai. Với điểm nhìn này, người kể chuyện thường giấu mặt (ẩn mình) để bao
quát hết thảy câu chuyện rồi kể lại theo ý kiến riêng của mình. Người kể
chuyện chỉ đứng im mà quan sát, sau đó ghi lại những lời nói và hành động
của nhân vật giống như một nhà quay phim quay lại thước phim đó. Người
trần thuật ở đây ln giữ một khoảng cách xa với câu chuyện được kể và nói
ít hơn tất cả nhân vật trong tác phẩm. Làng của nhà văn Kim Lân là một minh
chứng.
Cả hai điểm nhìn trên có mặt ưu điểm và cũng có mặt hạn chế. Mặt
mạnh của điểm nhìn trần thuật bên ngồi là ở cái nhìn khách quan, cịn điểm
nhìn trần thuật bên trong lại mạnh ở cái nhìn chủ quan. Chính sự khéo léo khi
sử dụng điểm nhìn nghệ thuật đã giúp truyện ngắn hiện đại Việt Nam trong
chương trình Ngữ văn 9 đi vào lịng người đọc.

Ngồi hình thức kể trên, cịn thường xuất hiện hình thức kể chuyện theo
ngơi thứ ba, qua đó người kể giấu mình nhưng có mặt ở khắp mọi nơi trong
tác phẩm. Người kể chuyện này dường như biết hết mọi việc, mọi hành động,
tâm tư, tình cảm, của các nhân vật. Người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người
đọc đi vào câu chuyện giới thiệu nhân vật và tình huống truyện, tả người và tả
cảnh vật, đưa ra các nhận xét và đánh giá về điều được kể. Trong tác phẩm
Lặng lẽ Sa Pa, người kể chuyện dường như biết hết mọi thay đổi tâm lí tình
cảm của anh thanh niên, cơ kĩ sư hay ông họa sĩ. Giáo viên có thể cho học
sinh so sánh tác dụng và hạn chế của từng ngôi kể bằng việc đưa ra một số
những câu hỏi so sánh ví dụ như: “Em hãy cho biết ngơi kể này có ưu điểm và
hạn chế gì so với các ngơi kể khác trong việc thể hiện nội dung tác phẩm và
tâm lí nhân vật? ” hay “So sánh ngơi kể của tác phẩm Lặng lẽ SaPa và ngôi
kể trong tác phẩm Bến quê”; Giáo viên có thể cho học sinh thay ngôi kể ở
một đoạn văn trong tác phẩm để làm rõ sự khác nhau trong cách miêu tả nhân
vật, qua đó thấy được ưu và nhược điểm của từng loại điểm nhìn.
21


* Cách khai thác “điểm nhìn” trong quá trình phân tích tác phẩm
Trong q trình tổ chức các hoạt động đọc hiểu văn bản truyện hiện đại
trong chương trình Ngữ văn 9, giáo viên có thể và cần kết hợp linh hoạt cách
khai thác điểm nhìn trần thuật trên cơ sở từng tác phẩm ở từng thời điểm như:
khai thác ngay trong hoạt động tìm hiểu chung, trong quá trình đọc hiểu, phân
tích tác phẩm và nhân vật, khi tổ chức hoạt động tổng kết giá trị nghệ thuật,
nội dung của tác phẩm, khi liên hệ so sánh với các tác phẩm khác và trong
hoạt động hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứu và giao bài tập, Kiểm tra
định kỳ, thường xuyên,….
* Mức độ khai thác
Mức độ khai thác vai trị, ý nghĩa của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm
cũng được thực hiện linh hoạt như: phát hiện, nhận biết điểm nhìn trong từng

tác phẩm. (quá trình đọc hiểu), tìm hiểu tác phẩm (khi phân tích), nhận xét,
đánh giá. (khi liên hệ, so sánh hoặc tổng kết),…
Ví dụ: Khi đọc hiểu văn bản Lặng lẽ Sa Pa có thể u cầu HS phát
hiện ngơi kể. Trong phần tổng kết, yêu cầu học sinh tự tìm hiểu đặc điểm, tác
dụng của ngôi kể. Học sinh sẽ thấy: truyện được kể ở ngôi thứ 3, nhưng gần
như được trần thuật theo điểm nhìn của ơng hoạ sĩ. Giữa nhân vật nhà hoạ sĩ
và nhà văn có một mối liên hệ rất chặt chẽ. Hoạ sĩ hay chính là người phát
ngôn nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Nhà văn đã mượn nhân vật
để bày tỏ quan điểm của mình về nghệ thuật chân chính một cách khách
quan, hợp lý.
Khi HS học xong hai tác phẩm: Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang
Sáng và Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, GV có thể cho các em so
sánh ngôi kể giữa hai tác phẩm. Hai truyện ngắn đều có điểm nhìn trần thuật
là ngơi thứ nhất, nhưng lựa chọn nhân vật trần thuật lại khác nhau. Một truyện
chọn ngơi kể là nhân vật chính, một truyện lại chọn người kể chuyện ngôi thứ
nhất nhưng là nhân vật phụ.
Từ đó, ta nhận thấy: việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật đóng vai trị
quan trọng trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
22


4.6.3.2.Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật
* Vai trị của nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật
Đây là yếu tố rất quan trọng trong văn bản tự sự. HS có nắm chắc được
sự thay đổi tâm lí nhân vật, nắm được những rung động tinh vi và sắc sảo thì
mới hiểu hết về các phẩm chất tính cách của nhân vật. Tùy từng nhân vật
khác nhau, từng tác phẩm khác nhau và tùy thuộc vào xu hướng miêu tả của
tác giả mà khắc họa được sự thay đổi tâm lí của nhân vật.
*Cách khai thác nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật
Giáo viên phải làm cho học sinh thấy được sự miêu tả diễn biến tâm lí

tinh tế của tác giả, bằng cách sử dụng một hệ thống câu hỏi tích hợp, gợi mở,
liên tưởng, qua đó học sinh khơng chỉ nhận thấy nghệ thuật đặc sắc mà còn
hiểu rõ mối liên hệ với nội dung tác phẩm. Có thể lựa chọn một số cách khai
thác chủ yếu là:
- Phân tích nhân vật qua các chi tiết nghệ thuật gồm: ngoại hình,
hành động, ngôn ngữ, dáng vẻ, cử chỉ...Nghệ thuật khắc họa thiên nhiên,
khơng gian, thời gian...
- Xâu chuỗi q trình diễn biến tâm lý nhân vật từ đầu tới cuối:
Phương pháp khai thác này thường làm khi việc phân tích nhân vật đã gần
hồn thiện.
Ví dụ: Lê Minh Kh cũng đã rất thành công khi miêu tả nhân vật
Phương Định qua nhiều phương diện. Là một cơ gái Hà Nội, hình thức khá,
có bím tóc dày, cổ cao kiêu hãnh như một đài hoa loa kèn, Phương Định yêu
thương những người đồng đội của mình, cơ có một thế giới nội tâm khá phức
tạp. Qua một lần phá bom, tâm lí của Phương Định hiện lên thật rõ nét. Giáo
viên có thể cho học sinh sắp xếp sự diễn biến tâm lí của Phương Định theo
như văn bản đã miêu tả. Câu hỏi tích hợp “Em cịn bắt gặp biện pháp nghệ
thuật này ở những văn bản đã học nào”.
Ví dụ khác: Để nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngơn ngữ nhân
vật ơng Hai của Kim Lân thì trong khi phân tích diễn biến tâm lí nhân vật này,
giáo viên có thể đưa câu hỏi gợi ý cho học sinh nhận xét: “Tâm lí nhân vật
23


được thể hiện qua những phương diện nào (hành động, ngôn ngữ độc thoại
và đối thoại).
? Nhận xét về quá trình diễn biến tâm lý nhân vật ơng Hai từ khi nghe
tin làng theo giặc đến khi cái tin ấy được cải chính?
Kim Lân đã đặt nhân vật ơng Hai vào tình huống thử thách bên trong
để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Tác giả đã miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn

biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ…đặt biệt, diễn tả rất đúng và
gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Khi
nghe tin làng theo giặc, ông Hai dằn vặt đau khổ, được tin cải chính ơng lại
vui tươi rạng rỡ hẳn lên. Kim Lân miêu tả đúng những phản ứng của một
người nông dân hiền lành chất phác, chưa đọc thông viết thạo, khi muốn biết
tin tức thì xem tranh ảnh vờ vờ, chờ người ta đọc rồi nghe lỏm. Khi nghe tin
xấu thì cúi gằm mà đi. Khi nghe tin cải chính thì múa tay lên mà khoe. Đặc
biệt là các hình thức trần thuật đối thoại, độc thoại. Tâm sự với con chính là tự
nhủ với lịng mình, tự dặn lịng, đối thoại cũng là độc thoại, Kim Lân làm rõ
trong tâm hồn ông Hai, không lúc nào nguôi ngoai nhớ quê, tin những điều tốt
đẹp, cố giữ khơng vẩn đục, đón đợi một điều gì đỡ đau đớn tuyệt vọng hơn.
GV cho HS hiểu việc chứng tỏ rằng Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân
và thế giới tinh thần của họ.
4.6.3.3 Ngôn ngữ và giọng điệu
*Ngôn ngữ và giọng điệu của nhân vật
Ngôn ngữ
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “ngôn ngữ văn học là một trong
những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của
nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết
sâu sắc ngơn ngữ”.
Trong tác phẩm tự sự, trần thuật chính là thành phần lời sáng tạo của
tác giả, của người trần thuật. Cho nên, ngơn ngữ trần thuật chính là nơi bộc lộ
ý thức sử dụng ngơn ngữ có chủ ý của nhà văn. “Ngôn ngữ người trần thuật
là phần lời độc thoại thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm người kể
24


chuyện đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngơn
ngữ”.

Ngơn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Trong văn học
hiện đại, ngôn ngữ trần thuật là linh hồn của tác phẩm cũng như định hình
được phong cách độc đáo của mỗi nhà văn. Việc tìm tịi, đổi mới, cách tân
trong ngôn ngữ trần thuật cũng là hướng đi của văn xuôi đương đại nhằm thúc
đẩy cách sáng tạo, cách hiểu, cách tiếp nhận về gần với đặc trưng thẩm mỹ
của văn học. Các truyện ngắn hiện đại chương trình Ngữ văn 9, các nhà văn
thường sử dụng đắc địa những hình thức ngơn ngữ sau:
+ Ngơn ngữ đời thường, mang đậm chất dân gian
Một trong những xu hướng đổi mới ấy là việc sử dụng ngôn ngữ đời
thường. Để đưa tác phẩm đến gần với bạn đọc, các nhà văn đã sử dụng tiếng
nói của đời sống hằng ngày với sự dung nạp nhiều khẩu ngữ vào tác phẩm
như truyện Làng của Kim Lân, Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Trong truyện ngắn của Kim Lân chúng ta cịn thấy cả sự suồng sã thậm chí bỗ
bã của lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chính cái chất dân dã đời thường trong
ngôn ngữ đã tạo cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen. Nhiều câu văn
đọc lên rất thú vị nhờ sự hồn nhiên của ngôn ngữ như trong tác phẩm: Cha mẹ
tiên sư nhà nó...một nhát. Chúng bay ăn miếng cơm hay ...nhục nhã thế này.
Hay đoạn đối thoại giữa ông Hai với thằng Húc hoặc với mụ chủ nhà. GV
cũng cần làm cho HS hiểu về đặc sắc ngôn ngữ của nhân vật ơng Hai: đó là
ngơn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ và là lời ăn tiếng nói của người nơng dân.
Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do
truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của nhân vật ơng Hai.
+ Ngơn ngữ mang tính phiếm chỉ
Truyện ngắn hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 9 thường
dùng đại từ phiếm chỉ để gọi tên nhân vật của mình. Nhân vật nam được gọi
là: anh, anh ta, người cha, anh ấy, ông, người đàn ông…, nhân vật nữ được
gọi là: cô, chị, đứa con gái nhỏ,… Cách gọi này không những không làm mờ
25



×