Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

thực tiễn áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.59 KB, 47 trang )

Mục lục
Chơng I:
Chơng I: 2
Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế 2
Chơng II 28
Thực tiễn áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi
nhánh công ty thái bình dơng 28
Chơng III 43
một số kiến nghị qua việc áp dụng chế độ Hợp đồng
kinh tế tại chi nhánh công ty thái bình d-
ơng 43
Kết luận 46
Tài liệu tham khảo 47
1
Chơng I:
Chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế
I. Những vấn đề lý luận về hợp đồng kinh tế.
1. Khái niệm chung về hợp đồng
a. Khái niệm
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên bình đẳng với nhau
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong
quá trình thực hiện một công việc hay giao dịch nhất định.
b. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội
Hợp đồng biểu hiện sự tự nguyện tham gia ký kết của các chủ thể mà ý
chí của các bên thống nháat với nhau do yêu cầu khách quan của cuộc sống
hàng ngày, do điều kiện kinh tế nhất định tác động, ngoài ra ý chí của chủ thể
tham gia hợp đồng còn bị chi phối bởi luật pháp tức là ý chí cua r nhà nớc. Vì
vậy, dới các chế độ khác nhau, hợp đồng có ý nghĩa và bản chất khác nhau.
Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan
trọng của nhà nớc trong xây dựng và phát triển đời sống xã hội, nó làm cho lợi
ích của mỗi cá nhân, tập thể phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội. Nó xác


lập và gắn chặt mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, đơn vị, tạo nên sự bình
đẳng về mặt pháp lý trong đời sống xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên ký kết, giúp đỡ các bên xây dựng kế hoạch một cách vững chắc,
kế hoạch ấy chỉ trở thành phơng án thực hiện khi nó bảo đảm bằng những cam
kết hợp đồng. Ngợc lại hợp đồng cụ thể hoá, chi tiết hoá nội dung kế hoạch
của các chủ thể hợp đồng. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể đó chính là
việc thực hiện từng phần kế hoạch.
Nghiên cứu vai trò của hợp đồng, chúng ta khẳng định rằng hợp đồng có
vai trò quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý đời sống xã hội: đổi mới kế
hoạch hoá nhằm bảo đảm quyền tự chủ của các đơn vị, tăng cờng quản lý
kinh tế quản lý thị trờng.
2
Trong pháp luật nớc ta đang quy định gồm nhiều loại hợp đồng tồn tại
thuộc các lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau nh: hợp đồng dân sự, hợp đồng
kinh tế, hợp đồng mua bán ngoại thơng, hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp
tác kinh doanh, hợp đồng lao động
2. Khái niệm về hợp đồng kinh tế:
a. Lịch sử phát triển của hợp đồng kinh tế:
Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nền kinh tế nớc
ta còn bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài khu vực kinh tế
quốc doanh, tập thể còn có kinh tế cá thể trong nông nghiệp, thủ công nghiệp
và thành phần kinh tế t bản t doanh cha đợc cải tạo. Hoạt động kinh tế của các
cơ quan Xí nghiệp Nhà nớc của các đơn vị kinh tế tập thể tiến hành song song
với hoạt động kinh tế của t nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh tế đi theo h-
ớng có lợi cho việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bớc xây dựng quan hệ
sản xuất mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tớng Chính phủ đã ban
hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo Nghị định này là bản
Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Bản Điều lệ này bao gồm những
quy định điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế nh các đơn
vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh, t doanh, ngời Việt Nam

hay ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam.
Theo Điều lệ này, hợp đồng kinh doanh đợc thiết lập bằng cách hai hay
nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện cam kết với nhau thực hiện một một số
nhiệm vụ nhất định, trong một thời gian nhất định, nhằm phát triển kinh doanh
công thơng nghiệp, góp phần thực hiện kế họach Nhà nớc. Hợp đồng kinh
doanh đợc xây dựng trên nguyên tác các bên tự nguyện, cùng có lợi và có lợi
ích cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều lệ còn quy định nếu trong
quan hệ hợp đồng có 1 bên là t doanh, hợp đồng phải đợc đăng ký tại cơ quan
Nhà nớc có thẩm quyền (cơ quan công thơng tỉnh hoặc Uỷ ban hành chính
huyện) thì mới có giá trị về mặt pháp lý
Việc thực hiện Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh, trong một
chừng mực nhất định, đã sử dụng đợc khả năng của các thành phần kinh tế
quốc dân theo hớng thống nhất của kế hoạch Nhà nớc, góp phần cải tạo quan
hệ sản xuất cũ, từng bớc xây dựng quan hệ sản xuất mới
Đến năm 1960, ở miền Bắc, chúng ta đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa, bớc vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, mở đầu
3
bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965. Các quan hệ kinh tế đã có sự
thay đổi về cơ cấu chủ thể và về tính chất. Công tác kế hoạch hoá và hạch toán
kinh tế đòi hỏi phải có những quy định mới về điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng giữa các đơn vị kinh tế. Vì vậy, Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng
kinh tế đợc Nhà nớc ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960,
đồng thời Nhà nớc cũng quyết định thành lập Hội đồng trọng tài kinh tế để
thực hiện chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh
chấp hợp đồng kinh tế (Nghị định 20/TTg ngày 14/1/1960).
Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế đã quy định rõ các bên tham
gia quan hệ hợp đồng là các đơn vụ kinh tế cơ sở, các tổ chức xã hội chủ
nghĩa, việc ký kết hợp đồng là nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nớc,
khi hợp đồng kinh tế bị vi phạm, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Hội
đồng trọng tài kinh tế

Trong quá trình thực hiện bản Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh
tế, Nhà nớc đã ban hành nhiều văn bản quy định các điều lệ về từng chủng
loại hợp đồng chính trị ở nớc ta. Hợp đồng kinh tế đã thực sự trở thành công
cụ điều chỉnh và củng cố các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trớc yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế: xoá bỏ lối quản lý hành
chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phơng thức kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, khắc phục cách quản lý thủ công phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây
dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình
đa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Ngày 10/3/1975, Nhà nớc ta đã ban hành bản Điều lệ về chế độ hợp đồng
kinh tế (ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng
Chính phủ). Điều lệ này đã quy định tơng đối đầy đủ các vấn đề nh: Vai trò
của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc ký kết, các nội dung ký kết và thực hiện hợp
đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp
đồng kinh tế những quy định này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải tiến quản lý kinh tế, góp phần đa các quan hệ
hợp đồng kinh tế trở thành nề nếp, ở giai đoạn này với sự phát triển cao độ của
cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hợp đồng kinh tế đã trở thành một công cụ
pháp lý chủ yếu của Nhà nớc để quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ
nghĩa. Nghĩa là hợp đồng kinh tế đợc coi là một công cụ hữu hiện trong xây
dựng, thực hiện và đánh dấu việc hoàn thành hay không hoàn thành kế
hoạch
4
Nói một cách khác, Nhà nớc ta đã đặt một cái dấu bằng giữa hợp đồng
kinh tế và kế hoạch. Ký kết hợp đồng kinh tế là xây dựng kế hoạch, thực hiện
hợp đồng kinh tế là thực hiện kế hoạch vi phạm hợp đồng kinh tế là vi phạm
hợp đồng kế hoạch Do đó, việc ký kết hợp đồng kinh tế đợc Nghị định
54/CP quy định là một nghĩa vụ, là kỷ luật Nhà nớc. Nhà nớc quy định tỷ mỉ,
chặt chẽ gần nh toàn bộ nội dung của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân
thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc

điểm của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt
lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là ở chỗ, trong quan hệ hợp đồng
kinh tế có sự thống nhất của 2 yếu tố: yếu tố trao đổi tài sản (quan hệ ngang)
và yếu tố tổ chức kế hoạch (quan hệ quản lý). Nhng phải nói rằng, do Nhà nớc
ta đã nhấn mạnh quá mức yếu tố tổ chức - kế hoạch trong quan hệ hợp đồng
kinh tế nên đã làm cho hợp đồng bị biến dạng và đã trở thành công cụ chủ yếu
để Nhà nớc thực hiện sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các
đơn vị kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trờng có định hớng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần xoá bỏ hoàn
toàn cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp xác định rõ phạm vi quản lý
Nhà nớc về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh, xác lập và mở rộng quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở, bảo đảm sự bình đẳng
về mặt pháp lý trong các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế, không phân
biệt thành phần kinh tế.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các
quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới. Bản
Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày
10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Vì vậy, Nhà nớc đã ban hành Pháp lện hợp
đồng kinh tế ở nớc ta, nó đã thể chế hoá đợc những t tởng lớn về đổi mới quản
lý kinh tế của Đảng, trả lại giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với t cách là
sự thống nhất ý chí của các bên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản
pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật
làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong
cơ chế kinh tế mới hiện nay.
5
b. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Theo điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/1989 thì hợp đồnh
kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, hay tài liệu giao dịch giữa các bên ký

kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên
cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh
doanh cà thực hiện kế hoạch của mình
c. Phân loại hợp đồng kinh tế:
*.Căn cứ vào thời gian của hợp đồng kinh tế
+Hợp đồng dài hạn: Hợp đồng này có thời hạn từ trên một nam nhằm
thực hiện kế hoạch dài hạn
+Hợp đồng ngắn hạn: Đây là những hợp đồng có thời hạn đợc thu thực
hiện từ một năm trở xuống.
Dựa vào tính chất của hợp đồng kinh tế, có thể chia hợp đồng kinh tế
thành hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh và hợp đồng kinh tế không
theo chỉ tiêu Pháp lệnh.
Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là hợp đồng kinh tế đợc ký căn
cứ vào chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nớc giao. Ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là kỷ luật của Nhà nớc, là nghĩa vụ của các
đơn vị kinh tế đợc Nhà nớc giao chỉ tiêu Pháp lệnh. Trong nền kinh tế thị tr-
ờng, số lợng hợp đồng kinh tế thuộc loại này rất hạn chế.
Hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh là loại hợp đồng đợc ký
kết theo nguyên tắc tự nguyện nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch của các
chủ thể. Các chế độ ký kết, thực hiện hợp đồng của loại hợp đồng này đợc
nghiên cứu trong các mục tiếp theo của chơng này.
Căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế, trong hợp đồng có
thể chia hợp đồng kinh tế thành các loại sau đây:
- Hợp đồng mua bán hàng hoá
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng xây dựng cơ bản
- Hợp đồng gia công
- Hợp đồng dịch vụ
6
- Hợp đồng nghiên cứu khoa học, triển khai kỹ thuật

- Các loại hợp đồng khác.
3. Đặc điểm hợp đồng kinh tế
- Về nội dung: Hợp đồng kinh tế đợc ký kết nhằm phục vụ hoạt động
kinh doanh. Đó là nội dung thực hiện các công việc sản xuất, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác
do các chủ thể tiến hành trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
tái sản xuất, từ khi đầu t vốn đến khi tiêu thụ sản phẩm hoặc hoàn thành dịch
vụ nhằm sinh lợi hợp pháp.
Kinh doanh là chức năng, nhiệm vụ, là mục tiêu của các đơn vị kinh tế.
Vì vậy, mục đích là kinh doanh luôn đợc thể hiện hàng đầu trong các hợp
đồng mà các chủ thể kinh doanh ký kết, nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch
của mình. Khác với hợp đồng kinh tế, nội dung của hợp đồng dân sự lại chủ
yếu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của các chủ thể ký
kết.
- Về chủ thể hợp đồng, theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp
đồng kinh tế đợc ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay pháp nhân với cá
nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải ký kết trong
phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy
định những ngời làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia
đình, hộ nông dân, ng dân cá thể, các tổ chức và cá nhân nớc ngoài ở Việt
Nam cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp
đồng với một pháp nhân.
Trên thực tế hiện nay và xu hớng trong nền kinh tế thị trờng chủ thể chủ
yếu của hợp đồng kinh tế là các doanh nghiệp. Đối với hợp đồng dân sự, mọi
pháp nhân và cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều có thể là
chủ thể của hợp đồng,.
- Về hình thức, hợp đồng kinh tế phải đợc ký kết bằng văn bản. Đó là bản
hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản có chữ ký của các bên
xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận nh công văn, đơn chào hàng, đơn đặt
hàng, giấy chấp nhận

Ký kết hợp đồng kinh tế bằng văn bản là một quy định bắt buộc mà các
chủ thể của hợp đồng phải tuân theo. Văn bản này là sự ghi nhận rõ ràng về
7
quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận với nhau, là cơ sở pháp lý để các
bên tiến hành thực hiện các điều đã cam kết, để các cơ quan Nhà nớc có thẩm
quyền kiểm tra tính hợp pháp của mối quan hệ kinh tế và giải quyết các tranh
chấp, xử lý các vi phạm nếu hợp đồng dân sự phải ký kết bằng văn bản hoặc
thoả thuận miệng tuỳ theo nội dung của từng quan hệ hợp đồng và ý chí của
các bên ký kết.
Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ảnh mối quan hệ giữa
kế hoạch với thị trờng. Hợp đồng kinh tế đợc ký kết dựa trên định hớng kế
hoạch của Nhà nớc, nhằm các việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các
đơn vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế mà việc ký kết và thực
hiện nó phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nớc.
Trong cơ chế quản lý theo phơng pháp kế hoạch hoá tập trung thì tính kế
hoạch là đặc tính số một của hợp đồng kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn hiện
nay, Nhà nớc ta đã có những thay đổi lớn trong công tác kế hoạch hóa, nhng
tính kế hoạch của hợp đồng kinh tế vẫn tồn tại: Hợp đồng kinh tế giữa các
đơn vị sản xuất kinh doanh vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch, vừa là công cụ
pháp lý bảo đảm việc thực hiện kế hoạch.
Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp đồng kinh tế
và các loại hợp đồng khác nh hợp đồng dân sự, hợp đồng ngoại thơng, hợp
đồng lao động.v.v
II. Chế độ ký kết hợp đồng kinh tế:
1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế.
Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những t tởng chỉ đạo, có tính
chất bắt buộc đối với các chủ thể khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Tính bắt buộc này đợc thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Các
nguyên tắc cơ bản đợc ghi nhận trong Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Hợp đồng kinh tế đợc ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi,

bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không
trái pháp luật.
a- Nguyên tắc tự nguyện:
Theo nguyên tắc này, một hợp đồng kinh tế đợc hình thành, phải hoàn
toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí ), không
thể do sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.
8
Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện
trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt tới mục đích
nhất định. Các bên có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm ký kết và các
nội dung ký kết. Mọi sự tác động làm tính tự nguyện của các bên trong quá
trình ký kết nh bị cỡng bức, lừa đảo, nhầm lẫn đều làm ảnh hởng đến hiệu
lực của hợp đồng kinh tế.
Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong ký kết hợp đồng kinh tế của
các chủ thể kinh doanh đợc Nhà nớc đảm bảo. Ký kết hợp đồng kinh tế là
quyền của các đơn vị kinh tế, quyền này phải gắn liền với những các điều kiện
nhất định, đó là:
- Không đợc phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái
pháp luật.
- Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các
thành phần kinh tế thuộc độc quyền của Nhà nớc thì không đợc lợi dụng
quyền ký kết hợp đồng kinh tế để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng, ép
buộc, cửa quyền, hoặc vì không đạt đợc những đòi hỏi bất bình đẳng đó nên
đã từ chối ký kết hợp đồng kinh tế thuộc ngành nghề độc quyền của mình.
- Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của các đơn vị kinh tế còn đợc thể hiện
qua việc quy định các đơn vị kinh tế có quyền từ chối mọi sự áp đặt của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết hợp đồng kinh tế.
Nguyên tắc tự nguyện trong ký kết hợp đồng kinh tế đánh dấu bớc đổi
mới căn bản trong chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nớc ta, đợc ghi nhận trong
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989.

Cũng cần lu ý rằng, trớc đây cũng nh hiện nay, việc ký kết các hợp đồng
kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh là nghĩa vụ bắt buộc của các đơn vị
kinh tế đợc Nhà nớc giao chỉ tiêu Pháp lệnh, là kỷ luật Nhà nớc. Đối với việc
ký kết loại hợp đồng này, tính tự nguyện của các chủ thể bị hạn chế đáng kể
do có sự ràng buộc bởi tính kỷ luật của các chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh.
b. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi:
Nội dung của nguyên tắc này là khi ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể
phải đảm bảo trong nội dung của hợp đồng có sự tơng xứng về quyền và nghĩa
vụ nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của mỗi bên. Tính bình đẳng này không phụ
thuộc và quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của chủ thể. Bất kể các đơn vị
9
kinh tế thuộc thành phàn kinh tế nào, do cấp nào quản lý, khi ký kết hợp đồng
đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cũng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải
chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Không thể có một
hợp đồng kinh tế nào chỉ mang lại lợi ích cho một bên hoặc một bên chỉ có
quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ. Một hợp đồng kinh tế đợc ký kết mà vi
phạm nguyên tắc bình đẳng thì sẽ ảnh hởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế
đó.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nớc ta còn tồn tại nhiều thành phần,
cơ cấu chủ thể của hợp đồng kinh tế rất đa dạng, nguyên tắc này càng có ý
nghĩa quan trọng. Nó góp phần tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các
thành phần kinh tế, khuyến khích sự phát triển và đa dạng hoá các quan hệ
kinh tế trong nền kinh tế thị trờng.
c. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật
Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ hợp đồng
kinh tế phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết hợp đồng
kinh tế trong trờng hợp đợc một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh về tài sản.
Quy định việc ký kết hợp đồng không trái pháp luật đòi hỏi nội dung,
hình thức chủ thể của hợp đồng kinh tế đó phải phù hợp, tuân theo các quy

định của pháp luật, không đợc lợi dụng việc ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt
động trái pháp luật.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng
kinh tế và việc bảo về trật tự quản lý kinh tế của Nhà nớc. Một hợp đồng kinh
tế chỉ có thể đợc thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó không trái pháp luật
và các bên có khả năng thực hiện đẩy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong giai đoạn hiện nay nguyên tắc này càng cần đợc coi trọng.
2. Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế
Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế đợc quy định tại Điều 10 Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế. Theo quy định này, hợp đồng kinh tế đợc ký kết trên các căn cứ
sau:
10
a. Định hớng kế hoạch của Nhà nớc, các chính sách, chế độ, các
chuẩn mực kinh tế, kỹ thuật hiện hành.
Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng
kế hoạch và là cộng cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế hoạch của mỗi
đơn vị kinh tế đợc xây dựng căn cứ vào định hớng kế hoạch của Nhà nớc, do
đó việc ký kết các hợp đồng kinh tế cũng phải căn cứ vào định hớng kế hoạch
của Nhà nớc. Ngoài ra, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong
việc xây dựng nội dung của hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng các chủ thể
cũng phải căn cứ vào các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nớc,
các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành đối với từng loại sản phẩm, ngành
nghề.
b. Nhu cầu thị trờng, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng.
Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, luôn luôn gắn
liền với sự vận động của thị trờng của quan hệ cung cầu. Vì vậy, trong việc ký
kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị tr-
ờng bao gồm các khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu cần đáp
ứng về hàng hoá dịch vụ của mình và của bạn hàng.
Căn cứ này nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh tế đợc ký kết có khả

năng thực hiện trên thực tế, đồng thời đảm bảo cho sản xuất kinh doanh vừa
mang lại hiệu quả cao cho các đơn vị kinh tế, vừa thoả mãn nhu cầu xã hội,
đảm bảo gắn kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế với quan hệ
thị trờng.
c. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động của
các chủ thể ký kết.
Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế là những
khả năng thực tế về tiền vốn, vật t, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà đơn
vị đó đợc tiến hành hoạt động.
Việc ký kết hợp đồng kinh tế không thể bỏ qua đợc căn cứ này bởi vì nó
đảm bảo khả năng thực tế của việc thực hiện hợp đồng, đồng thời bảo đảm
tính cân đối giữa khả năng và nhu cầu, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa giá trị và
hiện vật.
11
Mặt khác, các đơn vị kinh tế hoạt động đúng ngành nghề cần đảm bảo
các cân đối ngành kinh tế và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nớc.
d. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng
đảm bảo tài sản của các bên cùng ký kết hợp đồng
Đây là một căn cứ rất quan trọng để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng kinh
tế về mặt nội dung cũng nh tính chất hợp pháp của mỗi quan hệ và khả năng
đáp ứng về hàng hoá, khả năng thanh toán của mỗi bên. Căn cứ này nhằm đảm
bảo cho mỗi hợp đồng kinh tế có đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực
hiện trên thực tế.
Tóm lại, khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, các đơn vị kinh tế phải
căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả
năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đầy đủ
điều kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị
mình và cho xã hội.
3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế.

Theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế đợc ký kết
giữa các bên sau đây:
- Pháp nhân với pháp nhân
- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật.
Nh vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là đơn vị có t
cách pháp nhân, còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký
kinh doanh.
Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có tài khoản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài
sản đó.
- Tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, có thể trở thành
nguyên đơn, bị đơn trớc toà án.
- Tồn tại độc lập và đợc pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập.
- Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là ngời đã
đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền theo đúng thủ tục
12
pháp luật quy định và đã đợc cấp giấy phép kinh doanh (giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh )
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 42, Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế,
những ngời làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình,
hộ nông dân, ng dân cá thể, tổ chức và cá nhân nớc ngoài tại Việt Nam khi ký
kết hợp đồng với một pháp nhân Việt Nam cũng đợc áp dụng các quy định của
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Về chủ thể của hợp đồng kinh tế, trong khoa học pháp lý hiện có quan
điểm cho rằng, hợp đồng kinh tế là những hợp đồng có mục đích kinh doanh.
Vì vậy, nó phải đợc thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh - chủ yếu là giữa các
doanh nghiệp với nhau.
Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, mỗi bên tham gia quan hệ hợp
đồng chỉ cần cử một đại diện để ký vào hợp đồng kinh tế. Nếu là pháp nhân

thì ngời ký hợp đồng phải là ngời đợc bổ nhiệm hoặc đang giữ chức vụ đó.
Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì ngời ký
hợp đồng phải là ngời đứng tên trang giấy phép kinh doanh (đã đăng ký kinh
doanh theo đúng quy định của pháp luật và đợc cấp giấy phép kinh doanh).
Trong tất cả các trờng hợp, hợp đồng kinh tế không bắt buộc kế toán trởng
phải cùng ký vào bản hợp đồng kinh tế, đây là điểm khác biệt so với quy định
trong Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành theo Nghị định 54/CP ngày
10/3/1975.
Trong trờng hợp một bên là ngời làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ
nhân thì ngời ký hợp đồng kinh tế phải là ngời trực tiếp thực hiện công việc
trong hợp đồng (nếu có nhiều ngời cùng làm thì ngời ký vào bản hợp đồng
kinh tế phải do những ngời cùng làm cử bằng văn bản có chữ ký của tất cả
những ngời đó, văn bản này phải kèm theo hợp đồng kinh tế ).
Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ng dân cá thể thì đại diện
ký hợp đồng kinh tế phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nớc ngoài tại Việt
Nam thì đại diện tổ chức đó phải đợc uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu là cá nhân
nớc ngoài ở Việt Nam thì bản thân họ phải là ngời ký kết các hợp đồng kinh
tế.
Đại diện ký kết hợp đồng kinh tế nh trên cũng chính là đại diện đơng
nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế và trong tố tụng trớc cơ quan
tài phán.
13
Tuy nhiên, ngời đại diện đơng nhiên của các chủ thể hợp đồng kinh tế có
thể uỷ quyền cho ngời khác hay mình ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Việc
uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thờng xuyên nhng phải đợc thể hiện dới
hình thức văn bản. Việc uỷ quyền thờng xuyên có thể áp dụng trong trờng hợp
ngời đại diện đơng nhiên uỷ quyền cho cấp phó của mình (hoặc do ngời đứng
đầu chi nhánh trực thuộc, có t cách pháp nhân không đầy đủ) theo kỳ hạn cần
uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải ghi rõ họ tên, chức vụ của ngời uỷ quyền,
ngời đợc uỷ quyền, số chứng minh th của ngời đợc uỷ quyền; tính chất và nội

dung uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền và phải có chữ ký xác nhận của cả hai ngời
này. Ngời đợc uỷ quyền chỉ đợc phép hành động trong phạm vi đợc uỷ quyền
và không đợc uỷ quyền lại cho ngời khác. Trong phạm vi uỷ quyền, ngời uỷ
quyền phải chịu trách nhiệm về hành vi của ngời đợc uỷ quyền nh hành vi
chính của mình.
Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp cho các
đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế
lại vừa ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân.
4. Nội dung ký kết hợp đồng kinh tế:
Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì nội dung của
hợp đồng kinh tế bao gồm những điều khoản cụ thể sau:
a. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế.
- Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên.
- Họ tên ngời đại diện, ngời đứng tên đăng ký kinh doanh.
b. Điều khoản đối tợng của hợp đồng:
Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì ? công việc gì ?
Đối tợng của hợp đồng đợc tính bằng khối lợng, số lợng hoặc giá trị quy
ớc đã thoả thuận.
c. Điều khoản chất lợng
Tức là sự quy định thể hiện những đặc điểm, tính cách của đối tợng hợp
đồng. Các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy cách, cách tính, tính
đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn của sản phẩm. Hàng hoá hoặc những yêu cầu
kỹ thuật của công việc giao dịch giữa các bên.
14
d. Điều khoản giá cả:
Các bên có thể thoả thuận xác định đơn giá, hoặc giá trị của toàn bộ công
việc thoả thuận những nguyên tắc xác định rõ giá cả
e. Điều khoản bảo hành:
g. Điều khoản nghiệm thu, giao nhận:
Các bên đợc thoả thuận đặt ra các điều kiện dể giao nhận sản phẩm hàng

hoá, điều kiện để nghiệm thu đối tợng của hợp đồng.
h. Điều khoản phơng thức thanh toán:
Các bên đợc quyền lựa chọn phơng thức thanh toán cho phù hợp với hoạt
động kinh doanh, nhng không trái với những quy định của pháp luật hiện
hành.
i. Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế:
Các bên đợc thoả thuận trong khung phạt do pháp luật quy định đối với
hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, đối với từng chủng loại hợp đồng kinh tế.
k. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng:
l. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
Các bên có thể thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng nh: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy định của
pháp luật.
m. Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể hiện sự thoả
thuận về các vấn đề khác, không trái quy định của pháp luật.
Đề cập đến nội dung hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng do không
nắm vững các quy định pháp luật nên các bên thờngmắc sai lầm khi thoả
thuận các điều khoản. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để một
hợp đồng hợp pháp thì ngoài các điều kiện chủ thể, hình thức hợp đồng còn
phải đảm bảo yếu tố nội dung hợp đồng. Hợp đồng phải đảm bảo các điều
khoản cơ bản thì mới đảm bảo tính hiệu lực.
Về phơng diện khoa pháp lý, căn cứ vào tính chất vai trò của các điều
khoản, nội dung của hợp đồng kinh tế đợc xác định thành ba loại với các điều
khoản sau:
15
Thứ nhất: điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản, quan trọng
nhất của một hợp đồng bắt buộc phải có trong bất cứ hợp đồng kinh tế nào,
nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị Pháp lý, theo Điều 12 Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế các Điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm:
- Ngày, tháng năm ký hợp đồng, tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng

giao dịch của các bên, họ tên ngời đại diện, ngời đứng tên đăng ký kinh
doanh.
- Điều khoản đối tợng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lợng, khối lợng
hoặc giá trị quy ớc đã thoả thuận.
- Điều khoản chất lợng.
- Điều khoản giá cả.
Ngoài ra hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về viềc thiết lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh
doanh. Do đó nội dung của hợp đồng kinh tế trớc hết là những điều khoản do
các bên thoả thuận. Những điều khoản mà các bên đã thoả thuận đó là phát
sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của ác bên tham gia thoả
thuận.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong nền kinh tế thị trờng, pháp
luật không giới hạn các điều khoản mà các bên đã ký kết hợp đồng thoả thuận
với nhau. Nói nh vậy không có nghĩa là các bên thoả thuận nh thế nào đợc,
các bên có quyền thoả thuận nhng những thoả thuận đó không đợc trái với
pháp luật thì mới có hiệu lực và đợc pháp luật bảo vệ. Do đó yêu cầu đặt ra là
nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều
khoản của hợp đồng phải rõ ràng cụ thể.
Trong trờng hợp cần thiết, Nhà nớc vẫn có quyền can thiệp vào nội dung
của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân
theo những quy định bắt buộc về chất lợng sản phẩm để đảm bảo an toàncho
ngời tiêu dùng.
Nh vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ là những điều khoản
mà các bên thoả thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các
bên không thoả thuận nhng theo dquy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ
thực hiện. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng
16
không chỉ phát sinh từ những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể
phát sinh từ những quy định pháp luật.

Trong Thứ hai: điều khoản thờng lệ, là những điều khoản đã đợc pháp
luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi nh các
bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những quy định đó. Nếu
các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không đợc ghi trái với những
điều đã quy đinh đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thi những thoả thuận đó
không có giá trị.
Những quy định của pháp luật sẽ trở thành nội dung của hợp đồng kinh
tế thay vào những điều khoản các bên đã thoả thuận trái đó. Do đó, các bên
phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ:
điều khoản về bối thờng thiệt hại, về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế,
điều khoản về bảo hành. Trong hợp đồng có thể các bên không thoả thuận về
điều khoản bảo hành nhng bên bán vẫn có nghĩa vụ phải bảo hành nếu có quy
định của Nhà nớc về bảo hành sản phẩm đó. Bên bán không thể viện cớ là
trong hợp đồng hai bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành để trốn
trách nhiệm bảo hành. Qua đây chúng ta càng thấy rõ hơn nội dung của hợp
đồng kinh tế không chỉ bao gồm những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận
mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận,
nhng theo quy định của Pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thờng lệ
của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của hợp đồng kinh tế không phụ thuộc vào
các điều khoản thờng lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai
bên không thoả thuận về những điều khoản thờng lệ thì hợp đồng kinh tế vẫn
cứ hình thành và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thứ ba: điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản do các bên tự thoả
thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật quy định
các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả
thuận hoặc không thoả thuận. Nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp
đồng các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Còn nếu các bên không thoả
thuận thì các bên không phải thực hiện. Ví dụ: điều khoản thởngvật chất, điều
khoảm áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng

trogn khung phạt mà pháp luật đã quy định.
17
Theo pháp luật về hợp đồng kinh tế của nớc ta hiện nay thì những thoả
thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng (cầm cố tài sản, thế chấp tài
sản, bảo lãnh tài sản, thoả thuận về tiền thởng do thực hiện tốt hợp đồng) là
những điều khoản tuy nghi. Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung hợp
đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau.
Về điều khoản thởng do thực hiện tốt hợp đồng cần phải xem xét them.
Khái niệm, thực hiện tốt hợp đồng theo chúng tôi là một khái niệm không
có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiên tốt hợp đồng? Sau khi hợp đồng đợc
ký kết và có hiệu lực các bên phải thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện
đúng hợp đồng là bình thờng. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không
đầy đủ hoặc không là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thờng,
chẳng có lý do gì để thởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì phải chịu
trách nhiệm vật chất (phạt hợp đồng và bồi thờng thiệt hại nếu có).
Trong hợp đồng kinh tế, hàng hoá đợc trao đổi ngang giá, do đó điều
khoản thởng phạt tronh hợp đồng kinh tế là vô lý, trái với quy luật kinh tế. Bởi
vì giá cả trong hợp đồng đã chịu sự tác động khách quan của quy luật giá trị
và quy luật cung cầu của thị trờng. Nếu cộng thêm khoản tiền thởng nó sẽ phá
vỡ quy luật trao đổi hàng hoá trên cơ sở ngang giá.
Trong quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ doanh nghiệp t nhân với
nhau hoặc giữa các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, nếu họ
thoả thuận thởng cho nhau thì đó là việc của họ. Điều vô lý đó không ảnh h-
ởng đến lợi ích của ai nên pháp luật cũng không can thiệp. Nhng trong quan
hệ hợp đồng giữa các doanh nghiệp Nhà nớc với nhau hoặc giữa doanh nghiệp
Nhà nớc với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác thì không nên có
điều khoản tuỳ nghi này. Vì sự tuỳ nghi đó có thể dẫn đến sự tuỳ tiện làm
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nớc.
Nói tóm lại các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp
luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả

thuận đó không phải trái pháp luật. Pháp luật chỉ quy định những điều khoản
tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng. Những điều
khoản tối thiểu đó là những điều khỏan chủ yếu của hợp đồng.
Tuy nhiên, về từng khía cạnh cụ thể cần có những hiểu biết và kinh
nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức, về nội dung hợp
đồng nh tiêu đề trình bày.
18
5. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế.
Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp lý, các bên có
thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh tế nh sau:
a. Ký kết hợp đồng bằng phơng pháp ký trực tiếp là cách ký đơn giản.
Hợp đồng kinh tế đợc hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký kết bằng
cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả
thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký
vào bản hợp đồng
b. Ký kết hợp đồng bằng phơng pháp ký gián tiếp là cách ký kết mà
trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch ( công văn, điện
báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ) chứa đựng nội dung cần giao dịch. Việc ký
kết hợp đồng kinh tế bằng phơng pháp ký gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo trình
tự nhất định, thông thờng trình tự này ít nhất cũng gồm hai bớc:
-Bớc một: Một bên lập dự thảo ( đề nghị ) hợp đồng trong đó đa ra
những yêu cầu về nội dung giao dịch ( tên hàng hoặc công việc, số lợng, chất
lợng, thời gian, địa điểm, phơng thức giao nhận, thời hạn thanh toán và gửi
cho bên kia ).
-Bớc hai: Bên nhận đợc đề nghị hợp đồng tiến hành trả lời cho bên
đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung
không chấp nhận, những đề nghị bổ sung
Trong trờng hợp ký kết theo cách ký gián tiếp, hợp đồng kinh tế đợc coi
là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận đợc tài liệu giao dịch
thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng

Dù ký kết bằng phơng pháp ký trực tiếp hay gián tiếp, những hợp đồng
kinh tế đợc hình thành đều có hiệu lực pháp lý nh nhau và các bên đều phải
nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết. Để cho hợp đồng kinh tế
có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau:
- Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật;
- Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng;
- Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền
Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ trở thành
vô hiệu.
19
Mỗi cách ký kết đều có những u điểm và nhợc điểm riêng của nó, lựa
chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa chọn luôn luôn
phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh. Các chủ thể cũng có thể kết
hợp cả hai phơng pháp ký kết để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế.
III. Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế:
Sau khi ký hợp đồng kinh tế và hợp đồng kinh tế có hiệu lực, các bên bị
ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Mọi hành vi
không thực hiện hợp đồng và thực hiện không đầy đủ đều đợc coi là vi phạm
hợp đồng và chịu trách nhiệm vật chất. Để cho hợp đồng đợc thực hiện một
cách đầy đủ và đúng đòi hỏi các bên phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
-Nguyên tắc chấp hành hiện thực: Chấp hành hiện thực hợp đồng là chấp
hành đúng đói tợng hợp đồng, không đợc tự ý thay đổi đối tợng này bằng một
đối tợng khác hoặc không đợc thay thế việc thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi
hỏi thoả thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
-Nguyên tắc chấp hành đúng: Thực hiện hợp đồng một cách đầy đủ và
chính xác tất cả các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Theo nghĩa này,
đây là nguyên tắc bao trùm, rộng hơn nguyên tắc hiện thực. Nguyên tắc chấp
hành đúng đòi hỏi các bên thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ đúng
đắn, chính xác cam kết không phân biệt điều khoản chủ yếu, điều khoản thờng

lệ hay tuỳ nghi. Nếu vi phạm bất cứ cam kết nào trong hợp đồng đều phải chịu
trách nhiệm vật chất cho hành vi đó.
-Nguyên tác hợp tác, tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở hai bên cùng có
lợi. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế
phải hợp tác chặt chẽ, thờng xuyên theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục
khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết và ngay cả
khi có tranh chấp, các bên cũng phải áp dụng phơng pháp này thông qua việc
hiệp thơng giải quyết hậu quả của việc vi phạm hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc
này có ý nghĩa quan trọng trog việc phòng ngừa và giải quyết kịp thời các
tranh chấp hợp đồng kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích các bên.
2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng:
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 Nghị định số 17/HĐBT
ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trởng quy đinh chi tiết thi hành Pháp lệnh
20
về hợp đồng kinh tế có nêu ra các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Thế
chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản. Đây là những biện pháp bảo đảm
mang tính chất kinh tế thờng đợc chủ thể áp dụng.
- Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản
khác thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp
đồng kinh tế đã ký kết.
Việc thế chấp tài sản phải đợc lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi
trong hợp đồng chính) và phải có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà n-
ớc hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trờng hợp không có cơ
quan công chứng)
Ngời thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế
chấp, không đợc chuyển dịch sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho ngời
khác trong văn bản thế chấp còn hiệu lực.
- Cầm cố tài sản:
Cầm cố tài sản là trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho ngời

cùng quan hệ hợp đồng kinh tế để làm tin và đảm bảo tài sản trong trờng hợp
vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc cầm cố phải đợclập thành văn bản
riêng có chữ ký của các bên, có sự xác nhận của cơ quan Nhà nớc có thẩm
quyền nh trờng hợp thế chấp tài sản. Ngời giữ vật cầm cố có nghĩa vụ bảo đảm
nguyên giá trị của vật cầm cố và không đợc chuyển giao vật cầm cố cho ngời
khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực.
- Bảo lãnh tài sản
Là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của ngời nhận bảo
lãnhđể chịu trách nhiệm tài sản thay cho ngời đợc bảo lãnh khi ngời này vi
phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Ngời nhận bảo lãnh phải có số tài sản không
ít hơn số tài sản mà ngời đó nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải đợc làm
thành văn bản, có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi ngời bảo lãnh giao
dịch của cơ quan công chứng Nhà nớc hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký
kinh doanh (trờng hợp không có cơ quan công chứng Nhà nớc).
Việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm hợp
đồng kinh tế đợc thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh
21
tế tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là Toà án kinh tế hoặc các trung tâm Trọng
tài kinh tế phi Chính phủ.
So với pháp luật về hợp đồng kinh tế trớc đây, Bộ luật dân sự quy định về
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự một cách chặt chẽ và đầy đủ
hơn. Các biện pháp đảm bảo trong Bộ luật dân sự phong phú hơn.
3. Thay đổi đình chỉ thanh lý hợp đồng kinh tế
-Thay đổi hợp đồng kinh tế là việc sửa đổi, bổ sung một số điểm của nội
dung của hợp đồng kinh tế ch o phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh
doanh của các bên hoặc là sự thay đổi chủ thể hợp đồng. Khi có sự chuyển
giao một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh từ một chủ thể hợp
đồng kinh tế sang một pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh. Việc
sửa đổi hợp đồng kinh tế có mục đích giúp các bên khắc phục các thiếu sót
trong ký kết hợp đồng các bên gặp phải hoặc nhằm khắc phục hậu quả của

nguyên nhân khách quan. hợp đồng kinh tế chỉ thay đổi khi các bên thống
nhất ý chí bằng văn bản.
-Đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế là sự chấm dứt nửa chừng việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng kinh tế. Khi một
bên vi phạm hợp đồng kinh tế và đã thừa nhận sự vi phạm đó hoặc đã đợc cơ
quan, tổ chức, toà án có thẩm quyền kết luận là có vi phạm, bên bị vi phạm có
quyền đơn phơng đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế đó, nếu việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng kinh tế không có lợi cho mình. Bên đơng phơng đình chỉ
phải thông báo cho bên vi phạm biết bằng văn bản và văn bản đó phải gửi cho
bên vi phạm biết trong thời gian 10 ngày, kể từ ngày bên vi phạm thừa nhận vi
phạm hoặc có kết luận của cơ quan toà án có thẩm quyền. Hợp đồng kinh tế
có thể bị huỷ bỏ khi các bên thoả thuận với nhau bằng văn bản. Tuy nhiên, cần
lu ý rằng hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ không phải có sự thống nhất ý chí
của các bên mà do ý chí của cơ quan toà án có thẩm quyền bắt buộc.
-Thanh lý hợp đồng kinh tế là hành vi của chủ thể hợp đồng kinh tế nhằm
kết thúc quan hệ hợp đồng kinh tế. Đê r đạt đợc mục đích đó, trong quá trình
thanh lý hợp đồng kinh tế các bên phải gặp nhau giải quyết những tồn đọng,
đánh giá những kết quả đạt đợc hoặc cha đạt đợc để xác định quyền và và
nghĩa vụ của các bên, thanh lý hợp đồng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của các
bên.
22
4. Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu:
Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết
trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ
của các bên đợc xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có
hiệu lực thực hiện. Có 2 loại hợp đồng kinh tế vô hiệu là hợp đồng kinh tế vô
hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. Việc kết luận hợp đồng
kinh tế vô hiệu toàn bộ hay từng phần thuộc thẩm quyền của toà án kinh tế.
a. Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ:
Những hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị coi

là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi ký hợp đồng kinh tế đợc hình thành.
- Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ
các bên thoả thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán vận chuyển hàng cấm.
- Không đảm bảo t cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các
bên đã ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, theo quy
định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu
pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng
ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp
đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật chỉ cần có một bên có
đăng ký kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ
phơng tiện vận tải ) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó
cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ.
- Ngời ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo.
Ngời ký kết hợp đồng đúng thẩm quyền tức là ngời đó không phải là đại diện
hợp pháp; không phải là ngời đợc uỷ quyền hoặc đợc uỷ quyền nhng vợt quá
phạm vi uỷ quyền đó. Khi ngời ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo nh giả
danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó đợc coi là vô hiệu
toàn bộ.
b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần:
Những hợp đồng kinh tế có nội dung vi phạm một phần điều cấm của
pháp luật nhng không ảnh hởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi
là vô hiệu từng phần tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật,
còn những phần khác vẫn có hiệu lực pháp luật.
23
Theo khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Hợp đồng
kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm
của luật, nhng không ảnh hởng đến nội dung các phần cònlại của hợp đồng
Trong trờng hợp, hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên
phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu,
đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu

đó.
* Nguyên tắc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với quy
định của pháp luật. Đối với các hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, dù các bên
cha thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều bị xử lý theo quy
định của pháp luật.
- Nếu nội dung của hợp đồng cha thực hiện thì các bên không đợc thực
hiện nữa.
- Nếu nội dung của hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong thì
bị xử lý tài sản nh sau; các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận đ-
ợc từ việc thực hiện hợp đồng; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng thì phải
nộp vào ngân sách nhà nớc, thiệt hại phát sinh thì các bên phải gánh chịu.
- Ngời ký kết hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, ngời cố ý thực hiện hợp
đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ thì tuỳ theo mức độ vi phạm và bị xử lý kỷ luật,
xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật.
Trờng hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải
sửa đổi các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu
và bị xử lý theo pháp luật đối với phần vô hiệu đó.
IV. Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng
kinh tế
1. Khái niệm và ý nghĩa của trách nhiệm vật chất
Trách nhiệm vật chất là biện pháp pháp lý áp dụng cho các vi phạm hợp
đồng kinh tế đã đợc quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định
và các văn bản khác. Điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Các bên
phải chịu trách nhiệm tài sản với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện
24
không đầy đủ hợp đồng kinh tế. Bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm tiền
phạt vi phạm hợp đồng và trong trờng hợp có thiệt hại thì phải bồi thờng thiệt
hại theo quy định của pháp lệnh. Qua quy định trên ngời ta hiểu rõ trách

nhiệm vật chất ở hai góc độ:
+Dới góc độ khách quan:
Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội giữa các chủ thể trong hợp
đồng kinh tế phát sinh do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế. Theo nghĩa này,
trách nhiệm vật chất chứa đựng nội dung kinh tế thể hiện ở khoản tiền phạt và
tiền bồi thờng thiệt hại. Đó là hậu quả vật chất bất lợi mà bên vi phạm hợp
đồng phải gánh chịu.
+Dới góc độ chủ quan:
Trách nhiệm vật chất đợc biểu hiện là sự gánh chịu những hậu quả vật
chất bất lợi của bên vi phạm hợp đồng mà đã đơcj pháp luật quy định, thể hiện
dới 2 hình thức phạt vi phạm hợp đồng và bồi thờng thiệt hại. Hai hình thức
này còn gọi là chế tài Trách nhiệm vật chất, bộ phận không thể thiếu đợc của
một quy phạm pháp luật hợp đồng kinh tế.
2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm vật chất
Bên bị vi phạm hợp đồng kinh tế và cơ quan tài phán kinh tế chỉ có thể áp
dụng trách nhiệm vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng kinh tế khi có các
căn cứ sau đây:
-Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế
-Có thiệt hại thực tế xảy ra
-Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế
-Có lỗi của bên vi phạm
Hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế là các hành vi vi phạm các cam kết
trong hợp đồng kinh tế. Chúng thờng thể hiện dới dạng là không thực hiện,
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng kinh tế.
Để đòi bồi thờng thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh đợc bên vi phạm
đã gây ra thiệt hại cho mình. Những thiệt hại đó là thiệt hại về vật chất và thực
tế tính toán đợc. Thiệt hại này phải chính do sự vi phạm hợp đồng gây nên hay
nói cách khác nó là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế của bên vi
25

×