1
MỤC LỤC
1. Thông tin đề tài....................................................................................................................................2
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài...................................................................................................................3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................................6
4. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................................................6
5. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................................................6
1. Các hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Liên bang Nga..............................................................6
2. Đánh giá khái quát hoạt động thương mại hai nước trước năm 1992................................................6
3. Nghiên cứu thực trạng hoạt động thương mại giữa hai nước từ 1992 – nay......................................6
4. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt – Nga đến tầm nhìn 2020........................................6
6. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................................6
7. Kết cấu đề tài.......................................................................................................................................6
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TRƯỚC NĂM 1992................8
1.1 Cơ sở quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga.....................................................................8
1.2 Đặc điểm kinh tế Liên bang Nga..........................................................................................................9
CHƯƠNG II. QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA, NHÌN TỪ HAI PHÍA.................................13
2.1 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam........................................13
2.2 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Liên bang Nga........................................24
Chương III. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên bang Nga..................................28
3.1 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU FTA).............28
3.2 Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực thương mại.......................................................................................33
3.3 Hợp tác trên lĩnh vực đầu tư..............................................................................................................39
Chương IV. Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga..............42
4.1 Thách tựu và Hạn chế........................................................................................................................42
4.2 Triển vọng............................................................................................................................................46
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................49
A. Dẫn luận.
2
1. Thơng tin đề tài.
Trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc liên kết giữa các
quốc gia, các khu vực ngày càng trở nên cấp thiết. Các nền kinh tế ngày càng gắn
bó, phụ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, các thể chế đa
phương và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng với sự phát triển của ý thức độc
lập tự chủ, tự lực, tự cường của các dân tộc. Trước tình hình đó, hịa bình, ổn định
và hợp tác trên mỗi lĩnh vực kinh tế và thương mại để cùng nhau phát triển ngày
càng trở nên vô cùng cần thiết đối với các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từng bước hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ
vai trò hoạt động của kinh tế đối ngoại, coi đó là động lực quan trọng để phát triển
kinh tế quốc dân, với chủ trương đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng
“Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng
hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện nước ta”
và “chủ động và tích cực thâm nhập vào thị trường quốc tế, chú trọng thị trường
các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen
thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hóa theo
phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới”.
Liên Xô trước đây trong thế kỷ XX vốn là thị trường chủ yếu và quan trọng
trong thương mại quốc tế của Việt Nam. Quan hệ thương mại Việt -Xô đã đóng
một vai trị quan trọng trong cơng cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển kinh tế của
Việt Nam. Sau khi Liên Xô tan rã 1991, Liên bang Nga kế thừa các mối quan hệ
kinh tế thương mại với Việt Nam, có thể xem đó là bước ngoặt lịch sử trong mối
quan hệ thương mại giữa hai nước. Bối cảnh lúc đó khiến cho mỗi nước gặp khơng
ít khó khăn, gây tác động tiêu cực đến quan hệ thương mại Việt – Nga. Từ vị trí là
thị trường chủ yếu chiếm tỷ trọng đặc biệt lớn trong quan hệ thương mại quốc tế
3
của Việt Nam, kim ngạch thương mại chiếm 70-80%, nhưng sau khi Liên Xơ sụp
đổ thì chỉ cịn 2%. Trao đổi hàng hóa 2 chiều Việt – Nga giảm sút mạnh, hàng hóa
Việt Nam mất khả năng cạnh tranh trên thị trường Liên bang Nga, đầy rủi ro. Tuy
nhiên, cùng với chính sách quay trở lại “Hướng Đơng” cũng như là việc Tổng
thống V. Putin lên cầm quyền, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển mới,
quay trở lại thị trường bạn bè truyền thống, cho nên tiềm năng phát triển quan hệ
song phương của hai nước vẫn là rất lớn.
Trước một sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn sự phát triển quan hệ Việt –
Nga, cần phải có một nghiên cứu có thể khái quát lại quá trình phát triển quan hệ
thương mại kinh tế giữa Việt Nam và Liên bang Nga, nghiên cứu có ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn. Là luận cứ xác thực phục vụ cho việc phát triển quan hệ thương
mại Việt – Nga trong giai đoạn mới nhất là trong bối cảnh mối quan hệ hai nước
được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện, cũng như là Việt Nam đang hội
nhập sâu rộng vào Liên minh kinh tế Á – Âu do Nga sáng lập.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Nhóm tư liệu về văn kiện, phát biểu của lãnh đạo về quan điểm chính sách,
đối ngoại của Việt Nam và Nga.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Các văn kiện Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Văn kiện Đại hội Đảng chính là tư liệu quan trọng nhất để tìm hiểu về đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Từ
đó chúng tơi có thể phân tích, khai thác những nội dung này để tìm hiểu về chính
sách đối ngoại của Việt Nam với các nước lớn trong đó có Liên bang Nga.
4
- Sở Ngoại vụ, thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam: Tuyên bố chung Việt – Nga,
/>030094456/ .
Tuyên bố chung chính là những văn kiện có nội dung hợp tác, trao đổi trong
quan hệ giữa Việt Nam và Nga được ký kết trong các chuyến thăm chính chức của
lãnh đạo hai nước. Cùng với những nội dung nhằm phát triển, thúc đẩy quan hệ
giữa hai quốc gia trong từng giai đoạn phát triển quan hệ hai nước. Chúng tối sử
dụng những bản Tuyên bố chung này chính là cơ sở để chúng tơi khai thác, tìm
hiểu về những quan điểm nhằm thúc đẩy quan hê ngoại giao giữa Việt Nam và
Nga.
- Trang thông tin điện tử Đại sứ quán Nga tại Việt Nam:
/>Đây là trang tin của Đại sứ quán Nga tại Việt Nam. Nơi đăng tải những tin
tức, nội dung các chuyến thăm của các lãnh đạo Nga đến Việt Nam, cùng với
những bài phát biểu, báo cáo của họ trong các chuyến thăm Việt Nam. Chính vì
vậy để tìm hiểu quan điểm chính sách đối ngoại của Nga chúng tôi sử dụng nguồn
tài liệu từ Cổng thông tin điện tử Đại sứ quán Nga tại Việt Nam
Nhóm tư liệu các sách chuyên khảo về quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga.
- Trịnh Thị Thanh Thủy, luận án tiến sĩ kinh tế (2007), Quá trình phát triển
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong bối cảnh Hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Lê Xuân Bá, 2004, Hội nhập kinh tế áp lực cạnh tranh trên thị trường và
chính sách của một số nước, Nxb Giao thơng vận tải, Hà Nội.
- Bộ Ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế tồn cầu hóa vấn đề
và giải đáp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5
- Trần Thị Minh Hạnh, 1998, Một số giải pháp nhằm khôi phục và phát triển
thị trường Liên bang Nga, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện nghiên cứu thương
mại – Bộ Thương mại.
- Võ Đại Lược – Lê Bộ Lĩnh, 2005, Quan hệ Việt – Nga trong bối cảnh quốc tế
mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nhóm tư liệu Các bài nghiên cứu, khảo luận trên các tạp chí chuyên đề về đối
ngoại
- Bùi Khắc Bút, 2002, Nhìn lại 200 năm nền quan hệ ngoại giao Nga và nửa
thế kỷ quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt Việt – Nga.
- Nguyễn Phúc Khanh, 2002, Trang mới trong quan hệ thương mại Việt Nam –
Liên bang Nga, Tạp chí kinh tế đối ngoại, số 1.
- Bùi Huy Khoát, 1995, Quan hệ kinh tế - Liên bang Nga thực trạng và triển
vọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Quang Thuấn, 2001, Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Liên
bang Nga : đối tác chiến lược trong thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Châu
Âu, số 1.
Các nguồn tư liệu thống kê
Bên cạnh các nguồn tư liệu trên để phục vụ đề tài này qua các thông số, số
liệu thống kê về kinh tế chúng tôi còn sử dụng số liệu thống kê thương mại, đầu tư
giữa Việt Nam và Nga qua các Cổng thông tin điện tử Hải Quan Việt Nam tại địa
chỉ , trang Cổng thông tin điện tử Tổng cục thống kê
tại địa chỉ và Cổng thông tin quốc gia về đầu tư nước
ngoại tại địa chỉ để phục vụ cho đề tài nghiên
cứu của mình.
6
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu.
1. Nghiên cứu cơ sớ lý luận và thực tiễn quan hệ thương mại quốc tế giữa
Việt Nam – Liên bang Nga trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên
bang Nga giai đoạn từ 1992 đến nay (2018), tổng kết những thành tựu và kinh
nghiệm.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Là quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Phạm vi nghiên cứu
1. Các hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Liên bang Nga.
2. Đánh giá khái quát hoạt động thương mại hai nước trước năm 1992.
3. Nghiên cứu thực trạng hoạt động thương mại giữa hai nước từ 1992 – nay
4. Triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt – Nga đến tầm nhìn 2020.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp
phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp và phương pháp so sánh.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung đề
tài được chia làm 4 chương:
Chương I. Khái quát quan hệ Việt – Nga trước năm 1992
7
Chương II. Quan hệ Việt – Nga nhìn từ hai phía.
Chương III. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa Việt Nam – Liên
bang Nga.
Chương IV. Thành Tựu, Hạn chế và triển vọng cho quan hệ hợp tác Việt
Nam – Liên bang Nga.
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT QUAN HỆ VIỆT NAM –
LIÊN BANG NGA TRƯỚC NĂM 1992.
1.1 Cơ sở quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga
Năm 1950, Việt Nam và Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao. Tuy nhiên,
do điều kiện của cuộc kháng chiến chống Pháp cho nên quan hệ hợp tác kinh tế
giữa Việt Nam và Liên Xơ là chưa có, chỉ dừng lại ở mức viện trợ một số trang
thiết bị quân sự mà thôi. Mãi đến năm 1955, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Liên Xơ mới chính thức bắt đầu, từ đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa
hai nước liên tục tăng và tăng rất nhanh qua các năm, hoạt động viện trợ và đầu tư
của Liên Xô sang Việt Nam cũng phát triển nhanh, đã góp phần tăng thêm khối
lượng hàng hóa và nguyên vật liệu trao đổi giữa hai nước.
Thời kỳ từ năm 1955 đến 1975, do đặc thù hoàn cảnh trong nước nên quan
hệ thương mại giữa hai nước chủ yếu diễn ra một chiều từ Liên Xô sang Việt Nam.
Từ năm 1976 đến 1991, thì quan hệ thương mại diễn ra cả hai chiều, và được thực
hiện trên cơ sở các Hiệp định thương mại và Nghị định thư được ký kết hàng năm,
tuy nhiên luồng hàng hóa từ Liên Xơ sang Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn về cả
khối lượng lẫn giá trị. Nếu như năm 1955, kim ngạch buôn bán hai chiều mới chỉ
đạt 5 triệu Rub, thì đến năm 1960 kim ngạch đã tăng lên gấp 13 lần. Trong 5 năm
8
1976-1980 khối lượng trao đổi hàng hóa giữa 2 nước bằng 20 năm trước đó cộng
lại. Trong những năm 80 sau đó, khối lượng và kim ngạch hàng hóa trao đổi giữa
Liên Xô và Việt Nam càng lớn, đạt đỉnh cao nhất trong giai đoạn 1986-1990, với
quy mô là 10.192,8 triệu Rub1.
Hoạt động trao đổi hàng hóa giai đoạn này được thực hiện trong bối cảnh
nền kinh tế kế hoạch hóa ở cả hai nước và trên cơ sở nghị định thư được ký kết
giữa hai bên. Giá cả hàng hóa trao đổi được xác định ổn định theo sự thỏa thuận.
Với những điểm riêng biệt của quan hệ thương mại Việt – Xô lúc bấy giờ, kim
ngạch trao đổi song phương tuy có tăng lên, nhưng chưa xứng với tiềm năng sẵn có
của cả hai bên. Ngun nhân chính là do nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn lạc
hậu, cơ chế không phù hợp, chưa khơi dậy được tính chủ động, sáng tạo và khả
năng linh hoạt của các doanh nghiệp, chưa khai thác được năng lực sản xuất và
xuất khẩu của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
1.2 Đặc điểm kinh tế Liên bang Nga.
Liên bang Nga là quốc gia có địa lý trãi dài trên 2 châu lục là châu Âu và
châu Á, với diện tích lớn nhất thế giới 17,1 triệu km2, trong đó 1/3 nằm ở châu Âu
và 2/3 nằm ở châu Á. Phía Đơng và phía Nam giáp với Trung Quốc, phía Đơng
Nam giáp với CHDCND Triều Tiên, phía Nam giáp với Mơng Cổ, Ca-dắc-xtan, Adéc-bai-gian và Gru-zia, phía Tây Nam giáp với U-crai-na, phía Tây giáp với Bêla-rút, Lát-via, Ét-tơ-nia, Phần Lan và Na Uy. Giáp với các đại dương như Thái
Bình Dương, Bắc Băng Dương, biển Ban tích và Biển Đen.
Cơ cấu hành chính lãnh thổ nước Nga gồm 89 đơn vị chính thức gọi là các
chủ thể liên bang, 21 nước cộng hòa, 49 tỉnh, 6 vùng, 1 tỉnh tự trị, 10 khu tự trị, 2
thành phố trực thuộc Trung ương là Mát-xcơ-va và Xanh Pê-téc-bua.
1 Số liệu thống kê kinh tế - xã hội của Việt Nam 1985-1995.
9
Về dân số, Liên bang Nga hiện nay có 144,5 triệu người, đứng vị trí thứ 6
trên thế giới, là một quốc gia đa sắc tộc, đa tôn giáo, nước Nga hiện nay có trên
100 sắc tộc trong đó sắc tộc Nga là chiếm đa số.
Về tài nguyên thiên nhiên, nước Nga có tài nguyên rất phong phú, bao gồm :
khí đốt, dầu mỏ, than gỗ, muối mỏ, kim cương, uranium, nhôm, đồng, vàng, thiếc
…
Về chế độ Nhà nước, liên bang Nga là nhà nước cộng hịa, theo Hiến pháp
thì Tổng thống là nguyên thủ quốc gia bảo đảm việc thực thi Hiến pháp trên tồn
lãnh thổ. Chính phủ liên bang Nga là thủ tướng thực thi quyền hành pháp. Quyền
lập pháp thuộc về Quốc hội liên bang gồm hai viện là : Hội đồng liên bang (thượng
viện) và Duma quốc gia (hạ viện). Liên bang Nga xây dựng hệ thống đa ngun
theo mơ hình đảng phái chính trị phương Tây.
Kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, với tư cách quốc gia kế tục thì
nước Nga thừa hưởng 70% lãnh thổ, 61% dân số, 90% dầu khí, 80% vũ khí hạt
nhân và 10/17 nhà máy điện hạt nhân, 75% tiềm lực cơng nghiệp nói riêng và tiềm
lực kinh tế Liên Xơ nói chung với cơ sở vật chất kỹ thuật hùng hậu, hệ thống kết
cấu hạ tầng được xếp loại cao trên thế giới, có nền khoa học kỹ thuật phát triển,
đặc biệt là khoa học cơ bản. Hầu hết các viện nghiên cứu, trường đại học, trung
tâm khoa học lớn của Liên Xô đều nằm trên lãnh thổ liên bang Nga, vì vậy nước
Nga có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo; người dân Nga được hưởng
nền giáo dục và học vấn của Liên Xơ nên trình độ mặt bằng tương đối cao. Là một
trong hai quốc gia có tiềm lực vũ khí hạt nhân mạnh nhất và là thành viên của Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc. Đây cũng là những thuận lợi lớn làm cơ sở cho liên
bang Nga chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.
10
Tuy nhiên những năm đầu thập niên 90, thế kỷ XX, tình trạng khủng hoảng
về kinh tế -xã hội đã làm nước Nga tụt hậu so với các nước phát triển. Các biểu
hiện được thể hiện qua các mặt như sau:
Về kinh tế:, đó là sự phá vỡ của một chỉnh thể kinh tế thống nhất được xây
dựng trong một thời gian dài thành các quốc gia độc lập, những vấn đề phát triển
không đồng đều kinh tế -xã hội giữa các khu vực trở nên gay gắt. Hội đồng tương
trợ kinh tế SEV mà Liên Xô là trụ cột bị giải thể đã phá vỡ các mối quan hệ kinh tế
đối ngoại quan trọng.
Mục tiêu đối nội của liên bang Nga khi tách ra làm một thực thể độc lập trên
trường quốc tế đó là xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
chuyển sang nền kinh tế thị trường và thúc đẩy cải cách dân chủ theo mơ hình các
nước phương Tây. Tuy nhiên, sau một vài năm thực hiện mục tiêu này, nước Nga
khơng những khơng thốt khỏi khủng hoảng mà cịn lâm vào khủng hoảng mới.
Về chính trị: diễn biến chính trị nội bộ của Liên Xô là vô cùng phức tạp với
những đặc điểm, mâu thuẫn và đấu tranh quyền lực của các phe phái. Trong cuộc
đấu tranh đó giữa B. Yelsin (chủ trương thành lập nước cộng hòa tổng thống) và
phó tổng thống Ruskoi – Khasbulatov chủ tịch Xơ viết tối cao (chủ trương thành
lập cộng hòa nghị viện). Mặc dù B. Yelsin đã giành thắng lợi, Hiến pháp 1993 đã
được thông qua, nước Nga đã trở thành nước cộng hịa Tổng thống, nhưng mâu
thuẫn giữa các lực lượng chính trị vẫn âm ỉ trong suốt nửa sau thập niên 90.
Về xã hội: do những khủng hoảng chính trị, thất bại về kinh tế đã tác động
mạnh mẽ đến tinh thần, tạo nên sự phân hóa sâu sắc về tư tưởng và thái độ của
người dân. Cùng với sự bất ổn về chính trị, các khoảng trống pháp luật xuất hiện
làm cơ sở cho sự gia tăng tội phạm, bạo lực, thiếu an tồn. Các mâu thuẫn về sắc
tộc, tơn giáo, … vẫn đang là nguy cơ tiềm ẩn để chủ nghĩa ly khai xuất hiện, và
11
ảnh hưởng trực tiếp đến an sinh xã hội thống nhất và toàn vẹn của quốc gia rộng
lớn này.
Như vậy, đặc điểm chủ yếu của liên bang Nga sau khi Liên Xơ sụp đổ, có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, cũng như là quan hệ
đối ngoại của liên bang Nga là:
-
Nền kinh tế chuyển đổi từ quản lý kế hoạch hóa, quan liêu với vai trò
chủ đạo là Nhà nước sang quản lý theo cơ chế thị trường mơ hình các nước phương
Tây.
-
Nhà nước chuyển sang thực hiện vai trò định hướng để khai thác các
thế mạnh của quốc gia, còn thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới là lực lượng
năng động trên thị trường.
-
Cơ cấu nền kinh tế có sự thay đổi cùng với sự thay đổi về chế độ sở
hữu. Nền kinh tế chuyển sang tư nhân hóa, vai trò của kinh tế tư nhân được đề cao,
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu – các lĩnh vực mà trước đây các
doanh nghiệp nhà nước vẫn độc quyền quản lý.
-
Từ chỗ nền kinh tế chỉ ưu tiên trung quan hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa trên nguyên tắc tương trợ lẫn nhau và lĩnh vực ngoại thương thuộc độc
quyền nhà nước, nay thực hành kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng hóa trong
quan hệ đối ngoại, nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại với nước ngồi là đơi bên
cùng có lợi và có ưu tiên theo từng chiến lược thời kỳ.
kinh tế.
Quan hệ chưa chú trọng nhiều hơn đến mối quan hệ mang lại lợi ích
12
CHƯƠNG II. QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG
NGA, NHÌN TỪ HAI PHÍA
2.1 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt Nam.
2.1.1. Chính sách của Nga đối với Việt Nam (1991 - nay).
Từ năm 1991 đến năm nay, mặc dù chưa đầy ba thập niên, song chính sách
của Nga đối với Việt Nam trải qua khá nhiều thăng trầm. Có thể khái qt chính
sách của Nga đối với Việt Nam thời kỳ này qua hai giai đoạn: 1991 - 1993 , 1994 –
2012 , 2012 - nay.
- Giai đoạn 1991 - 1993
Đây là giai đoạn chính sách đối ngoại của Nga chịu nhiều xáo trộn nhất
trong thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội cũ sang xã hội mới và in dấu ấn đậm nét trong
chính sách của Nga đối với Việt Nam.
Mặc dù chính thức tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên Xô vào ngày
24/8/1991, nhưng về cơ bản, đến cuối năm 1991, nước Nga vẫn thực hiện chính
sách đối ngoại trong khn khổ Liên Xơ. Đó là chính sách đối ngoại theo “tư duy
chính trị mới” của Mikhail Gorbachev với đường lối “từ bỏ lợi ích giai cấp cơng
nhân, hạ thấp giá trị giải phóng của chủ nghĩa xã hội để đề cao các lợi ích chung
tồn nhân loại, thực hiện “phi tư tưởng hóa” các quan hệ quốc tế để đổi lấy sự hòa
dịu với phương Tây, hy sinh đồng minh nhằm nhanh chóng đưa Liên Xơ hịa nhập
vào hệ thống “xã hội văn minh”2.
Sau khi lên cầm quyền nước Nga với tư cách là quốc gia kế thừa Liên Xô
(1992), với mục tiêu xóa bỏ tồn bộ cơ sở kinh tế - xã hội của hình thái kinh tế - xã
hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), hội nhập nhanh Liên bang Nga vào cộng đồng các
2 Nguyễn Quốc Hùng – Nguyễn Thị Thư, Lược sử Liên bang Nga 1917-1991, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.278.
13
nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) châu Âu, cùng với tác động chuyển hóa hịa bình
của Mỹ và phương Tây, B.N. Yeltsin đã thực hiện đường lối đối ngoại “Định
hướng Đại Tây Dương”. Chính sách này dựa trên cơ sở những nguyên tắc của “tư
duy chính trị mới” được Gorbachev nêu ra từ tháng 11/1990 nhưng được thúc đẩy
ở mức độ cao, với quyết tâm biến Liên bang Nga thành nước TBCN trong thời gian
ngắn nhất. Bộ trưởng Ngoại giao Nga Andrei Kozyrev đã thể hiện quyết tâm đoạn
tuyệt cơ sở xã hội cũ với lý do: “Mỹ và các nền dân chủ phương Tây khác là
những người bạn tự nhiên và những người đồng minh cuối cùng của nước Nga
dân chủ vì họ là kẻ thù của chuyên chế Liên Xơ”3.
Có nhiều lý do thúc đẩy chính quyền B.N. Yeltsin lựa chọn chính sách đối
ngoại hướng Tây. Ngồi chủ trương từ bỏ ý thức hệ cộng sản với mong muốn hội
nhập nhanh vào nền văn minh TBCN nhưng lý do lớn nhất, thực trạng nước Nga
đầu những năm 1990 là yếu tố tác động trực tiếp đến định hướng đối ngoại này.
“Nga có xu hướng tồn tại như một chính thể đa nguyên với nền dân chủ và pháp
luật yếu kém, một xã hội dân sự mới phôi thai, một nền kinh tế dựa trên khai thác
nguyên liệu thô và một dân số bần cùng hoá”4. Hệ thống cơ quan lập pháp và hành
pháp từ trung ương đến địa phương dưới thời Liên Xô vẫn đang hoạt động và chưa
sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới. Trong khi đó, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
dân chủ ở Nga cần được củng cố để tránh nguy cơ bị đảo lộn chính trị.
Mặt khác, sau nhiều sự cố to lớn, nước Nga “đơn thương độc mã” khơng cịn
đủ sức khôi phục nền kinh tế, nên hơn lúc nào hết, Nga rất cần đến nguồn viện trợ,
vốn đầu tư, khoa học - công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại và các đối tác làm
ăn mới. Điều đó, theo Nga chỉ có thể tìm kiếm từ các nước phương Tây, trước hết
là các nước G7. Thực tế cho thấy, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, để ngăn chặn
3 Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition),
Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.55.
4 Hà Mỹ Hương (2000), “Nước Nga trên trường quốc tế: hôm qua, hôm nay và ngày mai”, Nghiên cứu Quốc tế,
tr.24.
14
Nga quay lại thể chế Liên Xơ, chính quyền Bill Clinton và Tây Âu trên danh nghĩa
“cải thiện quan hệ”, đã viện trợ ồ ạt (khoảng 60 tỷ USD tính đến năm 1993 5) giúp
Nga định ra “liệu pháp sốc” cải cách kinh tế, tăng tốc độ tư nhân hoá, nhanh chóng
hồn thành chuyển đổi “quỹ đạo kinh tế” để Nga sớm trở thành nhà nước phương
Tây thực sự. Động thái trên của Mỹ càng làm Nga yên tâm với “chính sách đối
ngoại đầy ảo tưởng”.
Do đó, từ năm 1991 đến năm 1993, Nga hoàn toàn hướng về châu Âu với
xác định của B.Yeltsin: “Nhiệm vụ trung tâm bao trùm mọi hoạt động quốc tế của
Nga là xây dựng quan hệ bạn bè ổn định với các nước dân chủ trên thế giới nhằm
bảo đảm cho nước Nga gia nhập khối cộng đồng các quốc gia văn minh một cách
hoàn tồn hợp pháp và hài hịa”6. Định hướng đối ngoại này tác động sâu sắc đến
chính sách của Nga đối với phương Đông và Việt Nam. Trong những năm 1991 1993, chính sách đối với Việt Nam hầu như bị bỏ ngỏ, quan hệ Nga - Việt rơi vào
tình trạng “đóng băng”.
Nga từ bỏ các cuộc tiếp xúc cấp cao với Việt Nam nhằm phối hợp nỗ lực
ngoại giao và tham vấn các vấn đề chính trị quan trọng dưới thời Liên Xơ. Do đó,
quan hệ ngoại giao hai nước trong thời gian này dừng lại ở tính hình thức và chủ
động từ phía Việt Nam. Chuyến thăm Nga của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Trần Đức Lương (7/1992) khơng thu được cam kết cụ thể nào ngồi việc nhất trí
thành lập Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học - kỹ
thuật. Năm 1993, trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Y. Iarov
(5/1993) và chuyến thăm Nga của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm
5 Anderei P. Tsygankov (2010), Russia, s Foreign Policy - Change and Continuity in National Identity (second edition),
Rowman & Littlefield Publishers Inc., UK, tr.9
6 Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh
Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, tr.67.
15
(10/1993), hai bên khẳng định khắc phục quan hệ trì trệ, song về cơ bản, chưa có
thay đổi thực tế.
Nga xúc tiến giảm hiện diện quân sự tại Việt Nam, rút các lực lượng quân
sự, đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên trên nhiều lĩnh vực về nước. Định hướng đối
ngoại hướng Tây và sự suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự khiến Nga quyết định
triệt thoái hầu như tồn bộ lực lượng qn đội khỏi vịnh Cam Ranh.
Nhìn chung, Việt Nam trong giai đoạn này không nằm trong định hướng đối
ngoại của Nga. Trọng tâm đối ngoại của Nga và Việt Nam những năm 1991 - 1993
đều thoát ra khỏi mối quan hệ truyền thống với cộng đồng XHCN, hướng đến các
nước phát triển để phục vụ lợi ích quốc gia và không hướng về nhau. Do vậy, quan
hệ Nga - Việt giai đoạn này ngưng trệ và mang tính hình thức.
- Giai đoạn 1994 - 2012
Những năm 1994 - 2012, chính sách của Nga đối với Việt Nam được xây
dựng trên định hướng đối ngoại mới, toàn diện hơn - chính sách đối ngoại cân bằng
Đơng - Tây. Với sự xác định lại đường hướng đối ngoại, chính sách với Việt Nam
ngày càng được Nga chú trọng đúng mức và phát triển trong thời gian còn lại của
chính quyền B. Yeltsin (1994 - 1999) và thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V.
Putin và Medvedev.
+ Từ năm 1994 đến năm 1999:
Sau hơn hai năm tìm kiếm “nền dân chủ” hiện đại từ các giá trị Âu - Mỹ với
các cuộc cải cách kinh tế nóng vội, rập khn phương Tây, tình trạng khủng hoảng
của Nga ngày càng nghiêm trọng. Nga phải đứng ngồi lề q trình liên kết kinh tế
sôi động ở cả phương Tây (EU) lẫn phương Đông (APEC). Mặc dù được gia nhập
vào tổ chức IMF, WB, đặc biệt là thiết lập quan hệ với G.7, nhưng trên thực tế Nga
bị phân biệt đối xử và có xu hướng tồn tại như một “quốc gia hạng hai” đối với
16
chính giới Âu - Mỹ. Sự suy giảm vị thế của Nga ở châu Âu và trên thế giới càng
khiến những khó khăn nội bộ phát triển mạnh mẽ hơn. Tình hình đó buộc Nga phải
điều chỉnh định hướng đối ngoại.
Thật ra, ngay từ cuối năm 1992, dưới tác động của “những người theo chủ
nghĩa Âu - Á” (Eurasianist) và sự xác định lại bản sắc dân tộc, chính sách đối
ngoại Nga đã có sự điều chỉnh rất cơ bản, với việc thừa nhận nét đặc trưng nổi bật
“bản sắc lưỡng thể” của nước Nga. Tuy nhiên, phải đến ngày 12/12/1993, khi kết
quả bầu cử Quốc hội phản ánh tương quan so sánh lực lượng mới trong nội bộ
nước Nga với ưu thế nghiêng về phía những người theo chủ nghĩa dân tộc và phái
thực dụng; phái dân chủ thân phương Tây suy giảm thì sự điều chỉnh chính sách
nêu trên mới thật sự định hình. Trên cơ sở đó, tháng 1/1994, Tổng thống B. Yeltsin
phê chuẩn “Những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên bang
Nga”, khẳng định “tăng cường chính sách đối ngoại Châu Á – Thái Bình Dương
có thể cân bằng các mặt đối với phương Tây. Như thế càng thể hiện địa vị nước Âu
- Á của Nga”7. Định hướng này đánh dấu sự quay lại châu Á của Nga và tác động
lớn đến chính sách đối với Việt Nam.
Nga xác định vai trò “cửa ngõ” của Việt Nam trong chiến lược Châu Á –
Thái Bình Dương trước hết là Đơng Nam Á, nỗ lực tạo dựng cơ sở pháp lý mới
cho quan hệ Nga - Việt Nam (1994 - 1996) và xúc tiến phát triển quan hệ song
phương lên tầm chiến lược lâu dài, ổn định (1997 - 1999). “Hiệp ước về những
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị giữa Liên bang Nga và Việt Nam” được
ký kết trong chuyến thăm Nga của Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 16/6/1994 là văn
kiện đánh dấu sự khởi đầu chính sách hợp tác của Nga đối với Việt Nam sau Chiến
tranh Lạnh. Hiệp ước khẳng định hai nước tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ
7 Hồ Châu (1997), Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình Dương từ sau Chiến tranh
Lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, tr.69.
17
hữu nghị trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, độc lập và tồn vẹn lãnh
thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Liên bang Nga ngày 25/8/1998, Chủ tịch nước
Trần Đức Lương và Tổng thống B.Yeltsin khẳng định tiếp tục phát triển quan hệ
hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đặc biệt coi trọng sự phối hợp hành động có
hiệu quả trong khuôn khổ cuộc đối thoại của Nga với các nước ASEAN mà Việt
Nam là điều phối viên8. Trong tuyên bố này, hai nước thỏa thuận “củng cố các cơ
chế tiếp xúc của các nhà lãnh đạo hai nước, các cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa hai
Thủ tướng, các cuộc trao đổi ý kiến của hai Bộ trưởng Ngoại giao nhằm làm sâu
sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường sự hợp tác toàn diện giữa hai nước, đẩy
mạnh việc phối hợp lập trường về các vấn đề quốc tế then chốt...”9 .
Bên cạnh đó, Nga cịn đẩy mạnh chính sách hợp tác với Việt Nam trên nhiều
lĩnh vực khác như an ninh - quốc phịng, văn hóa - giáo dục, khoa học - kỹ thuật...
Nhìn chung, diễn biến trong quan hệ hai nước những năm 1994 - 1999 cho thấy
Nga chuyển từ bỏ rơi sang chú trọng đúng mức với Việt Nam. Tuy vậy, với ưu tiên
đối nội để giải quyết tình hình kinh tế, chính trị - xã hội cịn khó khăn bộn bề,
chính sách của Nga đối với Việt Nam dưới thời kỳ B. Yeltsin hầu như phát triển
nhiều về lý thuyết mà chưa đạt được tiến triển đột phá trên thực tế.
+ Từ năm 2000 đến năm 2012:
Chính sách của Nga đối với Việt Nam trong những năm 2000 - 2012 được
hoạch định bởi chính quyền Tổng thống V. Putin và người kế nhiệm là Tổng thống
Medvedev. Đây là giai đoạn Nga thực hiện chính sách hợp tác mang tính chiến
lược với Việt Nam, nâng quan hệ Nga - Việt từ đối tác lên đối tác chiến lược.
Chính sách này thể hiện rõ rệt trên các lĩnh vực chủ yếu sau:
8 Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), “Tuyên bố chung giữa Việt Nam - Liên bang Nga ngày
25/8/1998”, Nhân dân ngày 26/8/1998, tr.7
9 Như trên.
18
Nga thực hiện quyết tâm chính trị phát triển quan hệ đối tác chiến lược với
Việt Nam. Trong kỳ họp thứ 7 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga
(12/2000), Nga khẳng định: “Việt Nam là đối tác chiến lược của Nga, có vị trí quan
trọng ở Đơng - Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương” 10. Thực hiện định hướng
này, trước khi cùng Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký Tuyên bố chung về quan hệ
đối tác chiến lược Nga - Việt, Tổng thống V. Putin khẳng định: “Việc phát triển
mối quan hệ trên tất cả các mặt với Việt Nam được chúng tôi coi là một trong
những hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga ở châu Á”11.
Tổng thống cũng xác định: “Cơ sở phối hợp hành động chặt chẽ của chúng ta là
những cuộc tiếp xúc chính trị thường xuyên ở các cấp cao nhất... để trao đổi ý kiến
về những vấn đề quan trọng nhất của tình hình quốc tế và quan hệ giữa các quốc
gia. Ở đây cần củng cố những mối quan hệ ngay giữa các cơ quan lập pháp của
chúng ta, cũng như giữa các cơ cấu của chính quyền hành pháp... Tơi cho rằng
việc tiếp tục phối hợp những nỗ lực của chúng ta trong lĩnh vực chính sách đối
ngoại là rất quan trọng. Trước hết sự phối hợp này liên quan những hoạt động
trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác”12.
Chính sách hợp tác chiến lược thể hiện rõ trong 17 nội dung của Tuyên bố
chung Việt Nam - Liên bang Nga giữa Chủ tịch Trần Đức Lương và Tổng thống V.
Putin ngày 2/3/2001. Tuyên bố nêu rõ: “Việt Nam và Liên bang Nga khẳng định
quyết tâm tiếp tục củng cố và phát triển hơn quan hệ hữu nghị truyền thống sự hợp
tác nhiều mặt trong thế kỷ trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược”13. Nga cũng
khẳng định lại cơ sở vững chắc để phát triển mạnh mẽ quan hệ hai nước là Hiệp
ước được ký kết ngày 16/6/1994, trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc
10 Ngô Tất Tố (2001), “Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực”, Nhân dân, ngày
28/2/2001, tr. 5
11 Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Phát triển quan hệ nhiều mặt với Việt Nam là một
trong những hướng ưu tiên của Liên bang Nga”, Nhân dân, ngày 28/2/2001, tr.5
12 Như trên.
13 Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược giữa nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, Nhân dân ngày 02/3/2001, tr.7.
19
gia, độc lập, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau,
bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện chính sách này, từ năm 2000 đến năm 2012, Nga đã thực hiện 14
chuyến thăm cấp cao đến Việt Nam, đặc biệt là chuyến thăm đầu tiên của Tổng
thống Nga V. Putin đến Việt Nam (28/2 - 2/3/2001), của Thủ tướng M.Kasiyanov
(3/2002) và của Thủ tướng M.E.Phadkov (2/2006). Bên cạnh cơ chế đối thoại cấp
cao song phương, Nga cũng thiết lập cơ chế đối thoại và hợp tác chính trị đa
phương với Việt Nam thơng qua phối hợp hoạt động và ủng hộ lẫn nhau trong các
tổ chức quốc tế, nhất là Liên hợp quốc, ASEAN, ARF, APEC. Những cam kết
chính trị - đối ngoại hai nước đạt được trong giai đoạn này là cơ sở nền tảng khẳng
định chính sách hợp tác chiến lược của Nga đối với Việt Nam sau Chiến tranh
Lạnh.
Thực hiện chính sách hợp tác toàn diện, Nga tăng cường các chuyến thăm và
trao đổi trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng, lĩnh vực kỹ thuật quân sự tiếp tục là
mũi nhọn cho hợp tác hai nước trên lĩnh vực này. Ngoài ra, tất cả các lĩnh vực khác
như văn hóa - giáo dục, khoa học - cơng nghệ đều có sự phát triển khởi sắc theo cơ
chế đối tác chiến lược.
Với phân tích trên, có thể thấy, chính sách của Nga đối với Việt Nam sau
Chiến tranh Lạnh (1991 - 2012) được khôi phục vào cuối thời kỳ cầm quyền của B.
Yeltsin nhưng chỉ thật sự tái sinh dưới thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V. Putin
và Medvedev. Mục tiêu khôi phục vị thế cường quốc thế giới, đặc biệt là định
hướng đối ngoại Châu Á - Thái Bình Dương (CA - TBD) dưới thời Tổng thống V.
Putin đã góp phần thúc đẩy và làm nên những thay đổi thật sự trong chính sách của
Nga đối với Việt Nam.
- Giai đoạn 2012 đến 2018.
20
Trong giai đoạn năm 2012 đến nay, chính sách của Nga đối với Việt Nam
được xây dựng trong bối cảnh mới, Tổng thống Nga V. Putin tái đắc cử nhiệm kỳ
thứ ba. Khi tuyên thệ nhậm chức ngày 7/5/2012, tổng thống Nga V. Putin đã phân
tích tình hình quốc tế của thế giới, đồng thời đề ra chính sách đối ngoại của nước
Nga trong giai đoạn mới. Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga đối với Việt
Nam trong giai đoạn này được gọi là : hợp tác chiến lược toàn diện.
Mở đầu giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam –
Liên bang Nga đó là sự kiện vô cùng đặc biệt. Chuyến thăm Liên bang Nga của
chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào tháng 7/2012 đã đánh dấu một mốc mới trong
lịch sử phát triển quan hệ song phương, nâng quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga
lên một tầm cao mới, mang tính tồn diện hơn. Đây là kết quả của việc sau 10 năm
triển khai thực hiện những nhiệm vụ của quan hệ đối tác chiến lược, quan hệ Việt –
Nga đã phát triển mạnh mẽ, bao gồm ngày càng nhiều lĩnh vực hợp tác, từ nông
nghiệp đến công nghiệp, từ điện lực đến dầu khí, từ đầu tư chủ yếu ở địa bàn Việt
Nam bắt đầu chuyển sang và mở rộng địa bàn tại Nga.
Chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu tháng
3/2013, đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của thế giới. Đài tiếng nói nước Nga nhận
định chuyến thăm này góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền
thống, phát triển sự hợp tác lâu dài và bền vững trong lĩnh vực quân sự cũng như
kỹ thuật giữa hai quốc gia. Báo Prava đã gọi chuyến thăm là “Sự trở lại Việt Nam
của Nga”, trong đó nhấn mạnh sự hiện diện của Sergei Shoigu ở quân cảng Cam
Ranh.
Có thể thấy trong giai đoạn này, nước Nga tiếp đục theo đuổi chính sách đối
ngoại “cân bằng Đơng – Tây”. Đặc biệt, khi bối cảnh quốc tế diễn ra ngày càng
phức tạp, phương Tây tiến hành bao vây cấm vận nước Nga sau các sự kiện Crime
2014, chính sách đối ngoại của nước Nga càng phải xoay trục về châu Á – Thái
21
Bình Dương, tham gia các quá trình liên kết của khu vực, xúc tiến thương mại và
đầu tư, thiết lập một cơ cấu an ninh tập thể của khu vực, … Hết thảy những hoạt
động trên nhằm mục đích khơi phục lại nền kinh tế của nước Nga sau khi bị Mỹ và
phương Tây bao vây cấm vận.
Khuôn khổ hợp tác đối tác chiến lược toàn diện đã đem đến một luồng sinh
khí mới, nhất là trong bối cảnh Nga đặt Việt Nam trong nhóm 3 nước đối tác chiến
lược quan trọng nhất ở châu Á – Thái Bình Dương. Thủ tướng Medvedev đã từng
khẳng định Việt Nam là đối tác chiến lược có tư cách đặc biệt khi họ đồng ý để
Việt Nam cùng tham gia khai thác khu mỏ Tây Khosedayuskove, điều này cho thấy
vai trò quan trọng của Việt Nam trong chính sách hướng về phía Đơng của Nga.
Kết quả của các cuộc bầu cử vào Duma Quốc gia (tháng 12-2017) và bầu cử
Tổng thống Liên bang Nga (tháng 3-2018) đã tạo lập tiền đề cho sự tiến lên phía
trước trên nền tảng đổi mới trong khi vẫn giữ được các nhiệm vụ căn bản. Tháng
5/2018, Tổng thống V. Putin đã ký Sắc lệnh “Về các mục tiêu và nhiệm vụ chiến
lược cấp quốc gia trong việc phát triển LB Nga trong giai đoạn đến năm 2024”.
Trong đó, Tổng Thống V. Putin nêu rõ chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối
với khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một ý nghĩa quan trọng và ngày càng lớn
mạnh. Việc thúc đẩy sự hợp tác toàn diện với các nước ASEAN nằm trong các ưu
tiên đối ngoại chính của Nga trên hướng đi châu Á. Trong bình diện này, vị trí đặc
biệt thuộc về Việt Nam-người bạn lâu năm và tin cậy.
Chuyến thăm cấp Nhà nước của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Nga
vào tháng 9/2018 có một ý nghĩa quan trọng. Như ơng Alexei Gromov đánh giá
đây là một sự thành công trong chiến lược “Tháng Hướng Đơng” của Nga.
Ơng Alexei Gromov, nhấn mạnh rằng: “Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng đã trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên trong số lãnh đạo các
quốc gia Đông Nam Á, đến thăm và hội đàm với Tổng thống Nga Vladimir Putin,
22
kể từ khi ông tái đắc cử hồi trung tuần tháng 3 vừa qua”14. Tác giả cho rằng, việc
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở thành nhà lãnh đạo đầu tiên trong số 4 quốc gia
chủ chốt ở Đông Nam Á thăm Nga, theo lời mời chính thức của Tổng thống V.
Putin, kể từ khi ông tái đắc cử nhiệm kỳ mới, cho thấy Nga thực sự coi Việt Nam là
“cầu nối” giữa Moscow với Đông Nam Á, nơi mà trong những năm gần đây, Việt
Nam đã vượt lên trở thành một trong những quốc gia phát triển kinh tế hàng đầu,
và hơn thế, đang ngày càng khẳng định uy tín của mình trên phương diện chính trị,
trước hết là trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Có thể
thấy rõ, trong bối cảnh chưa thể hóa giải áp lực trừng phạt từ phương Tây, chính
sách “hướng Đông”, phát triển quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á đang thực
sự là một trong những hướng chính trong chính sách đối ngoại của Nga.
Có thể thấy trong giai đoạn 2012 – đến nay, chính sách đối ngoại của Liên
bang Nga với Việt Nam càng tiến triển theo chiều sâu, trên nhiều lĩnh vực. Liên
bang Nga đã nhìn nhận Việt Nam từ vai trị vị trí quan trọng – trở thành rất quan
trọng, trong chính sách đối ngoại “Hướng Đơng” của mình ở khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương. Đồng thời qua hai lần Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thăm
Nga vào năm 2014 và 2018, thì mối quan hệ hợp tác chiến lược tồn diện giữa Nga
và Việt Nam đều được nâng lên một tầm cao hơn, trước hết là nhờ vào sự đồng
thuận nhất trí cao từ hai nhà lãnh đạo của 2 quốc gia.
2.2 Quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Liên bang Nga.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều
thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực
của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị
- xã hội cơ bản ổn định. Mơi trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những
14 Ngô Quế Anh, Việt Nam – Thành công đầu tiên của Nga trong “Tháng Hướng Đơng, Tạp chí Cộng sản, số
13/9/2018.
23
xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và
lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ
tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước
Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với
phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển."
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ
hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ,
trong đó đặc biệt là Liên bang Nga – quốc gia có mối quan hệ bạn bè truyền thống
với Việt Nam.
Tuy nhiên, khác với Liên bang Nga chủ yếu thiên về chiến lược chính trị
nhằm thốt ra khỏi sự bao vây cấm vận của Mỹ và phương Tây. Việt Nam chủ yếu
thiên về hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác qn sự quốc phịng
nhằm duy trì nền hịa bình an ninh khu vực để phục vụ cho cơng cuộc xây dựng
kinh tế. Cho nên, chính sách đối ngoại của Việt Nam với Liên bang Nga kể từ 1992
cho đến nay tương đối thống nhất về mục tiêu này.
Tháng 8 năm 1998 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã có chuyến thăm chính
thức Liên bang Nga. Việt Nam đã bày tỏ sự mong muốn phát triển quan hệ song
phương và đã ký Tuyên bố chung Nga-Việt. Mở ra những cơ sở đầu tiên cho việc
phục hồi và phát triển mối quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga.
Tháng 9 năm 2000 Thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm chính thức Nga, ký
các hiệp định liên Chính phủ về giải quyết nợ của Việt Nam vay trước đây trước
24
Nga, về hợp tác liên khu vực, v.v... Năm 2000, chính phủ Nga quyết định xóa 85%
khoản nợ trị giá 11 tỷ USD mà Việt Nam cịn nợ Liên Xơ. 15% còn lại (1,65 tỷ
USD) được Nga ưu đãi, cho chi trả dần trong 23 năm, dưới hình thức các khoản
đầu tư.
Trong chuyến thăm đến Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin vào tháng
3/2001. Việt Nam và LB Nga đã xác lập mối quan hệ song phương lên tầm đối tác
chiến lược, và Liên bang Nga cũng là nước đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ đối
tác chiến lược. Nó cho thấy sự chú trọng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam đối
với Liên bang Nga, khi xác định vẫn chú trọng vào các mối quan hệ bè bạn truyền
thống.
Tháng 10/2002, Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh thăm chính thức Nga theo lời
mời của Tổng thống Pu-tin. Đây là chuyến thăm Nga đầu tiên của Tổng Bí thư
ĐCS ta kể từ khi Liên Xô tan rã; là sự kiện có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động
lực nâng quan hệ song phương lên tầm cao mới phù hợp với khuôn khổ đối tác
chiến lược đã được xác lập.
Từ năm 2008 Việt Nam và Nga thiết lập cơ chế Đối thoại chiến lược ngoại
giao - an ninh - quốc phòng thường niên cấp Thứ trưởng thường trực Ngoại giao
(đến nay đã tiến hành 4 lần). Ngoài ra, hai bên tiến hành tham vấn chính trị thường
kỳ cấp Thứ trưởng Ngoại giao và cấp Cục, Vụ trong khuôn khổ hợp tác giữa hai
Bộ Ngoại giao.
Hai Bên đồng quan điểm về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp chặt
chẽ và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, APEC, ARF...;
đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN - Nga. Cấp cao ASEAN - Nga lần hai
đã diễn ra thành công tại Hà Nội tháng 10/2010. Việt Nam đã hỗ trợ tích cực để
Nga chính thức được kết nạp vào ASEM tháng 10/2010 và tham gia Cấp cao Đông
Á từ năm 2011.
25
Chuyến thăm lần đầu tiên của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Liên bang
Nga vào năm 2014 đã có những tính tích cực rõ rệt. Chuyến thăm của Tổng bí thư
năm 2014 là nhằm thúc đẩy sự triển khai đồng bộ, toàn diện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hịa bình và hợp tác phát triển. Qua chuyến đi này, Việt Nam tiếp
tục khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là gìn giữ và tăng cường mối
quan hệ thủy chung đối với bạn bè truyền thống, đó là Liên bang Nga. Điều này đã
giúp thúc đẩy, củng cố hơn nữa sự hợp tác nhiều mặt của hai quốc gia trong tình
hình mới.
Chuyến thăm lần thứ hai của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Liên bang
Nga vào năm 2018 càng có ý nghĩa đặc biệt hơn nữa. Tổng bí thư đã nhấn mạnh
rằng, Việt Nam ln coi Liên bang Nga là đối tác ưu tiên hàng đầu trong chính
sách của mình. Chuyến thăm lần hai của Tổng bí thư làm sâu sắc hơn mối quan hệ
tồn diện giữa Việt Nam – Liên bang Nga nói chung, giữa lãnh đạo của Việt Nam
với người đứng đầu nước Nga nói riêng, khi Tổng thống V. Putin vừa tái đắc cử
nhiệm kỳ mới của mình vào tháng 3/2018.
Chiều ngày 19/11/2018, Thủ tướng Liên bang Nga Medvedev trong chuyến
thăm của mình đến Việt Nam đã có dịp hội kiến Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị
Kim Ngân. Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, Nguyễn Thị Kim Ngân tiếp tục khẳng
định Việt Nam ln đánh giá cao vai trị của Liên bang Nga đối với khu vực và
quốc tế. Và đặc biệt, Việt Nam tiếp tục coi quan hệ với Liên bang Nga là ưu tiên
hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. Đây là sự ủng hộ chính trị to lớn
đối với nước Nga trong chiến lược “Hướng Đông” của mình khi tăng cường sự ảnh
hưởng của mình tại khu vực Đơng Nam Á.
Ngồi ra, hướng ưu tiên của Việt Nam trong quan hệ với đối tác chiến lược
Nga còn có hợp tác quân sự, kỹ thuật quân sự quốc phịng và an ninh. Nga và Việt
Nam có mục đích cao nhất trong chính sách đối ngoại là bảo đảm chủ quyền và