Luận văn Th.S: HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA THUẾ
Ở CỤC THUẾ TỈNH BÌNH DƯƠNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ KIỂM TRA, THANH TRA THUẾ
1.1 Các lý luận cơ bản về kiểm tra, thanh tra thuế
1.1.1 Khái niệm về kiểm tra, thanh tra thuế
Hoạt động quản lý Nhà nước chính là sự tác động có định hướng của chủ thể quản
lý (cơ quan thuế) tới các đối tượng quản lý (Đối tượng nộp thuế) nhằm đạt được mục tiêu
động viên một phần thu nhập quốc dân vào NSNN. Do vậy kiểm tra, thanh tra thuế chính
là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt động Lãnh đạo quản lý Nhà nước
của cơ quan thuế. Hoạt động quản lý của cơ quan thuế bao gồm từ việc xây dựng các mục
iêu kế hoạch trong giai đoạn nhất định đến việc tổ chức để thực hiện các mục tiêu kế oạch
đó và sau cùng là tiến hành kiểm tra, thanh tra thuế, việc thực hiện đó như thế nào để từ
đó tác động ngược trở lại từ khâu xác định chủ trương kế hoạch có hợp lý hay hông nhằm
đảm bảo cho hoạt động của cơ quan thuế đạt được hiệu quả cao. Kiểm tra, thanh tra thuế
là một trong bốn chức năng cơ bản của quản lý thuế theo mô hình chức năng. Bên cạnh
việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai tự nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế thực
hiện các biện pháp giám sát hiệu quả vừa đảm bảo khuyến khích sự tuân thủ tự nguyện,
vừa đảm bảo phát hiện ngăn ngừa các trường hợp vi phạm pháp luật thuế. Kiểm tra, thanh
tra thuế là một biện pháp hữu hiệu nhằm phát hiện ngăn ngừa vi phạm, giúp người nộp
thuế nhận thấy luôn có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn tại và kịp thời phát hiện các
hành vi vi phạm của họ.
Kiểm tra, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt
động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành
chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, nhằm bảo đảm pháp luật
thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế – xã hội.
Kiểm tra và thanh tra thuế có những điểm giống nhau và khác nhau chủ yếu sau:
Kiểm tra, thanh tra thuế giống nhau :
+ Về mục đích: Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
+ Về cách thức tiến hành: Xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để phân tích,
đánh giá, phát hiện và xử lý theo quy định pháp luật về thuế.
+ Về nội dung: đều xem xét doanh thu, chi phí, lợi nhuận.
+ Về phương pháp: đều phải phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc xử lý dữ
liệu, tính toán lại và xác minh.
Kiểm tra, thanh tra thuế khác nhau:
+ Về đối tượng: Thanh tra áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh doanh đa
dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi có dấu hiệu vi phạm
pháp luật về thuế, hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng
cơ quan quản lý thuế các cấp.
+ Về phạm vi nội dung: Thanh tra thường là nội dung rộng, phức tạp, có thể liên
quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau.
+ Về biện pháp áp dụng: thanh tra được áp dụng các biện pháp mạnh hơn (tạm giữ
tang vật, tài liệu; khám nơi cất dấu tang vật, tài liệu – theo quy định của Luật quản lý
thuế).
+ Về hình thức tổ chức: Đoàn có thể tổ chức thành các Tổ để đi sâu vào từng nội
dung thanh tra.
+ Về thời gian: thanh tra thường là không quá 30 ngày, kiểm tra thường không quá
5 ngày.
1.1.2 Mục tiêu của kiểm tra, thanh tra thuế
Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giúp các đối tượng nộp thuế và cơ quan
thuế thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật về công tác quản lý thu ngân sách
đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của ngành. Thông qua công tác kiểm tra, thanh
tra thuế nhằm đánh giá việc chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế và người
thu thuế nhằm phát huy nhân tố tích cực, đấu tranh ngăn ngừa và xử lý những mặt tiêu
cực. Căn cứ vào những kiến nghị của kết quả kiểm tra, thanh tra, cơ quan thuế các cấp có
thể đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, đưa Luật thuế vào cuộc sống thực tế, đảm bảo
sự công bằng trong việc thực hiện luật thuế, đồng thời cải cách được các quy trình quản
lý thu thuế ngày càng hợp lý hơn.
Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra thuế nhằm hướng dẫn, giúp đỡ đối tượng
nộp thuế nắm được nghĩa vụ và quyền hạn của đơn vị khi thực hiện luật thuế; đồng thời
nâng cao trách nhiệm của công chức ngành thuế khi thi hành công vụ.
Thông qua công tác thanh tra nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa những
hành vị tiêu cực, tham nhũng phát sinh, để xây dựng cơ quan thuế trong sạch vững mạnh
với đội ngũ cán bộ thuế về phẩm chất đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn.
1.1.3 Nguyên tắc kiểm tra, thanh tra thuế
Để công tác kiểm tra, thanh tra thuế đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo những nguyên tắc
sau
- Kiểm tra, thanh tra thuế phải trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến
người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu
thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế - Trong quá trình kiểm tra,
thanh tra thuế phải tuân thủ theo pháp luật, đảm bảo tính đúng đắn khách quan, công
khai, dân chủ, khi kết luận một vấn đề phải có chứng lý, không được suy diễn.
- Kiểm tra, thanh tra thuế phải thực hiện đúng quy trình do ngành đã quy định.
- Việc tiến hành kiểm tra, thanh tra thuế phải thực hiện theo kế hoạch và nội dung
đề cương được duyệt.
- Trong khi kiểm tra, thanh tra thuế phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quần
chúng, phát huy dân chủ động viên tham gia cung cấp tài liệu số liệu thông tin cho đoàn.
- Nghiêm cấm cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra thuế cố ý làm sai lệch nội
dung vụ việc hoặc mở rộng nội dung, phạm vi thanh tra, kiểm tra; lợi dụng quyền hạn để
sách nhiễu gây phiền hà cho đơn vị, bao che người vi phạm hoặc truy ép đơn vị trong
việc giải trình, trả lời chất vấn.
- Căn cứ vào mục đích của từng cuộc kiểm tra, thanh tra thuế đòi hỏi người ra quyết
định thành lập đoàn thanh tra phải cử đúng những người có trình độ kỹ năng nghiệp vụ
phù hợp.
1.1.4 Vai trò của kiểm tra, thanh tra thuế
- Kiểm tra, thanh tra thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật về thuế
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc thuế
điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương pháp quản lý thu
khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều đã được nghiên cứu kỹ và
chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế nước ta đang ở thời kỳ chuyển đổi từ
hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên không
tránh khỏi những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy kiểm tra, thanh tra thuế là nơi cung
cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh một cách chân thực, sống động các hoạt
động diễn ra trong thực tế, để phục vụ cho việc hòan thiện, bổ sung các chính sách cho
phù hợp.
- Kiểm tra, thanh tra thuế là phương tiện phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật và
tội phạm nảy sinh trong hoạt động quản lý thuế.
Với tư cách là công cụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước,kiểm tra, thanh tra
thuế chính là việc xem xét tại chỗ việc làm của các tổ chức, cơ quan và các cá nhân có
đúng quy định của chính sách, pháp luật về thuế hay không? Qua đó sử dụng các biện
pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm ngăn ngừa hành vi vi
phạm pháp luật của ĐTNT.
Thực tế cho thấy không có hệ thống pháp luật nào có thể đảm bảo là không khiếm
huyết. Đây chính là nguyên nhân để các đối tượng lợi dụng , cố tình lách luật để trục lợi
cá nhân. Kiểm tra, thanh tra thuế phải phát hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực để ngăn
ngừa kịp thời.
- Kiểm tra, thanh tra thuế có vai trò quan trọng trong việc cải cách thủ tục hành
chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện.Thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế
giúp giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế không cần thiết gây phiền hà đến nhân dân
và doanh nghiệp.
1.2 Các hình thức và nội dung về kiểm tra, thanh tra thuế
1.2.1 Các hình thức kiểm tra, thanh tra thuế
1.2.1.1 Theo tính kế hoạch
Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế có hai hình thức là
kiểm tra, thanh tra theo chương trình, kế hoạch và kiểm tra , thanh tra đột xuất.
- Kiểm tra, thanh tra thuế theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo chương
trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình hình chấp hành
pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan thuế xây dựng kế hoạch
kiểm tra, thanh tra và trình cấp thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm
tra, thanh tra thuế được phê duyệt.
- Kiểm tra, thanh tra thuế đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức cá
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo hoặc do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
1.2.1.2 Theo nội dụng và phạm vi kiểm tra, thanh tra thuế
Theo tiêu thức này, kiểm tra, thanh tra thuế được chia thành hai loại là kiểm tra,
thanh tra toàn diện và kiểm tra, thanh tra hạn chế.
- Thanh tra toàn diện:
Với chức năng này, cơ quan chức năng tiến hành thanh tra toàn diện sẽ thực hiện
các cuộc thanh tra toàn diện hoặc thanh tra tổng hợp về mọi sắc thuế thu nhập, GTGT,
TTĐB và các sắc thuế khác trên cơ sở tờ khai thuế hàng năm. Đây là loại hình thanh tra
sâu và phạm vi rộng cho phép kết luận về những vấn đề mà ĐTNT chưa tuân thủ pháp
luật thuế. Thanh tra toàn diện liên quan đến:
+ Nhiều sắc thuế - nghĩa là thanh tra tổng hợp các sắc thuế thu nhập, GTGT, TTĐB
và các sắc thuế khác theo pháp luật thuế
+ Nhiều kỳ tính thuế - đối với những sắc thuế nộp tờ khai năm thì thời kỳ kiểm tra
là những kỳ tính thuế gần nhất và chỉ khi có các phát hiện trong quá trình thanh tra thấy
cần thiết mới mở rộng phạm vi thanh tra. Đối với những sắc thuế nộp tờ khai tháng thì
thời kỳ thanh tra thường là kỳ tính thuế gần nhất cộng với 2 kỳ tính thuế nữa, tuy nhiên
thanh tra dạng này thường là ngoại lệ.
+ Phạm vi thanh tra không hạn chế hoặc rộng - các cuộc thanh tra dạng này sử dụng
các kỹ thuật chọn mẫu thích hợp và sẽ quyết định mở rộng phạm vi thanh tra (trên cơ sở
rủi ro) và thời kỳ kiểm tra khi các kết quả của công tác đánh giá rủi ro hoặc các phát hiện
trong quá trình thanh tra chứng minh sự cần thiết.
+ Nhóm ĐTNT trọng điểm - phần lớn đối tượng của thanh tra toàn diện là các
ĐTNT lớn.
+ Địa điểm tiến hành - thường ở trụ sở của ĐTNT chứ không ở cơ quan thuế.
+ Thời gian/độ dài cuộc thanh tra - thời gian thanh tra toàn diện 1 ĐTNT lớn là 60
ngày (2 cán bộ x 30 ngày) và thời gian thanh tra toàn diện ĐTNT vừa là 30 ngày. (2 cán
bộ x 15 ngày).
- Thanh tra hạn chế (Thanh tra hoàn thuế, một sắc thuế, dự án, phạm vi hạn chế…)
+ Thanh tra hạn chế là loại thanh tra bị hạn chế về phạm vi, có thể là thanh tra hoàn
thuế GTGT, thanh tra dự án về hạng mục chi phí hoặc một chỉ tiêu nào đó trên bảng cân
đối kế toán hoặc báo cáo lỗ lãi.
+ Một cách khác để xác định thanh tra hạn chế là công việc thanh tra chỉ hạn chế
đối với một số chỉ tiêu nhất định và không bao gồm các phép thử hay các bước tuần tự
thanh tra cần thiết cho phép cán bộ thanh tra đánh giá được tổng thể mức độ tuân thủ hay
không tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT bị thanh tra. Thông thường thanh tra bao gồm
việc rà lại các chứng từ liên quan trực tiếp đến (các) vấn đề được kiểm tra. Loại hình
thanh tra này thường được bắt đầu từ một trong những nguồn sau:
• Đề xuất của bộ phận rà soát các tờ khai
• Một dự án hay chương trình liên quan đến vấn đề cụ thể cần được kiểm tra
• Hướng dẫn của cán bộ thanh tra cấp cao hơn
• Thanh tra 1 ĐTNT khác về 1 vấn đề cụ thể
Thanh tra hoàn thuế cần tập trung vào các hồ sơ hoàn thuế rủi ro cao, và chỉ thanh
tra thời kỳ yêu cầu hoàn thuế. Tính tin cậy và chính xác của hồ sơ hoàn thuế cần được
kiểm tra thử trên cơ sở chọn mẫu. Đối với thanh tra hoàn thuế, chỉ khi kết quả chọn mẫu
cho thấy cần mở rộng thanh tra thêm thì mới cần tiến hành xác minh thêm. Thông
thường, thanh tra hoàn thuế ĐTNT lớn hoàn tất trong 15 ngày, ĐTNT vừa là 10 ngày.
1.2.1.3 Theo địa điểm tiến hành kiểm tra, thanh tra
- Kiểm tra, thanh tra tại bàn: Việc thanh tra hoặc kiểm tra tại bàn có thể áp dụng đối với
bất kỳ tờ khai thuế nào, bao gồm kiểm tra các chỉ tiêu thu nhập, chi phí hoặc hoàn thuế.
Thanh tra tại bàn không cần đến tận cơ sở ĐTNT. Phạm vi thanh tra thường hạn chế
chỉ để xác minh một số vấn đề cụ thể đã được cán bộ rà soát tờ khai lưu ý hoặc được lưu
chuyển qua các khâu (xử lý trước đó).
Thanh tra tại bàn thực hiện đối chiếu chéo những thông tin kê khai trong tờ khai cụ
thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và kiểm tra chéo dữ liệu thông qua
việc yêu cầu ĐTNT mang đến và xuất trình sổ sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ quan
thuế. Thông thường thanh tra tại bàn đối với ĐTNT lớn hoàn tất trong 3 ngày, đối với
ĐTNT vừa là 1 ngày. Kiểm tra, thanh tra tại bàn bao gồm:
+ Một sắc thuế hoặc một chỉ tiêu – chỉ thanh tra hoặc xác minh một sắc thuế như
thuế lợi tức, thuế lương, thuế khấu trừ tại nguồn. Thanh tra tại bàn cũng được áp dụng để
kiểm tra một hạng mục chi phí hoặc chỉ tiêu nào đó trên tờ khai.
+ Một kỳ tính thuế.
+ Phạm vi hạn chế hoặc hẹp – đối chiếu chéo những thông tin kê khai trong tờ khai
cụ thể, xác minh các phép tính về trừ chi phí sử dụng vốn và kiểm tra chéo dữ liệu thông
qua việc yêu cầu ĐTNT mang đến, xuất trình sổ sách, chứng từ mua vào, bán ra tại cơ
quan thuế.
+ Nhóm ĐTNT trọng điểm – cả nhóm ĐTNT lớn và vừa.
+ Địa điểm tiến hành – cơ quan thuế.
+ Thời gian/độ dài cuộc thanh tra - thanh tra tại bàn đối với ĐTNT lớn hoàn tất
trong 3 ngày, đối với ĐTNT vừa là 1 ngày.
- Kiểm tra, thanh tra tại cơ sở của đối tượng kiểm tra, thanh tra: Kiểm tra, thanh tra
thuế tại cơ sở là một công cụ chủ yếu trong chương trình thanh tra của Cơ quan thuế.
Thời gian cần thiết để thực hiện công việc này là từ một vài giờ cho đến vài tuần tuỳ
thuộc bản chất của cuộc thanh tra, và hoặc quy mô và tính phức tạp của hoạt động của đối
tượng nộp thuế. Thanh tra tại cơ sở thường là việc kiểm tra chi tiết nhưng cũng có lúc chỉ
là việc kiểm tra một phần sổ sách kế toán thông thường của ĐTNT ngay tại trụ sở làm
việc của ĐTNT. Thanh tra tại cơ sở có thể được tiến hành bởi một cán bộ thanh tra hoặc
một đội thanh tra. Đội thanh tra sử dụng từ hai cán bộ thanh tra trở lên và có thể bao gồm
những thành viên có những kỹ năng khác nhau. Đặc điểm của kiểm tra, thanh tra tại cơ
sở của ĐTNT:
+ Kiểm tra và sử dụng các kỹ thuật thanh tra đối với những chứng từ kế toán được
ĐTNT lưu giữ.
+ Trao đổi với đối tượng nộp thuế
+ Quan sát đánh giá.
+ Có thể yêu cầu bất cứ người nào thuộc ĐTNT đang thanh tra cung cấp thông tin;
+ Có thể yêu cầu thông tin từ bên thứ ba.
1.2.2 Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế
Căn cứ vào kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế, nhóm phân tích phải thực hiện quá
trình tập hợp và phân tích rủi ro các thông tin chuyên sâu tại cơ quan thuế, nhằm kiểm tra
tính xác thực đối với các hồ sơ khai thuế, báo cáo tài chính thông tin, các nghi vấn cần
doanh nghiệp cung cấp thêm thông tin hoặc những nội dung nghi ngờ cần tiếp xúc với
doanh nghiệp để làm rõ (thông tin chung về doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh,
tổ chức hạch toán, liên doanh liên kết, đối tác kinh doanh, hợp đồng mua bán hàng, tăng
giảm tài sản, biên bản xác nhận công nợ nội bộ, công nợ người bán, người mua ). Việc
kiểm tra, đối chiếu số liệu tổng hợp tại trụ sở của NNT được thực hiện tuỳ theo phạm vi,
quy mô, nội dung cuộc thanh tra, kiểm tra . Các nội dung kiểm tra đối chiếu số liệu tổng
hợp gồm:
+ Kiểm tra hồ sơ đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, mã số thuế, tình hình đăng
ký sử dụng hoá đơn
+ Kiểm tra đối chiếu tài liệu, hồ sơ gửi cơ quan thuế với thực tế xuất trình của
doanh nghiệp: báo cáo quyết toán tài chính quí, năm; tờ khai thuế Giá trị gia tăng, bản
xác định số thuế Thu nhập doanh nghiệp tạm nộp theo quí, tờ khai thuế Thu nhập doanh
nghiệp tự quyết toán năm và các tờ khai quyết toán thuế khác liên quan đến nội dung ghi
tại quyết định thanh tra, kiểm tra.
+ Kiểm tra việc mở sổ sách và tính hợp pháp: sổ cái, các sổ theo dõi chi tiết theo
các chuẩn mực kế toán nhà nước quy định, đối chiếu số liệu tổng hợp giữa sổ chi tiết với
bảng cân đối số phát sinh và bảng tổng kết tài sản.
+ Ngoài ra, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể cần kiểm tra xem xét các tài liệu, hồ sơ
liên quan khác: số thuế đầu kỳ trước chuyển sang, xác nhận của cơ quan thuế, cơ quan
kho bạc nhà nước về số nộp ngân sách trong kỳ, các tài liệu liên quan đến hoàn thuế,
miễn giảm thuế Kiểm tra chi tiết, lập hồ sơ chứng lý tại trụ sở NNT gồm các nội dung
sau:
+ Kiểm tra sổ sách, chứng từ và các hồ sơ liên quan đến nội dung kiểm tra, thanh tra
thuế.
+ Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ kinh tế phát sinh: đối chiếu số liệu hạch toán, số
liệu tính, kê khai, thu nộp thuế và hạch toán thực tế của doanh nghiệp với các chuẩn mực
nhà nước quy định (quy định luật, pháp lệnh thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành; các
cơ chế tài chính và chuẩn mực kế toán Nhà nước ban hành ).
+ Thực hiện lập hồ sơ chứng lý thanh tra, kiểm tra, hồ sơ chứng lý được coi là tài
liệu gốc để lập biên bản thanh tra, kiểm tra, gồm: Các biên bản ghi nhận kết quả đối
chiếu; các bản sao chụp các tài liệu có liên quan kể cả các bức ảnh, đoạn băng ghi lại
những việc làm sai của DN (phân tán kho quỹ, cất giấu chứng từ, tài liệu )
+ Trường hợp cần thiết phải giám định tài liệu, cần lập biên bản thu giữ tài liệu ghi
rõ tình trạng của tài liệu đó (kể cả hiện vật nếu có) để yêu cầu cơ quan có trách nhiệm
giám định.
1.2.3 Quy trình kiểm tra, thanh tra thuế
Quy trình kiểm tra, thanh tra thuế là các trình tự và các bước công việc cụ thể bắt buộc
phải tuân thủ khi thực hiện một quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, một chương trình
kiểm tra, thanh tra hay một kế hoạch kiểm tra, thanh tra cụ thể. Ngoài công tác lập kế
hoạch kiểm tra, thanh tra hàng năm và công tác báo cáo thực hiện kết quả kiểm tra, thanh
tra thì kiểm tra, thanh tra bao gồm một loạt các bước lô gich với nhau từ lúc cán bộ kiểm
tra, thanh tra nhận hồ sơ cho đến khi hoàn thành, được thể hiện dưới dạng sơ đố như sau:
Giao hồ sơ cho cán bộ thanh tra Rà soát hồ sơ tại bàn Liên hệ với
• Đối tượng nộp thuế
• Kế toán viên
• Người đại diện
Gặp mặt lần đầu với ĐTNT
• Phỏng vấn lần đầu
• Tham quan cơ sở kinh doanh
• Xem xét sổ sách và chứng từ
Công việc thanh tra:
• Áp dụng những kỹ thuật thanh tra
• Quy mô cuộc thanh tra
Báo cáo thanh tra và các báo cáo khác
Đóng hồ sơ
Kiến nghị/Lập biên bản:
• Phỏng vấn kết thúc
• Công văn thông báo biên bản
1.2.4 Tổ chức kiểm tra, thanh tra thuế
Hệ thống kiểm tra, thanh tra thuế được tổ chức theo hệ thống dọc gắn với mô hình
tổ chức cơ quan thuế.Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế được phân cấp theo mô hình tổ
chức cấp trung ương và địa phương (Cục thuế vùng, tỉnh). Bộ phận thanh tra ở trung
ương chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch thanh tra quốc gia, chuyển tải các mục tiêu của
kế hoạch cho các cán bộ thanh tra địa phương và giám sát việc thực hiện kế hoạch.
Thanh tra của Trung ương chịu trách nhiệm chung về việc xây dựng kế hoạch thanh tra
quốc gia hàng năm, các cơ quan địa phương sẽ chịu trách nhiệm cung cấp đầu vào liên
quan đến các ĐTNT mà họ quản lý để xây dựng kế hoạch thanh tra quốc gia. Các cơ
quan địa phương chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra các ĐTNT lớn và vừa.
1.2.5 Kiểm tra, thanh tra thuế trong hệ thống tự khai tự nộp
Trong quản lý thuế, trên thế giới có hai phương thức chủ yếu là kiểm tra trước khi
chấp nhận và tự khai tự nộp:
- Kiểm tra trước khi chấp nhận là phương thức mà trong đó tờ khai thuế phải được
kiểm tra soát xét ở một mức độ nhất định trước khi thông báo chính thức số thuế phải nộp
của ĐTNT.
- Tự khai tự nộp là phương thức mà trong đó tờ khai thuế được chấp nhận ngay
(ngoại trừ trường hợp có những sai sót về tính toán hoặc trình bày). Sau đó các tờ khai
thuế sẽ được chọn mẫu để kiểm tra, thanh tra. Mặc dù còn những tranh luận nhất định,
phương thức tự khai tự nộp được xem là một phương thức có nhiều ưu điểm hơn và được
áp dụng ngày càng rộng rãi với mục đích cải thiện tính tuân thủ và tính hiệu quả thông
qua việc thu được tiền thuế sớm hơn, thực hiện một chương trình kiểm tra, thanh tra có
trọng tâm. Hệ thống tự khai tự nộp nhấn mạnh đến sự tự giác tuân thủ của ĐTNT nhưng
nó phải đi kèm với một hệ thống kiểm tra, thanh tra thuế chặt chẽ và các hình phạt
nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm. Do đó, một trong những vấn đề cốt lõi để bảo đảm
tính tuân thủ hệ thống tự khai tự nộp là việc kiểm tra, thanh tra thuế có hữu hiệu hay
không. Việc kiểm tra, thanh tra thuế trong hệ thống tự khai tự nộp nhằm thỏa mãn các
mục tiêu sau:
- Phát hiện các hành vi ẩn lậu thuế và thu hồi số thuế bị ẩn lậu
- Thúc đẩy sự tự giác tuân thũ. Bởi lẽ khi ĐTNT hiểu rằng nếu sai phạm trong việc
khai thuế thì sẽ bị phát giác và bị phạt, họ sẽ quyết định lực chọn việc tuân thủ luật thuế.
- Thu thập thông tin cho việc hoàn thiện hệ thống. Với các dữ liệu thu thập được
qua quá trình kiểm tra, thanh tra thuế sẽ hình thành được một thống cơ sở dữ liệu phục vụ
cho việc phát triển các công cũ đánh giá rủi ro sai lệch thuế, đồng thời điều chỉnh những
điểm chưa rõ ràng trong luật định. Kiểm tra, thanh tra thuế trong hệ thống tự khai tự nộp,
việc lựa chọn đối tượng kiểm tra là một vấn đề hết sức quan trọng. Nó quyết định sự
thành công của các mục tiêu đề ra cho hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. Cụ thể là:
- Nếu chọn các đối tượng có rủi ro sai lệch thuế thấp để kiểm tra sẽ tốn kém thời
gian nhưng không phát hiện được các trường hợp ẩn lậu thuế, không thu hồi được các
khoản thuế bị ẩn lậu.
- Nếu các đối tượng được chọn để kiểm tra theo một khuôn mẫu có định, một số
ĐTNT có thể không bao giờ được chọn để kiểm tra, đều này sẽ không khuyến khích được
sự tuân thủ.
- Việc thu thập thông tin để đánh giá mức độ tuân thủ luật thuế, xây dựng cơ sở dự
liệu chuẩn cũng như phát triển các công cụ đánh giá rủi ro theo lậut định và hoàn thiện
các quy định thuế đòi hỏi cách thức lựa chọn các đối tượng kiểm tra, thanh tra phải tính
toán để có được các kết quả phù hợp.
1.2.6 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế
1.2.6.1 Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Trong lĩnh vực thuế, hiệu quả của hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không chỉ xét
đơn thuần theo giá trị bằng tiền. Hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra thuế là hiệu
quả thực hiện các chính sách thuế, phát huy các tác dụng vốn có của mỗi loại thuế đối với
sản xuất và đời sống xã hội, phục vụ công tác quản lý các đối tượng nộp thuế trong quá
trình chấp hành pháp luật về thuế trên cơ sở công tác quản lý thuế đạt được hiệu quả là
tối đa với chi phí quản lý ở mức tối thiểu. Hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế
phải được xem xét trên các góc độ hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị.
- Hiệu quả kinh tế: Khai thác đầy đủ kịp thời các khoản thu Luật định về thuế vào
Ngân sách nhà nước.
- Hiệu quả xã hội: Công tác thanh tra góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội.
- Hiệu quả chính trị : Là hiệu quả thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế xã
hội của Đảng và Nhà nước. Để đánh giá được hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra
thuế cần phải căn cứ vào hệ thống các tiêu chuẩn, chỉ tiêu đánh giá. Chúng ta sẽ cùng
xem xét hệ thống các tiêu chí đó trong mục tiếp theo.
1.2.6.2 Các tiêu chuẩn đánh giá
| Các tiêu chí định lượng:
Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế của nghiệp vụ kiểm tra, thanh tra
thuế đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc
kết quả đem lại của các nghiệp vụ kiểm tra, thanh tra thuế. Các tiêu chí này thường gồm:
+ Tình hình thực hiện kế hoạch thanh tra: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số đối
tượng thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành về số thời gian so với kế
hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số vụ việc khiếu tố giải quyết được so với kế
hoạch năm
+ Tình hình vi phạm pháp luật thuế đã phát hiện qua kiểm tra, thanh tra: Đánh giá
tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạm pháp luật thuế/Tổng số đối
tượng thanh tra, kiểm tra bình quân/thanh tra viên hàng năm; chi phí bằng tiền trực tiếp
cho thanh tra, kiểm tra
+ Hiệu quả trực tiếp của kiểm tra, thanh tra : Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào
các chỉ tiêu như: Chi phí kiểm tra, thanh tra so với số thuế truy thu đã nộp NSNN; Tỷ lệ
giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế theo biên bản thanh tra, kiểm
tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng kiểm tra, thanh tra; Tỷ lệ trường hợp đối
tượng kiểm tra, thanh tra chấp nhận hoàn toàn kết luận kiểm tra, thanh tra; Tỷ lệ số thuế
truy thu được nộp vào NSNN/tổng số thuế truy thu
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên, song trên thực tế đa
số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của công tác kiểm tra, thanh
tra. Bên cạnh việc tính toán các chỉ tiêu này trong năm, để đánh giá chính xác hơn tính
hiệu quả, cần phải so sánh với các năm trước để đánh giá xu hướng biến động của các chỉ
tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ của từng khâu công tác.
| Các chỉ tiêu định tính:
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của hoạt động kiểm tra, thanh tra mà không
thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả có tính xã hội, chính
trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật. Tiêu chí này có thể đo lường được
thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế qua
các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được kiểm tra, thanh tra (mức độ tái phạm).
+ Tác dụng ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự công bằng giữa các
ĐTNT; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Có thể đánh giá tác dụng này thông qua
xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý truy thu thuế và xử phạt hành chính thuế (chia
theo mức xử phạt).
+ Tác dụng phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan thuế và tạo lòng tin của
ĐTNT vào hoạt động thanh tra, kiểm tra. Có thể đánh giá qua chỉ tiêu: Tỷ lệ cán bộ thuế
vi phạm pháp luật trong thanh tra, kiểm tra; tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý
(chia theo hình thức); những vụ việc vi phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện và
xử lý Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra, thanh tra được đánh giá
theo kỳ (quý, năm) và được chia theo nhiều sắc thuế; theo hình thức thanh tra; theo loại
đối tượng nộp thuế và từng nội dung thanh tra, kiểm tra tương ứng. 1.3 Quản lý thuế và
mô hình quản lý thuế
1.3.1 Khái niệm quản lý thuế
Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan thuế nhằm
đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy
định của pháp luật. Quản lý thuế có vai trò bảo đảm cho chính sách thuế được thực thi
nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Chính sách thuế thường được thiết
kế nhằm thực hiện những chức năng của thuế như điều tiết kinh tế vĩ mô phục vụ mục
tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm bảo đảm sự công bằng giữa
các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu
quản lý thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt để ai là người nộp thuế thì phải nộp thuế và
người nộp thuế phải nộp đúng, nộp đủ và nộp đúng hạn số thuế phải nộp vào NSNN. Vì
vậy, có thể khẳng định Quản lý thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng
chính sách thuế.
1.3.2 Mục tiêu của quản lý thuế
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho
người nộp thuế nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước và cơ quan
quản lý thuế kiểm tra thu đúng, thu đủ tiền thuế.
- Quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý
thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh
bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội
trong việc thực hiện quản lý thuế.
1.3.3 Nguyên tắc quản lý thuế
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy định của
pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Tất cả các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong xã hội đều có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
- Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật quản lý thuế và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
1.3.4 Nội dung quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
1.3.4.1 Khái niệm về cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự giác tuân
thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ vào các qui định tại các Luật thuế
để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế và nộp thuế đúng
thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế nếu người nộp thuế tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên
truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế,
đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và thông qua
công tác kiểm tra, thanh tra thuế để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vị
gian lận, trốn thuế của người nộp thuế.
1.3.4.2 Mục tiêu quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Mục tiêu của việc thực hiện cơ chế tự kê khai - tự nộp thuế là nhằm nâng cao năng
lực, hiệu quả và hiện đại hóa công tác quản lý thuế để cơ quan thuế có đủ năng lực thực
hiện tốt các luật thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế vào ngân
sách nhà nước, dựa trên cơ sở cơ quan thuế thực hiện được tốt việc tuyên truyền, hướng
dẫn cho đối tượng nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời giám
sát, kiểm tra chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế để phát hiện, xử
lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của đối tượng nộp thuế.
1.3.4.3 Yêu cầu quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
- Để thực hiện được tốt cơ chế tự khai - tự nộp thuế đòi hỏi phải có đầy đủ và đồng
bộ nhiều yếu tố như: trình độ và sự nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế, chính sách
thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, trình độ của cán bộ và các thẩm quyền
cần thiết của cơ quan thuế trong quản lý thuế:
+ Người dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, đối tượng nộp thuế có
ý thức tuân thủ nghĩa vụ thuế, cộng đồng xã hội lên án những hành vi gian lận trốn thuế.
+ Chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như: thuế GTGT chỉ có 1
mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế TNDN , các qui định về kê khai, nộp thuế thuận
lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
+ Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về điều tra, khởi tố, cưỡng chế thuế để xử phạt
nghiêm, kịp thời những trường hợp gian lận, trốn thuế, chây ỳ, nợ thuế, thu hồi đủ tiền
thuế cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong quản lý thuế.
+ Bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo các chức
năng: tuyên truyền, hướng dẫn đối tượng nộp thuế; theo dõi, xử lý việc kê khai thuế; đôn
đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế để nhằm chuyên môn hoá, nâng
cao năng lực quản lý thuế ở từng chức năng.
+ Hệ thống xử phạt nghiêm khắc. CQT có đủ thẩm quyền về điều tra, đủ điều kiện
về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp gian lận, trốn
thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế cho NSNN và đảm bảo sự công bằng trong
quản lý thuế
+ Hệ thống giải quyết khiếu nại hoạt động hiệu quả.
+ Đối tượng nộp thuế cần phải tin rằng các chương trình kiểm tra, thanh tra thuế
hiệu quả đang tồn tại.
+ Quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại - kỹ thuật quản lý rủi ro, trên
cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thông qua việc tập trung phân bổ nguồn lực quản lý
đối với các đối tượng nộp thuế không tuân thủ nghĩa vụ thuế gây rủi ro cao, có ảnh hưởng
lớn đến nguồn thu NSNN.
- Để thực hiện được quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, cơ quan thuế cần phải có:
+ Thông tin đầy đủ và liên tục về đối tượng nộp thuế trong một khoảng thời gian
nhất định (ít nhất là 3 năm), gồm: thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh(vị trí, qui
mô, cơ cấu tổ chức của công ty hoặc tập đoàn trên phạm vi cả nước hoặc trên toàn cầu,
tình hình tài chính), về tình hình tuân thủ nghĩa vụ thuế Trên cơ sở các thông tin đó cơ
quan thuế phân tích, phân loại đối tượng nộp thuế để xác định biện pháp quản lý phù hợp
với từng đối tượng: đối tượng nào cần tập trung tuyên truyền, hỗ trợ, hỗ trợ với hình thức
nào là phù hợp; đối tượng nào cần tập trung kiểm tra, thanh tra nội dung gì, cách thức
nào; đối tượng nào cần tăng cường thu nợ, kế hoạch, biện pháp nào
+ Các thông tin này phải đầy đủ, kịp thời và tin cậy, từ các nguồn: tờ khai thuế, báo
cáo tài chính của doanh nghiệp, thông tin từ các bên có liên quan (cơ quan quản lý đầu tư,
ngân hàng, hải quan, hiệp hội ngành nghề kinh doanh ) trong và ngoài nước
+ Các thông tin này phải được chuẩn hoá, thống nhất trong toàn ngành, được quản
lý tập trung ở trung ương và cơ quan thuế ở các cấp của địa phương đều có thể cùng khai
thác, sử dụng để vừa đáp ứng được yêu cầu lập kế hoạch, giám sát, chỉ đạo của cấp trung
ương đối với hoạt động quản lý thuế của toàn ngành, cũng như hoạt động quản lý trực
tiếp đối tượng nộp thuế của cơ quan thuế địa phương. Do đó, cần phải ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai thác, sử dụng thông tin về đối tượng nộp thuế và ở
tất cả các hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế. Mặt khác, cán bộ thuế phải được đào
tạo, có đủ kiến thức, năng lực để thực hiện kỹ năng quản lý thuế chuyên sâu (tính chuyên
nghiệp cao) theo từng chức năng quản lý.
1.3.4.4 Nội dung quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp
Quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế gồm các nội dung sau:
- Các thủ tục hành chính thuế, bảo đảm các điều kiện cho người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, bao gồm các nội dung: Đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền
thuế, tiền phạt.
- Giám sát việc tuân thủ pháp luật thuế của cơ quan quản lý thuế đối với người nộp thuế,
bao gồm các nội dung: Quản lý thông tin về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
- Các chế tài bảo đảm các chính sách thuế được thực thi có hiệu lực, hiệu quả, bao
gồm các nội dung: cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp
luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
QUI TRÌNH QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ CƠ SỞ KINH DOANH
TỰ KÊ KHAI - TỰ TÍNH - TỰ NỘP THUẾ
CƠ QUAN THUẾ
Kiểm tra
thanh tra thuế
Quản lý nợ thuế
và cưỡng chế
thu thuế
Người nộp thuế
Kho bạc
Tuyên truyền
Pháp luật Thuế và
hỗ trợ Người nộp
thuế
Kê khai và Kế
toán thuế
1.3.5 Một số mô hình quản lý thuế
Mô hình tổ chức quản lý thuế là bộ máy quản lý thuế được khái quát theo một
nguyên tắc cơ bản nhất, bao trùm và chi phối việc xác định số lượng các bộ phận, chức
năng, nhiệm vụ quản lý thuế của từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức. Các nhà nghiên cứu
chính sách và quản lý thuế (chuyên gia của Quĩ Tiền tệ Quốc tế) đã tổng kết các mô hình
và đánh giá ưu nhược điểm các mô hình tổ chức quản lý thuế đã được các nước trên thế
giới áp dụng. Tuy nhiên, trong thực tế một số các mô hình đều được áp dụng rời rạc trong
từng cấp quản lý thuế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, nhưng hầu hết các
mô hình được vận dụng kết hợp với nhau để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm
của từng mô hình riêng rẽ.
1.3.5.1 Mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế
Là mô hình lấy việc quản lý theo sắc thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu
tổ chức bao gồm các bộ phận (gọi chung là phòng) quản lý một hoặc một số loại thuế cụ
thể (VD: phòng thuế Thu nhập cá nhân; phòng Thuế thuế thu nhập doanh nghiệp, phòng
thuế Giá trị gia tăng, phòng thuế Tiêu thụ đặc biệt…). Mỗi phòng thực hiện tất cả các
chức năng để quản lý loại thuế mà phòng đó được phân công quản lý thu đối với tất cả
các đối tượng nộp thuế.
Ưu điểm
- Tạo điều kiện để chuyên sâu quản lý từng sắc thuế, hiểu rõ phương pháp quản lý
sắc thuế một cách hiệu quả nhất, cho phép từng phòng tự phát triển các chương trình
chuyên sâu phù hợp nhất theo yêu cầu quản lý của từng sắc thuế.
- Phản ứng kịp thời với những thay đổi của luật thuế hay những biện pháp quản lý
đối với từng sắc thuế. Khi một chính sách thuế nào đó có sự bổ sung, sửa đổi hoặc thay
đổi qui trình quản lý thì chỉ phải thay đổi trong một phòng quản lý sắc thuế đó hoặc khi
có sắc thuế mới phát sinh thì chỉ cần thành lập thêm một phòng mới để quản lý sắc thuế
đó, các phòng khác không thay đổi.
- Mô hình này thuận lợi và phù hợp với các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi,
có môi trường tài chính không ổn định và có các qui định khác nhau về thủ tục quản lý
đối với từng loại thuế.
Nhược điểm
- Chi phí quản lý cao, hiệu suất quản lý thấp vì chức năng quản lý bị chồng chéo
giữa các bộ phận. Mỗi bộ phận đều phải thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý trong
khi có những chức năng có thể chỉ do một bộ phận quản lý hoặc mỗi bộ phận phải có một
hệ thống chương trình phầm mềm riêng phục vụ quản lý…
- Gây khó khăn trong việc tuân thủ luật thuế của NNT vì để hiểu và thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ thuế (nghĩa vụ nộp nhiều loại thuế khác nhau), họ phải cần đến sự hỗ trợ của
nhiều bộ phận trong cùng một cơ quan thuế. Dẫn đến chi phí tuân thủ pháp luật của NNT
và của cơ quan thuế cao.
- Dễ xảy ra sự thông đồng giữa NNT và cán bộ quản lý thuế do mỗi phòng hoạt
động độc lập với các phòng khác, làm cho sự kiểm tra, kiểm soát giữa các phòng hoặc
không có hoặc kém hiệu quả.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh.
Trong quá trình áp dụng, mô hình quản lý theo sắc thuế vẫn đan xen với quản lý
thuế theo chức năng, bởi lẽ, trong bộ phận quản lý theo sắc thuế lại hình thành các bộ
phận thực hiện từng chức năng riêng biệt để quản lý đối với sắc thuế đó (như: hỗ trợ
người nộp thuế, kê khai thuế, kiểm tra, thanh tra thuế ). Mặt khác, mỗi chức năng quản
lý còn phải điều chỉnh theo từng nhóm giao dịch (như: thu nhập từ chuyển quyền sử
dụng đất, chuyển dịch tài sản, thu nhập từ kinh doanh bất động sản, vốn
1.3.5.2 Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm NNT
Là mô hình tổ chức lấy quản lý theo nhóm NNT làm nguyên tắc bao trùm. Theo
đó, cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (phòng) quản lý theo từng nhóm NNT. Một số
nước phân loại nhóm NNT theo qui mô, một số nước khác phân loại theo ngành nghề
kinh doanh hoặc theo hình thức sở hữu. Từ đó, hình thành các phòng quản lý thu thuế
theo đối tượng (qui mô) kết hợp với theo ngành nghề kinh doanh của đối tượng đó (Ví
dụ: Phòng quản lý thuế các doanh nghiệp lớn, phòng quản lý thuế các doanh nghiệp vừa,
nhỏ; phòng quản lý thuế doanh nghiệp ngành công nghiệp, phòng quản lý thuế ngành
Hàng không, Điện lực… hoặc phòng quản lý thuế khu vực kinh tế quốc doanh, phòng
quản lý thuế khu vực kinh tế dân doanh…) Mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng
quản lý để quản lý thu tất cả các sắc thuế mà NNT được phân công quản lý phải có nghĩa
vụ với Nhà nước.
Ưu điểm
- Đáp ứng yêu cầu quản lý thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng
nộp thuế.
- Tạo điều kiện thực hiện phương pháp quản lý và phân bổ nguồn lực phù hợp với
những rủi ro về quản lý thuế đối với các nhóm NNT khác nhau, tạo sự an toàn cho Ngân
sách. Thông thường, phòng quản lý các đối tượng nộp thuế lớn thường được bố trí những
cán bộ có năng lực, có trình độ và kinh nghiệm quản lý cao nhằm giám sát chặt một số
đối tượng nộp thuế có số thu lớn. Sự sắp xếp này nhằm tạo ra những biện pháp quản lý
phù hợp với một nhóm đối tượng nộp thuế đặc biệt, nâng cao hiệu quả quản lý đối với
các nguồn thu lớn của NSNN.
- Là cơ sở giao nhiệm vụ rõ ràng và giám sát thực hiện, đánh giá mức độ hoàn
thành nhiệm vụ thu ngân sách đối với một hoặc một số nhóm người nộp thuế. Ví dụ: khi
xảy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành dự toán thu NSNN ở một loại doanh nghiệp
hoặc một ngành nghề nào đó thì có thể qui ngay trách nhiệm thuộc bộ phận nào.
Nhược điểm
- Không đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế khi số lượng và qui mô của người
nộp thuế thường xuyên tăng lên, loại hình sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng, phức
tạp, phạm vi hoạt động kinh doanh ngày càng rộng, đa dạng, đa lĩnh vực, thuộc nhiều
hình thức sở hữu khác nhau.
- Dễ xảy ra sự không thống nhất trong việc chỉ đạo thực hiện các luật thuế, các biện
pháp quản lý của cùng một sắc thuế nhưng đối với các loại người nộp thuế khác nhau, tạo
ra sự không công bằng về thuế giữa các người nộp thuế.
- Bộ máy quản lý cồng kềnh, chi phí quản lý cao do mỗi phòng đều phải thực hiện
đầy đủ các chức năng quản lý đối với nhóm người nộp thuế do phòng quản lý.
- Dễ dẫn đến quản lý chuyên quản khép kín, móc ngoặc, tham nhũng, tiêu cực nếu
không có sự giám sát chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên.
Quản lý thuế theo nhóm đối tượng, đặc biệt là quản lý nhóm đối tượng nộp thuế có
qui mô lớn và theo nhóm ngành kinh tế mũi nhọn (Điện lực, Hàng không, Bảo hiểm,
Ngân hàng ) đang là xu hướng được áp dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển.
1.3.5.3 Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng
Là mô hình lấy chức năng quản lý thuế làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu
tổ chức bao gồm các bộ phận thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định trong qui
trình quản lý thuế như: Phòng tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế , Phòng xử lý tờ
khai và dữ liệu về thuế, Phòng cưỡng chế và quản lý thu nợ, phòng Thanh tra thuế )
Mỗi phòng thực hiện một hoặc một số chức năng quản lý thuế có quan hệ mật thiết với
nhau để quản lý đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo chức năng được phân công
thực hiện.
Ưu điểm
- Thích ứng với mọi sự thay đổi về chính sách thuế và người nộp thuế.
- Hiệu quả quản lý cao do công tác quản lý được chuyên môn hoá, chuyên sâu,
chuyên nghiệp theo từng chức năng. Đặc biệt nếu kết hợp với quản lý thuế theo qui mô
đối tượng nộp thuế thì hiệu quả sẽ càng cao hơn.
- Tạo điều kiện cho người nộp thuế tăng cường tính tự giác và giảm chi phí tuân thủ
luật thuế của người nộp thuế, giảm chi phí quản lý của cơ quan Thuế.
- Giảm thiểu hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong quản lý thuế do sự kiểm tra,
giám sát giữa các bộ phận cùng thực hiện qui trình quản lý thuế.
Nhược điểm
Chưa hoàn toàn thích ứng trong điều kiện trình độ hiểu biết pháp luật thuế và trình
độ tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân nói chung và của người nộp thuế nói
riêng còn thấp và trong cơ chế giao chỉ tiêu pháp lệnh thu ngân sách. Bởi, đặc tính phân
đoạn trong công tác quản lý dễ dẫn tới việc mỗi bộ phận chức năng chỉ tập trung vào một
khía cạnh hẹp của người nộp thuế và tách biệt với công việc của các bộ phận khác, thiếu
bộ phận để tập hợp, điều phối hoạt động của các bộ phận chức năng quản lý với nhau. Do
đó, nếu người đứng đầu cơ quan thuế không quản lý chặt chẽ, cán bộ thuế trách nhiệm
không cao, để xảy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành dự toán Nhà nước giao thì khó
qui trách nhiệm cho tổ chức và cá nhân nào vì cả 4 khâu quản lý thuế đều liên quan đến
việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách.
Mô hình này được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển. Trong quá trình áp
dụng, mô hình quản lý thuế theo chức năng được áp dụng đan xen với nguyên tắc quản
lý theo nhóm đối tượng nộp thuế và theo sắc thuế.
1.3.5.4 Mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những tồn tại của các mô hình quản lý thuế
trên, nhiều nước trên thế giới áp dụng mô hình quản lý thuế kết hợp các nguyên tắc quản
lý: theo chức năng, theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế, trong đó xác định một nguyên
tắc bao trùm. Thông thường có một số hình thức kết hợp sau (trong đó nguyên tắc đầu
tiên là nguyên tắc bao trùm):
- Sắc thuế - Chức năng - Qui mô đối tượng
- Chức năng - Qui mô đối tượng - Sắc thuế
- Đối tượng (qui mô, ngành nghề) - Chức năng - Sắc thuế
Trong 3 hình thức kết hợp trên, hình thức thứ 2 và thứ 3 được áp dụng rộng rãi và
có ưu điểm hơn.
* Mô hình kết hợp Chức năng - Qui mô đối tượng - Sắc thuế:
Mô hình này thường được áp dụng ở các nước phát triển và đang phát triển và
trong điều kiện thực hiện cơ chế cơ sở kinh doanh tự kế khai, tự tính thuế và tự nộp thuế
vào NSNN.
Theo mô hình này, trong cơ quan Thuế thành lập các bộ phận quản lý theo từng
chức năng quản lý thuế (bộ phận hỗ trợ người nộp thuế; bộ phận kê khai và kế toán thuế;
bộ phận quản lý nợ và cưỡng chế thu nợ thuế; bộ phận kiểm tra, thanh tra thuế). Trong
mỗi bộ phận quản lý theo chức năng nêu trên lại hình thành các bộ phận quản lý đối với
từng loại nhóm đối tượng nộp thuế (lớn, vừa, nhỏ hoặc theo từng ngành kinh tế: hàng
không, điện lực, ngân hàng ). Ví dụ: Bộ phận hỗ trợ doanh nghiệp lớn; bộ phận thanh
tra các tập đoàn, các tổng công ty. Tuy nhiên, cũng có những chức năng được thành lập
để quản lý đối với tất cả những NNT như: bộ phận kê khai, kế toán thuế sẽ quản lý việc
kê khai của tất cả các đối tượng nộp thuế và theo dõi kết quả thu thuế trong toàn ngành.
Bên cạnh các bộ phận quản lý thuế theo chức năng, một số sắc thuế (chủ yếu là thuế thu
nhập cá nhân, thuế tài sản) lại được thành lập bộ phận quản lý riêng, độc lập để quản lý
các sắc thuế này. Trong bộ phận quản lý theo sắc thuế, cũng thành lập các bộ phận quản
lý theo từng chức năng. Ví dụ: trong bộ phận quản lý thuế thu nhập cá nhân, hình thành
các bộ phận: hỗ trợ người nộp thuế, kê khai thuế thu nhập cá nhân, thanh tra thuế thu
nhập cá nhân
* Mô hình kết hợp Đối tượng (qui mô, ngành nghề) - Chức năng - Sắc thuế:
Hiện nay một số nước tiên tiến trên thế giới đang áp dụng mô hình quản lý theo
nhóm đối tượng chia theo qui mô (lớn, vừa, nhỏ) hoặc theo nhóm ngành kinh tế quan
trọng (Điện lực, Hàng không, Bảo hiểm, Ngân hàng, Bưu chính viễn thông ). Trong mỗi
bộ phận quản lý theo đối tượng lại thành lập các bộ phận quản lý theo chức năng để quản
lý và thu thuế đối với NNT đó (như các bộ phận: Hỗ trợ; Kê khai và kế toán thuế; Quản
lý nợ thuế; Kiểm tra, thanh tra thuế).
Bên cạnh đó, một số sắc thuế (chủ yếu là thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản) lại
được thành lập bộ phận quản lý riêng, độc lập để quản lý các sắc thuế này và trong từng
bộ phận quản lý theo sắc thuế lại hình thành bộ phận quản lý theo từng chức năng
1.4 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế trong quản lý thuế ở một số nước
trên thế giới.
1.4.1 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế của Malaysia
Công tác kiểm tra, thanh tra thuế có hiệu quả, tại Malaysia tổ chức trung tâm thanh
tra - điều tra thuế được phân bổ theo vùng. Các trung tâm không chỉ dừng lại theo chức
năng kiểm tra thuế thông thường mà chủ yếu tập trung vào công tác điều tra phát hiện và
xử lý các trường hợp trốn lậu thuế có tính chất nghiêm trọng, truy thu thuế vào ngân sách
nhà nước. Trung tâm điều tra thanh tra có nhiệm vụ tổ chức, thu thập các thông tin từ nội
bộ ngành thuế, người tố giác, người khai báo, báo chí…để phát hiện các trường hợp, các
khả năng trốn thuế. Tổ chức công tác điều tra nghiệp vụ trên có sự phối hợp trên toàn
quốc hoặc quy mô quốc tế. Tổ chức lưu giữ tài liệu, bằng chứng liên quan đến hành vi
trốn thuế. Tổ chức việc kiểm tra, đối chứng để quy phạm hành vi trốn thuế. Khởi tố, truy
tố, phạt hành chính, kiến nghị phạt hình sự đối với các hành vi trốn thuế. Bắt giữ tài sản,
phong toả tài sản, truy thu cho ngân sách.
1.4.2 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế của Indônêxia
Thanh tra, điều tra thuế là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế Indonêxia, nó
giữ vai trò quan trọng để đảm bảo quá trình áp dụng thành công cơ chế tự tính, tự khai
nộp thuế. Công tác thanh tra, chính sách thanh tra được quy định bởi Cục thanh tra và
điều tra thuộc Tổng cục thuế, chỉ được thực hiện sau khi đã thu thập các thông tin và xử
lý các dự liệu về đối tượng nộp thuế để đánh giá mức độ tuân thủ nghĩa vụ thi hành về
thuế và sự thi hành của các quy định về thuế. Công tác thanh tra thuế được thực hiện trên
nguyên tắc: Đối tượng nộp thuế không bao giờ bị thanh tra lại trong cùng 01 năm. Nhằm
tránh việc thanh tra nhiều lần đối với đối tượng nộp thuế trong cùng năm thì cần phải tiến
hành thanh tra đối với mọi loại thuế cùng một lúc. Trường hợp trong năm phải tiến hành
thanh tra quá một lần chỉ khi có các lý do như: Đối tượng nộp thuế có hành vi phạm tội
hình sự, có chứng cứ mới hoặc chứng cứ chưa bộc lộ có thể làm tăng số thuế phải nộp
hoặc có lý do theo chỉ thị của Tổng cục trưởng cục thuế.
Hoạt động thanh tra được tiến hành bởi đội thanh tra trong đó luôn có 01 giám sát
viên, 01 đội trưởng và 01 hoặc một số thành viên tuỳ theo nhiệm vụ công tác.
Thời gian thanh tra tại cơ sở kinh doanh là 02 tháng và có thể kéo dài 08 tháng nếu
được Tổng cục trưởng cục thuế cho phép, thanh tra tại trụ sở cơ quan thuế thì thời gian là:
01 tháng, có thể kéo dài 02 tháng.
1.4.3 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế của Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc công tác quản lý thuế được giao cho Cơ quan dịch vụ thuế quốc gia
(Tổng cục thuế) Hàn Quốc trực thuộc Bộ tài chính với cơ cấu quản lý thuế của Hàn Quốc
bao gồm 3 cấp: cấp 1: Các vụ và các phòng chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan thuế vụ
quốc gia, cấp 2: Cơ quan thuế vùng dưới sự giám sát của cơ quan dịch vụ thuế quốc gia
có trách nhiệm trực tiếp xử lý tính thuế đối với một số đối tượng nộp thuế trong những
trường hợp đặc biệt, hướng dẫn và quản lý toàn bộ các hoạt động của cơ quan thuế quận
huyện, cấp 3: Cơ quan thuế quận huyện. Công tác thanh tra thuế được xây dựng xuyên
suốt từ Tổng cục thuế đến các cơ quan thuế quận huyện. Tại cơ quan thuế vùng đã xây
dựng các phòng kiểm tra, thanh tra với chức năng chuyên biệt như sau: Phòng thanh tra
và quản lý chịu trách nhiệm về kế hoạch thanh tra, thu thập, xử lý các phận tích những
thông tin liên quan đến việc trốn thuế. Phòng các cán bộ thanh tra chịu trách nhiệm tiến
hành thanh tra và xác định thuế. Phòng các cán bộ thanh tra đặc biệt chịu trách triệm về
phân tích những thông tin liên quan đến việc trốn thuế và điều tra tội phạm. Ở Hàn Quốc
hệ thống tự tính tự nộp thuế đã áp dụng đối với hầu hết các loại thuế. Mỗi đối tượng nộp
thuế phải tự nộp tờ khai thuế và trả đủ số thuế đó một cách tự nguyện thì được coi là
trung thực nên chính sách cơ bản của Công tác thanh tra ở Hàn Quốc là thanh tra những
đối tượng thuế không trung thực thực hiện trên nguyên tắc không thanh tra hai lần đối với
đối tượng nộp thuế về cùng một loại thuế của cùng năm tính thuế. Nếu kiểm tra lại đối
với cùng đối tượng nộp thuế bằng cách thay đổi loại thuế trong phạm vi của năm mà ngày
kết thúc cuộc thanh tra trước cũng thuộc năm đó cũng bị coi là vi phạm .
1.4.4 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế của Mỹ
Hệ thống thuế Mỹ chia thành hai cấp độ là thuế liên bang (thuế trung ương) và thuế
bang (thuế địa phương). Chính sách thuế cũng như quản lý thuế liên bang và thuế bang
hoàn toàn độc lập, tách biệt. Chính sách thuế liên bang do Quốc hội ban hành. Cục thu
nội địa Mỹ chịu trách nhiệm thực thi trong toàn nước Mỹ. Là một cơ quan độc lập trực
thuộc Bộ Ngân Khố Mỹ chịu trách nhiệm quản lý các sắc thuế liên bang. Trong công tác
quản lý thuế, Cục thu nội địa Mỹ có mục tiêu "Lấy đối tượng nộp thuế là trung tâm".
Công tác thanh tra kiểm tra của Cục thu nội địa được chia làm nhiều cấp độ, trong đó chú
trọng tới việc nghiên cứu mô hình, nghiên cứu xu hướng phát triển các ngành công
nghiệp cũng như xu hướng gia tăng của đối tượng nộp thuế để lựa chọn công tác thanh tra
kiểm tra. Để tiến hành công tác thanh tra kiểm tra có kết quả hàng năm Cục nội địa thực
hiện công tác đánh giá rủi ro để lựa chọn đối tượng được thanh tra, kiểm tra. Đây là bước
tất yếu cần phải thực hiện để tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra và dựa trên các tiêu
chí : Tiêu chí 1: Đảm bảo tính công bằng. Tiêu chí 2: Tính điểm DIF là hệ thống tính
điểm dựa trên phương pháp phân tích thống kê sử dụng nhiều biến số có liên quan đến
nhau (Ví dụ: thu nhập, quy mô tài sản, và một số đặc tính của tờ khai) để ra các kết quả
logic là số thuế phải nộp sẽ dao động trong khoảng bao nhiêu. Tiêu chí 3: Chương trình
ưu tiên thanh tra để chú trọng vào thanh tra đối với những đối tượng có nhiều nghi ngờ.
Tiêu chí 4: Kết quả chương trình nghiên cứu quốc gia sau đó đối chiếu với các thông tin
lưu trữ về đối tượng nộp thuế để từ đó phân tích và phân loại các nghi vấn để ra các quyết
định kiểm tra, thanh tra theo nguồn lực cán bộ hiện có.
Chương trình thanh tra kiểm tra: Là chương trình phổ biến nhất và huy động nhiều
cán bộ nhất. Công tác thanh tra kiểm tra được thực hiện dưới hai hình thức:
Thư từ trao đổi : Trong trường hợp vấn đề nghi vấn, cần kiểm tra đơn giản và phạm
vi hẹp , có thể đưa ra kết luận trong vài giờ, không cần xem kỹ số sách chứng từ. Kiểm
tra, thanh tra trực tiếp: Trong trường hợp vấn đề phức tạp, phạm vi kiểm tra rộng, có thể
mất vài tuần. Nhằm sử dụng nguồn lực cán bộ có hiệu quả hơn, các cán bộ được huy
động kiểm tra, thanh tra trực tiếp phải ở trình độ cao hơn các cán bộ thực hiện kiểm tra
qua thư từ trao đổi.
Để hỗ trợ cho công tác thanh tra thuế, tại cục thu nội địa Mỹ còn hình thành ban
điều tra hình sự chịu trách nhiệm điều tra các vi phạm về thuế mang tính hình sự, cưỡng
chế thuế và điều tra các vụ việc liên quan đến rửa tiền và làm tiền giả, Ban cưỡng chế thu
nợ về thuế của các đối tượng nộp thuế.
1.4.5 Kinh nghiệm kiểm tra, thanh tra thuế của Anh
Khi chuyển sang cơ chế TKTN, Luật quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn
cơ quan thuế được quyền kiểm tra bất kỳ một đối tượng nộp thuế nào mà không cần phải
nêu lý do. Cơ quan thuế phải tiến hành bắt đầu việc thanh tra trong vòng 12 tháng kể từ
ngày hết hạn nộp tờ khai.Sau 12 tháng, cơ quan thuế chỉ thanh tra khi có thông tin từ cá
nguồn khác về việc cần phải tiến hành thanh tra. Khi nhận được thông báo thanh tra
doanh nghiệp không có quyền từ chối thanh tra và phải cung cấp sổ sách tài liệu và trả lời
các câu hỏi có liên quan. Cơ quan thuế không được xuống doanh nghiệp yêu cầu doanh
nghiệp cung cấp sổ sách tài liệu kế toán mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm gửi sổ
sách tài liệu lên cơ quan thuế và đến cơ quan thuế giải trình khi có thông báo của cơ quan
thuế đến làm việc liên quan tới nội dung thanh tra. Khi doanh nghiệp thấy việc thanh tra
kéo dài hoặc gây phiền hà cho doanh nghiệp thì có quyền đề nghị Uỷ ban giải quyết
khiếu nại xem xét dừng cuộc thanh tra. Khi xem xét nếu thấy đề nghị của doanh nghiệp là
hợp lý Uỷ ban giải quyết khiếu nại quyết định trong vòng 30 ngày sau cơ quan thuế phải
kết thúc thanh tra.