Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

ĐỀ tài tư TƯỞNG CHÍNH TRỊ của MẠNH tử và ý NGHĨA của nó đối với VIỆC xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.71 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

HỌ VÀ TÊN GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: BÙI XUÂN THANH
HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN: NGUYỄN VIẾT KHUÊ

LHP: 21C1PHI61000416

TP. HỒ CHÍ MINH - 2022


PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung xuyên suốt học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng Dân bản - tư
tưởng lấy dân làm gốc. Đối với Mạnh Tử, nhân nghĩa là cơ sở để trị nước, bình thiên
hạ và điều chỉnh quan hệ xã hội; đồng thời, là điểm xuất phát để xây dựng tư tưởng
Dân bản. Ơng ln nhấn mạnh, đề cao vai trị quan trọng và có ý nghĩa quyết định của
dân đối với sự thịnh suy của đất nước; đòi hỏi nhà cầm quyền phải thi hành nền chính
trị nhân nghĩa nhằm thu phục nhân tâm. Bên cạnh đó, ơng cịn đưa ra những tư tưởng
có giá trị nhân văn sâu sắc về khoan dân, bảo dân,…; đồng thời, nhấn mạnh sự cần
thiết phải tu thân, dưỡng tính của con người. Có thể nói, cho đến nay, tư tưởng dân
bản của Mạnh Tử vẫn còn ý nghĩa và giá trị thiết thực. Đối với sự nghiệp xây dựng
và phát triển đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, những bài học lịch sử rút ra từ tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử là những bài học bổ ích và thiết thực cho cơng
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Trang 1


PHỤ LỤC
Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA
MẠNH TỬ .................................................................................................................. 3
1.1 Cơ sở xã hội ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ........................... 3
1.2 Tiền đề lý luận ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ....................... 4
Chương 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ ... 11
2.1 Thuyết nhân chính trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ................ 11
2.2 Đường lối dân bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ................ 12
Chương 3: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ VỚI XÃ HỘI
HIỆN ĐẠI ................................................................................................................. 15
3.1 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ....... 15
3.2 Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử ......................... 16

Trang 2


Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
1.1 Cơ sở xã hội ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Mạnh Tử (371- 289 TCN) tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư. Ông là người nước Châu,
sát nước Lỗ (nay là huyện Châu thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc). Mạnh Tử được
sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút vào thời Chiến Quốc, ơng thuộc dịng dõi
q tộc. Nhưng tới đời ông cha, chi của ông sa sút nên tuy là quý tộc mà sống như
bình dân. Ông mồ côi cha, tuy nhiên ông lại được sự vỗ về, quan tâm của mẹ. Mẹ của
Manh Tử là người phụ nữ hiểu biết lễ nghĩa, hiền từ và nhân ái. Bà dồn hết lịng vào
việc chăm sóc Mạnh Tử và mong Mạnh Tử học hành thành đạt. Điển tích có ghi Mạnh
mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho
việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Dư, tức là

Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư
tưởng Khổng giáo. Sống trong thời Chiến Quốc, là giai đoạn xã hội loạn lạc, Mạnh
Tử đi chu du khắp nơi đem học thuyết của mình để khuyến cáo các vua chư hầu, nhằm
định yên thiên hạ, thống nhất quốc gia về một mối. Đến đâu ông cũng giảng đạo lý
cho các bậc cầm quyền để giúp họ có phương pháp trị nước hiệu quả mà nhân đạo,
nhân chính. Tuy nhiên, trong bối cảnh “Thiên hạ đang lo hợp tung, liên hoành, lấy
việc đánh nhau làm giỏi. Thế mà Mạnh Tử lại nói đạo đức của các đời Đường, Ngu,
Tam đại”, do vậy, các vua chư hầu không sử dụng học thuyết của ông. Cuối cùng ông
đành lui về ở ẩn ở nước Lỗ và noi gương Không Tử, ông mở trường dạy học truyền
bá tư tưởng của mình. Về cuối đời, ơng dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông
là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Chính vì vậy, chúng tơi tìm
hiểu nội dung tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử thông qua cuốn sách Mạnh Tử
. Nhận xét về tầm quan trọng của sách Mạnh Tử trong đường học vấn của Nho giáo
thì sách Mạnh Tử rất có giá trị. Theo như Trình Y Xun đời nhà Tống nói: “Kẻ đi
học nên lấy sách Luận ngữ và sách Mạnh Tử làm cốt. Đã biết được hai bộ sách ấy, thì
khơng cần phải học năm Kinh cũng rõ được đạo của thánh hiền”. Trong hàng ngũ Nho
gia, ông được coi là Á thánh chỉ đứng sau Khổng Tử. Theo nguyên lý cơ bản của triết
học macxít, giữa tư tưởng và các điều kiện kinh tếxã hội ln có mối quan hệ tác động
qua lại lẫn nhau. Vì vậy, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học trong
quá trình hình thành và phát triển luôn chịu sự chi phối, ảnh hưởng sâu sắc của những
điều kiện lịch sử kinh tế- xã hội nhất định. Lịch sử triết học hàng ngàn năm của nhân
loại, từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây đã chứng minh rằng khơng có một học thuyết,
trường phái triết học nào nảy sinh trên mảnh đất trống không, mà đều hình thành, phát
triển trên những nền tảng, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hố xã hội nhất định. Đó là
sản phẩm của lịch sử, của dân tộc và của thời đại, đồng thời cũng là tấm gương phản
chiếu sâu sắc đến đời sống muôn vẻ của lịch sử, dân tộc và của thời đại đó. C.Mác đã
từng viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời
Trang 3



đại mình, của dân tộc mình, mà dịng sữa tinh tế, q giá và vơ hình được tập trung
lại trong tư tưởng triết học”. Nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng của Trung Quốc cũng đã
khẳng định: “phàm đã gọi là một học thuyết quyết khơng thể là một cái gì đó từ trên
trời rơi xuống. Nếu nghiên cứu tỉ mỉ hơn chúng ta tất sẽ tìm ra được nhiều nguyên
nhân đã xảy ra trước và hậu quả về sau của nó”. “Nhà tư tưởng thường chịu ảnh hưởng
của hồn cảnh sống. Cảnh trí chung quanh khiến cho nhà tư tưởng có ý thức về cuộc
sống theo một lối nào đó, và triết học của nhà tư tưởng,
do đó, sẽ có những điểm nhấn mạnh hay không đề cập tới, làm thành những nét đặc
biệt của một triết học”.Qua các nhận định trên, chúng ta thấy tư tưởng chính trị- xã
hội của Mạnh Tử không phải là sản phẩm của sự tư biện thuần t của tư duy. Nó
khơng ra đời từ mảnh đất trống khơng mà nó được hình thành, phản ánh bối cảnh kinh
tế- xã hội Trung Quốc đấy biến động thời Xn Thu- Chiến Quốc. Chính vì vậy, để
có cái nhìn đúng đắn nội dung tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử thì chúng ta
phải đi phân tích căn nguyên của vấn đề này, tức là phải phân tích cơ sở kinh tế- xã
hội và tiền đề tư tưởng cho việc hình thành tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử.
1.2 Tiền đề lý luận ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Khơng có một học thuyết nào được ra đời trên mảnh đất trống khơng mà sự ra đời của
nó là sự kế thừa những tư tường triết học trước đó. Tư tưởng Mạnh Tử ra đời cũng
khơng nằm ngồi quy luật này. Chúng ta khơng thể giải thích chính xác thực chất và
nội dung tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử nếu chỉ dựa vào bối cảnh kinh tế- xã
hội Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc mà không chú ý đến việc Mạnh Tử tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc và phát triển tư tưởng của các phái Nho giáo, Đạo giáo, Mặc
gia... một cách sâu sắc. Thứ nhất là phái Nho giáo. Mạnh Tử kế thừa nhiều tư tưởng
của Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng đức trị và học thuyết tính người của Nho giáo.
Thuyết tính thiện- cơ sở lý luận trực tiếp cho tư tướng chính trị- xã hội của Mạnh Tử.
Tìm hiểu quan điểm của Mạnh Tử về tính người là rất quan trọng vì đây là nền tảng
xây dựng nên các quan điểm khác của Mạnh Tử. Tính người là một vấn đề quan trọng
được Nho giáo đề cập nhiều trong lịch sử triết học Trung Quốc. Đây được coi là vấn
đề trung tâm của Nho giáo, là nền tảng để giải quyết các vấn đề khác. Nguyễn Đăng
Thục cho rằng vấn đề này là “vấn đề trọng đại trong triết học phương Đơng”. Vấn đề

tính người được đặt ra và giải quyết trên các nội dung cơ bản sau: Bản tính của con
người là gì? Do đâu mà có? Chúng ta có thể cải tạo được tính người hay khơng? Và
cải tạo vấn đề này nhằm mục đích gì? Trong cuốn sách Trung dung, Khổng đã đưa ra
một nguyên lý cơ bản về tính người: “Mệnh Trời ban cho gọi là tính, noi theo tính gọi
là đạo, tu theo đạo gọi là giáo”. Từ mệnh đề này, phần lớn các nhà Nho đều cho rằng
“tính” của con người có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà trời phú cho con
người và con người bẩm thụ lấy. Theo đó, tính là cái bẩm sinh ban đầu, là cái nguyên
sơ mà con người có được nhờ trời. Như vậy, tính của con người là thiện hay ác là phụ
thuộc chủ yếu vào sự tu dưỡng, giáo dục của con người. Khổng Tử là người đầu tiên
Trang 4


đưa ra quan niệm về “tính người”. Quan niệm tính người của ơng là tư tưởng có tính
chất nền móng ban đầu cho các nhà Nho về sau, trong đó có Mạnh Tử kế thừa và phát
triển. Khi nói đến “tính người”, Khổng Tử cho rằng: “Bản tính người ta gần giống
nhau, thói quen khiến xa nhau”. Rõ ràng, theo Khổng Tử tính của con người khi mới
sinh ra là hoàn toàn ngây thơ, trong trắng, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi ngoại cảnh
và các yếu tố xã hội. Và cái bản tính ấy do bẩm thụ được ở trời, cho nên mọi người
đều có cùng bản tính này. Đặc biệt, ơng khẳng định rằng, cái bản tính ban đầu ấy của
con người có thể bị biến đổi bởi các điều kiện, yếu tố ngoại cảnh, bởi sự tu dưõng đạo
đức của con người. Điểm đáng lưu ý trong quan niệm về tính người của Khổng Tử là
ơng đã nhìn thấy phần nào sự thật về quan hệ giữa con người với xã hội. Theo ông,
con người ta không thể vượt qua cái “tập”- đó chính là sự tác động của tập quán, hoàn
cảnh sống, điều kiện sống và nói rộng ra là sự chi phối của điều kiện lịch sử cùng vói
nhân sinh quan của mình. Luận điểm “tính tương cận dã, tập tương viễn dã” của ơng
đã cho thấy sự cần thiết phải lập đạo cho con người, bởi lẽ con người có tính do trời
phú nhưng không phải ai cũng giữ được. Khi người ta theo đuổi dục vọng, sống phóng
túng thì tính khơng khỏi rơi vào tình trạng bất biến. Trong hồn cảnh ấy con ngưịi sẽ
đánh mất đức nhân và trở thành vơ đạo. Con người vô đạo sẽ dẫn đến cả nước vô đạo,
từ đó kéo theo cả thiên hạ vơ đạo. Chính vì vậy, phải lập đạo cho mọi người hữu đạo,

cả nước hữu đạo và cả thiên hạ hữu đạo. Như vậy, mặc dù Khổng Tử chưa luận bàn,
giảng giải gì nhiều về vấn đề tính người nhưng quan niệm về tính của ơng là tư tưởng
cơ bản, đặt nền tảng ban đầu để từ đó các nhà Nho về sau kế thừa, phát triển. Từ thời
Chiến Quốc trở về sau, xã hội có nhiều biến loạn, lúc đó vấn đề tính người mới thực
sự được các nhà Nho quan tâm với nhiều quan niệm khác nhau. Sự khác nhau này là
do điều kiện lịch sử và nhu cầu cai trị của giai cấp phong kiến thống trị quy định. Để
trả lời câu hỏi thứ nhất, “bản tính con người là gì?” Cáo Tử cho rằng: “Bản tính người
ta như nước chảy, khơi sang Đơng thì sang Đơng, khơi sang Tây thì sang Tây. Bản
tính người ta khơng phân biệt thiện với bất thiện, cũng như nước chẳng phân biệt
Đông, Tây vậy”. Như vậy, ở đây Cáo Tử cho rằng tính người không thiện, không ác.
Trong sách Mạnh Tử, Mạnh Tử bàn nhiều về thuyết tính thiện ở chương Cáo Tử. Để
trả lời câu hỏi “bản tính con người là gì?”, Mạnh Tử xuất phát từ những giá trị có tính
xã hội và thiên về đạo đức nên khẳng định bản tính của con người là thiện. Ơng nói:
“Nước đúng là không phân biệt Đông Tây, nhưng há không phân biệt cao thấp hay
sao? Bản tính người ta vốn thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp vậy. Người ta
chẳng ai là bất thiện, như nước luôn luôn chảy xuống thấp vậy”. Trong chương Cáo
Tử, Mạnh Tử đã rất nhiều lần phê phán quan điểm “tính vơ thiện, vơ bất thiện” của
Cáo Tử. Ơng nói: “Bản tính của mọi sinh vật đều gọi là tính cả... thì tính của con chó
cũng như tính của con bị, tính của con bị cũng như tính của người ta, chứ gì?”. Chúng
ta thấy rằng, Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán quan điểm tính không thiện không ác của
Cáo Tử bằng những ngôn từ rất sắc sảo và với thái độ khắt khe.Giải thích vì sao tính
người là thiện thì theo Mạnh Tử cứ theo cái bản năng của người ta, thì ai cũng có thể
Trang 5


làm lành, cho nên nói là thiện. Nếu có điều gì bất thiện thì khơng phải là cái tội ở cái
bản năng của người ta. Vì ơng đưa ra hình ảnh minh hoạ, đó là đứa trẻ khi mới sinh
ra vốn đã sẵn có tình cảm quyến luyến với cha mẹ, lịng u mến anh chị em của mình,
ai cũng động lịng thương xót và muốn cứu đứa trẻ khi nhìn thấy nó sắp té xuống
nước. Và từ đây mở rộng ra, theo Mạnh Tử, ai cũng có Tứ đoan hay Tứ thiện tâm.

Ơng nói rằng: “Lịng trắc ẩn ai ai cũng có, lịng tu ố ai ai cũng có, lịng cung kính ai
ai cũng có, lịng thị phi ai ai cũng có. Lịng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là
đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ, lịng thị phi là đầu mối của trí
vậy. Nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng phải ở ngồi đổ khn vào ta, mà ta có sẵn cả, chẳng
qua không nghĩ tới mà thôi”. Rõ ràng, theo quan niệm của ơng thì nhân, nghĩa, lễ, trí
của con người là các đức khi con người sinh ra đã có sẵn rồi. Như vậy, ở đây Mạnh
Tử khẳng định bản tính con người là thiện và cái thiện là do trời phú cho con người,
nó thuộc về bản năng con người, sinh ra con người đã có sẵn. Bàn về tính người là gì,
ngồi thuyết tính thiện của Mạnh Tử ra thì thời kỳ Chiến Quốc cịn xuất hiện thuyết
tính ác của Tuân Tử. Trong sách Nho giáo của Trần Trọng Kim có nói rằng, sau Mạnh
Tử độ bốn mươi năm có Tuân Tử là đại biểu nổi tiếng về học thuật Nho giáo. Theo
Tuân Tử: “tính của người là ác, những điều thiện là người đặt ra”. Tuân Tử viện các
lẽ để bác cái thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Theo ơng, vì cái tính vốn ác nên thánh
nhân mới đặt ra nhân nghĩa lễ phép để kiểu sức cho cái tính thiện, chứ nếu tính con
người là thiện thì cịn cần gì đến bậc thánh bậc vương và nhân nghĩa lễ phép làm gì
nữa. Ơng cho rằng, có thể giáo dục giáo hố để thay đổi bản tính ác của con người vì
“Tính là cái ta khơng thể làm ra được, nhưng có thể hố đi được. Tính là khơng phải
tự nhiên ra có được, nhưng có thể làm cho có được. Chú ý làm lụng, tập thành thói
quen để hố cái tính” . Lý do Tn Tử khẳng định và bảo vệ thuyết tính ác là vì Tn
Tử sinh sau Mạnh Tử và khi đó xã hội Chiến Quốc đã rối ren và loạn lạc hơn. Vậy,
bản tính của con người có bị thay đổi khơng? Mạnh Tử cho rằng có: Bản tính của con
người là thiện, nhưng hồn cảnh làm cho bản tính đó thay đổi. Manh Tử lấy ví dụ
chứng minh rằng: “Những năm no đủ, bọn con em phần lớn hiền lành, những năm đói
kém, bọn con em phần lớn hung bạo. Chẳng phải tại trời phú cho tính chất khác nhau
như thế. Chỉ tại hồn cảnh nhấn chìm con tim mới ra như vậy” . Con người sở dĩ thành
bất thiện là do hồn cảnh tác động làm cho cái tâm tính bị lu mờ hoặc sai lệch tính
thiện của con người làm cho con người khơng cịn phân biệt phải trái, thiện ác. Hồn
cảnh làm cho bản tính của con người thay đổi nhưng con người lại có thể cải tạo bản
tính đó để đưa nó thành thiện, Mạnh Tử cho rằng: “nếu khéo bồi dưỡng, vật nào cũng
sinh trưởng, nếu mất bồi dưỡng vật nào cũng tiêu ma”. Ở đây, chúng ta nhận thấy

Mạnh Tử đề cao việc giáo dục giáo hoá, bồi dưỡng đạo đức của con người để con
người từ cái mầm thiện vươn tới cái chí thiện để sánh ngang với trời đất Theo Mạnh
Tử, để đạt tới cái chí thiện đó thì con người phải tồn tâm, dưỡng tính, phát huy hết
bản thân. Mục đích của việc cải tạo tính người là nhờ có việc cải tạo tính người mà
con người có thể nhận biết được tính, nhận biết được tính thì có thể nhận biết được
Trang 6


trời đất vì cái lý của mn vật đều có đủ noi tâm tính mình. Nhờ có giáo dục mà con
người trở nên tốt đẹp hơn, đưa con người trờ thành bậc quân tử, đưa xã hội từ “vô
đạo” thành “hữu đạo”. Tuy nhiên, trong quan niệm về tính thiện của Mạnh Tử ít nhiều
bộc lộ lập trường giai cấp khi ơng cho rằng: một mặt, tính thiện là điểm chung, vốn
có của tất cả mọi người, mặt khác ơng lại cho rằng, chỉ có bậc quân tử mới giữ được
tính thiện ấy cịn bậc thứ dân hay tiểu nhân thường bị dục vọng, ngoại cảnh che lấp,
cho nên ngay từ đầu, cái bản tính thiện do trời phú ấy dễ bị đánh mất. Đó là điểm khác
nhau giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân. Sở dĩ có điều này là do ông muốn bảo vệ lập
trường giai cấp của mình để duy trì trật tự xã hội cũ. Vì thực chất của việc nghiên cứu
bản tính con người của các triết gia, trường phái là nhằm hoàn thiện, xây dựng mẫu
người có đủ khả năng đưa đời sống chính trị- xã hội vào trật tự, kỷ cương, nền nếp
theo ý đồ của giai cấp mình. Đề cập tới vấn đề này, Nguyễn Tài Thư có viết: Vấn đề
con người trong các học thuyết cổ đại Trung Quốc thực chất là vấn đề khả năng hoạt
động chính trị- xã hội và phẩm chất chính trị- xã hội của con người thống trị. Lý luận
về vấn đề đó là những quan niệm sao cho kẻ thống trị giành được chính quyền và giữ
được chính quyền, sao cho xã hội được yên ổn và mọi người trong đó được sống thư
thả theo khuôn khổ của họ. So với Khổng Tử, quan niệm tính thiện của Mạnh Tử có
khuynh hướng duy tâm hơn, nhìn nhận bản chất con người thiên về các phương diện
tinh thần, đạo đức. Trong “thuyết tính thiện” và “thuyết tính ác” của Mạnh Tử và
TnTử, dù có những yêu tố và cách lý giải khá hợp lý nhưng khơng thể tránh khỏi
tính chất trực quan, máy móc, siêu hình. Mạnh Tử thì thiên về mặt xã hội, đạo đức,
cịn Tn Tử thì thiên về mặt bản năng, tự nhiên của con người để lý giải bản tính vốn

có của con người. Rõ ràng, các ông chưa nhận thức được rằng, bản chất, bản tính của
con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa cái sinh vật và cái xã hội. Chính
sự khác nhau và hạn chế cơ bản này đã dẫn tới sự đối lập giữa “thuyết tính thiện” và
“thuyết tính ác” trong Nho giáo.
Mặc dù vậy, sự lý giải về bản tính con người của Tn Tử và Mạnh Tử trái ngược
nhau nhưng đó khơng phải là sự đối lập nhau hoàn toàn. Cả hai đều thống nhất ở chỗ
là, có thể nhờ giáo dục, giáo hoá để hướng con người ta hướng tới điều thiện. Quang
Đạm nhận xét rằng: “Trong học thuyết tính người, hai thầy Mạnh và Tuân chỉ khác
nhau ở khía cạnh nhận xét và trình bầy chứ khơng hồn tồn là quan điểm của hai cá
nhân riêng lẻ nào đó, mà là những quan điểm phản ánh trạng thái đầy mâu thuẫn của
hệ tư tưởng xã hội nước Trung Hoa cổ đại thời Xuân Thu - Chiến Quốc suốt trên dưới
hai thế kỷ trong hồn cảnh thiên hạ vơ đạo”. Mặt khác, các ông đều giống nhau ở luận
điểm cho rằng, hồn cảnh xã hội làm thay đổi bản tính con người và có thể giáo dục,
giáo hố làm cho bản tính con người trở nên tốt hơn. Như vậy, khẳng định bản tính
người là thiện, Mạnh Tử đã đặt người thống trị và người bị trị ở quan hệ bình đẳng
nhận thấy họ đều có tính thiện phổ biến. Thánh nhân cũng như người dân, người dân
có thể tu dưỡng đạo đức để trở thành các bậc Thánh nhân. Đây là tư tưởng rất mới,
Trang 7


rất nhân đạo, nhân ái của Manh Tử so với xã hội Trung Quốc thời Chiến Quốc lúc bấy
giờ. Chính học thuyết tính thiện là nền tảng, là cơ sở lý luận cho rất nhiều các học
thuyết khác của Mạnh Tử. Tư tưởng đức trị của Khổng Tử- tiền đề lý luận của tư
tưởng chính trị- xã hội của Mạnh Tử. Tư tưởng đức trị là những quan niệm về đường
lối trị nước, quản lý xã hội dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống
những nguyên tắc quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con người trong các
quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Đức trị phản ánh nhu cầu lợi ích xã hội của giai cấp thống trị, được biểu hiện dưới
hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý,
được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự giác. Nó được củng cổ bằng

những tấm gương đạo đức. Khổng Tử, tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni (551479 TCN), sinh ra ở nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhỏ đang sa sút. Thời đó
q hương ơng là nơi bảo tồn được nhiều di sản văn hoá cũ của nhà Tây Chu. Khổng
Tử là một trong những người đầu tiên đề ra tư tưởng đức trị. Ông rất coi trọng việc
nhà cầm quyền sử dụng đức để làm chính trị. Trong sách Luận ngữ đã rất nhiều lần
Ơng đề cao vai trị của đức trị. Khổng Tử còn khẳng định rằng, đạo đức là biện pháp
hiệu quả nhất để thu phục nhân tâm, nhân lực trong việc đường lối trị nước vì Khổng
Tử nói: “Lấy đức để làm việc chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên vị mà
các ngôi sao khác đều chầu về”. Khổng Tử và Mạnh Tử đều coi đạo đức, lễ giáo có
vai trị quyết định trong việc duy trì quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị và
củng cố chế độ phong kiến, trong việc quản lý xã hội. Trong sách Luận ngữ, Khổng
Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh
khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ gìn trật tự, dân
biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành”. Qua đây chúng ta thấy, Khổng Tử rất đặc biệt
đề cao vai trò của đức trị- coi đó là cách trị nước tốt nhất. Đứng trước bối cảnh thực
tiễn của một thời đại mà “Vương đạo suy vi”, “bá đạo” nổi lên lấp át “vương đạo” của
nhà Chu, trật tự, lễ nghĩa của nhà Chu bị đảo lộn, Khổng Tử than rằng” “vua không
phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo
con”. Trong lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, ông chủ
trương lập lại trật tự của nhà Chu với một nội dung mới, phù hợp với hiện thực khi đó
mà ơng cho là “khuôn mẫu”, “lý tưởng”. Tư tưởng đức trị- của Khổng Tử là sự kế
thừa tư tưởng của Vân Vương, Chu Công, là sự phát huy tư tưởng của thời kỳ Tây
Chu để mong lập lại kỷ cương mà khi đó nhà Chu đã làm cho nó trở nên suy đồi. Để
thực hiện lý tưởng chính tri đó của mình, ơng đã xây dựng nên học thuyết về NhânLễ- Chính danh. Đây chính là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mạnh Tử nói
chung và tư tưởng chính trị- xã hội của ơng nói riêng. Trước hiện thực xã hội thời nhà
Chu bị đảo lộn, Khổng Tử cho rằng ngun nhân của tình trạng đó là do tình trạng
“danh khơng chính”, “ngơn khơng thuận”- nghĩa là tình trạng “loạn danh”. Xuất phát
từ đó ơng chủ trương thiết lập lại trật tự xã hội, duy trì kỷ cương phép nước theo
đường lối “nhân trị” và đưa ra chủ nghĩa “chính danh định phận”. Khổng Tử là người
Trang 8



đầu tiên đặt ra chính danh. Ơng u cầu phải đặt đúng tên sự vật và gọi sự vật bằng
đúng tên của nó sao cho danh phải đúng với thực chất của sự vật. Trong tư tưởng đức
trị, chính danh là yêu cầu mỗi người cần phải có một phẩm chất tương xứng với địa
vị xã hội của mình và phải suy nghĩ, hành động đúng với địa vị ấy, không được tranh
giành địa vị và bổn phận của người khác, giai cấp khác. Nếu khơng chính danh xã hội
sẽ loạn.
Trên cơ sở xác định loạn danh là nguồn gốc của sự loạn lạc, phân tranh trong xã hội
Trung Quốc đương thời, Khổng Tử chủ trương chính danh để đưa xã hội từ loạn tới
thịnh trị nên khi Tử Lộ ỏi về việc trị nước thì ơng trả lời: ‘Tất phải chính danh chứ
gì”. Chính danh là yếu tố vơ cùng quan trọng đối với nhà cầm quyền vì “danh khơng
chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói khơng thuận thì việc chẳng nên, việc khơng nên
thì lễ nhạc chẳng hung vượng, lễ nhạc khơng hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng,
hình phạt khơng trúng ắt dân khơng biết xử trí ra sao”. Do vậy, “người quân tử đã nêu
được tên gọi ắt nói ra được lời, đã nói được ra lời ắt là làm được. Đối với lời nói ra,
người quân tử không bao giờ cẩu thả vậy”. Trong thuyết chính danh, Khổng Tử phân
chia xã hội thành năm mối quan hệ cơ bản: vua- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh- em,
bạn- bè. Tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng trong các mối quan hệ đó mặc dù khơng
giống nhau nhưng nó đều thể hiện sự tơn ti, phép tắc, là tiêu chuẩn của đạo làm người.
Điểm đặc sắc trong quan điểm về mối quan hệ vua- tôi là, Khổng Tử phản đối việc
duy trì ngơi vua theo huyết thống. Tư tưởng ấy chứng tỏ đã có lúc Khổng Tử đã vượt
qua lập trường giai cấp, không coi trọng đẳng cấp xuất thân của kẻ cầm quyền mà chỉ
chú trọng đến tài đức của họ. Theo ơng, có ba điều nhà cầm quyền phải thực hiện là
đảm bảo lương thực cho dân no ấm, xây dựng được lực lượng quân sự hùng mạnh để
bảo vệ dân và phải được lịng tin với dân. Trong ba điều ấy thì yếu tố dân tin là quan
trọng nhất. Như vậy, có thể nói, Khổng Tử là người đầu tiên đã đột phá vào tập quán
truyền thống trong việc lựa chọn nhà cầm quyền của xã hội trước đó và đương thời.
Ơng ln luôn đề cao tài đức của kẻ cai trị, quan tâm đến việc khơi dậy và phát huy
những đức tính tốt đẹp ở con người và mong muốn dùng đức để thu phục nhân tâm.
Chính vì thế, để thực hiện chính danh Khổng Tử kiên trì theo quan điểm sử dụng đạo

đức làm công cụ. Nội dung công cụ đạo đức ơng đưa ra bao gồm nhân, trí, dũng.
Trong đó nhân đã bao gồm cả lễ, nghĩa, trung, trí, tín. Nhân đứng đầu trong các điều
thiện, là rộng nhất của đạo làm người. Nhân theo Khổng Tử có rất nhiều nghĩa. Khi
trả lời thế nào là nhân, ông đã tuỳ vào trình độ học vấn và tư cách của từng người mà
trả lời có khác nhau. Phàn Trì hỏi về nhân, Khơng Tử trả lời: “Đó là người biết u
người”. Nhân là “làm nhân là khắc kỷ, phục lễ”. Khi Trọng Cung hỏi về điều nhân,
ông trả lời như sau: “Điều gì mình gì mình khơng muốn, chớ thi hành cho người khác”.
Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về việc thi hành nhân chính, Khổng Tử nói rằng: “Có
thể làm được năm điều (đối với mọi người) trong thiên hạ, là thi hành nhân chính
vậy....Khổng Tử nói: “Đó là: Cung kính, khoan dung, thành tín, cần mẫn và có ơn
Trang 9


huệ. 1. Cung kính thì khơng khinh nhờn, 2. Khoan dung thì được lịng mọi người, 3.
Thành tín thì được người tín nhiệm, 4. Cần mẫn thì nên cơng, 5. Có ơn huệ thì dễ sai
khiến người”. Tựu chung lại, nhân là những điều đối với mình và đối với người, nên
nhân có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người rất hợp tính hợp lý.
Như Khổng Tử đã nói trong chương Lý nhân của sách Luận ngữ: “Chỉ có người nhân
mới biết yêu người, biết ghét người (một cách chính đáng”. Đối lập với nhân là bất
nhân. Khổng Tử phân biệt rõ người có nhân và kẻ bất nhân. Người có nhân ln ln
có tình cảm chân thật, biết hiếu đễ và trung thứ cịn kẻ bất nhân là đầy mưu mơ, khơn
khéo, khơng có tình cảm thật thà chất phác. Bất nhân sẽ tất yếu dẫn đến bất trung, hay
làm hại tổn người khác. Từ đó cho thấy, nhân là gốc lớn của đạo làm người, nhờ đó
mà mỗi người biết được phải trái, đúng sai. Do đó, lời nói, hành vi của mỗi người phải
phù hợp với đạo nhân, lấy nhân làm gốc. Khổng Tử nói: “Quân tử từ bỏ đạo nhân, ôi,
sao mà nên danh? Quân tử không bao giờ trái với đạo nhân, dù chỉ trong khoảng một
bữa ăn. Lúc vội vàng cũng vậy, lúc khốn đốn cũng vậy”. Vói Khổng Tử, đứng trên
phương diện nhân cách thì nhân là đạo đức riêng của con người, còn đứng trên phương
diện thực tiễn thì nhân lại trở hành nguyên tắc ln lý nên ơng rất đề cao vai trị của
đức nhân trong việc tri quốc, bình thiên hạ. Theo ơng, đức nhân phải là cái đích tu

dưỡng của kẻ cai trị. Nó cần thiết hơn tất cả những gì cần thiết khác, bởi lẽ đối với
nhà cầm quyên, đức nhân như một thành trì để giữ gìn và bảo vệ những gì mà họ đã
đạt được. Để đạt được đức nhân để chính danh Ơng nhấn mạnh vai trị của trí. Khổng
Tử cho rằng, người có nhân khơng thể thiếu trí, trí là sự sáng suốt, minh mẫn để phân
biệt, đánh giá con người và tình huống nhằm xác định cách ứng xử cho phải đạo. Trả
lời Phàn Trì ơng nói trí là: “Đó là người biết người”. Khi nhìn thấy người ngã xuống
giếng, kẻ có trí là kẻ biết tìm cách cứu người chứ khơng phải là kẻ liều chết cứu người,
hy sinh vơ ích. Trí theo quan niệm của Khổng Tử, một mặt là tri thức bẩm sinh của
mỗi người do trời phú, mặt khác nó cịn là kết quả của quá trình học tập trong đời
sống. Khổng Tử rất đề cao việc học, và bản thân ông cũng cố gắng trở thành một nhà
giáo dục. Tư tưởng học làm quan của ông một mặt thể hiện lập trường giai cấp, nhưng
mặt khác nó lại động viên con người dám đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận
việc nước, việc dân. Những luận điểm “hữu giáo vơ loại”, khun học trị tự tin ở
mình, tìm cách xoá bỏ sự thụ động của người tiếp thu tri thúc, ứng dụng việc học vào
cuộc sống mà ông đưa ra trong đường lối giáo dục, sau này vẫn được các nhà Nho
trong đó có Mạnh Tử kế thừa và phát triển. Phạm trù Dũng của Khổng Tử khơng chỉ
có ý nghĩa về mặt thể lực mà cịn có ý nghĩa về mặt tinh thần. Dũng là lòng can đảm:
“Người trí chẳng nghi hoặc, người nhân chẳng lo âu, người dũng chẳng sợ hãi”. Lịng
can đảm khơng có nghĩa là sự liều chết, do đó dũng gắn liền vói trí. Khổng Tử nói:
“cương dũng mà thiếu trí thì loạn”. Những tư tưởng trên đây cho thấy Khổng Tử luôn
luôn chủ trương lấy đạo đức làm gốc trong việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đối với
ơng, khi nhà cầm quyền biết mang đức nhân làm chính trị, quần chúng nhân dân sẽ
cảm phục, tin theo. Khi ấy họ ngồi yên mà được cả thiên hạ. Chính trị là một công
Trang 10


việc đầy phức tạp. Từ Khổng Tử trở về nước vấn đề chính trị thường tách rời đạo đức.
Sự áp đặt của kẻ cai trị thường gây ra sự phản kháng của nhân dân, từ đó sinh ra loạn
lạc. Khổng Tử nhận thấy nước loạn, lịng dân khơng n chẳng qua do vua không ra
vua, tôi không ta tôi, cha khơng ra cha, con khơng ra con. Chính vì vậy, ông khuyên

Tề Cảnh Công: “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Để làm được điều đó ơng địi
hỏi người làm chính trị phải là tấm gương sáng về đạo đức cho dân, họ phải tu thân,
không được lười biếng, phải có tấm lịng trung thực trong cách đối xử và trong công
việc. Như vậy, trong nghĩ của ông, việc làm chính trị cốt ở bản thân mình. Mặt khác,
trong chính trị, Khổng Tử rất coi trọng giáo hố dân, đề cao nhân tài, tài lại không
tách rời với đức. Khi kẻ tài đức chấp chính họ sẽ biết lo cho dân về kinhtế, quốc phòng
và biết cai trị bằng đắc nhân tâm. Chính những tư tưởng ấy của ơng đã đặt nền móng
tư tưởng dân bản trong đường lối chính trị của Mạnh Tử sau này. Từ đường lối chính
trị trên đây của Khổng Tử, chúng ta nhận thấy Khổng Tử chính là người đặt nền móng
cho tư tưởng đức trị. Tư tưởng ấy của ông thể hiện tập trung ở những luận điểm: lấy
đạo đức dẫn dắt nhân dân, hướng dẫn dân làm giàu kết hợp với giáo hoá dân và coi
trọng dân sinh. Kế thừa tư tưởng chính danh của Khổng Tử, khi đưa ra mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội, Mạnh Tử cũng u cầu con người trong xã hội
phải danh chính ngơn thuận, ứng xứ đúng với địa vị danh phận của mình. Như trong
chương Đằng Văn Cơng, Mạnh Tử nói: “Thánh nhân dạy dân biết các giềng mối của
con người: giữa cha con có tình thân ái, giữa vua tơi có nghĩa vụ, vợ chồng có phân
biệt, anh em có thứ tự, bạn bè có chữ tín”. Như vậy, con người phải nắm vững danh
phận của mình với người khác trong xã hội để mà hành xử sao cho phù hợp. Mạnh Từ
sống sau Khổng Tử hơn một trăm năm. Thời đại của ông hỗn loạn hơn đời Khổng Tử
cả về phương diện xã hội lẫn tư tưởng. Trong khi các triết gia đương thời đang cố
gắng tìm ra hướng đi mới trong việc bình ổn xã hội thì Mạnh Tử vẫn trung thành vói
đường lối đức trị trên đây của thầy mình. Tồn bộ tư tưởng chính trị- xã hội của Mạnh
Tử được ông xây dựng trên nền tảng là tư tưởng đức trị của Khổng Tử nên có thể nói,
tư tưởng đức trị Khổng Tử đưa ra từ thời đại Xuân Thu chính là nguồn gốc lý luận
trực tiếp cho tư tưởng chính trị- xã hội của ơng.

Chương 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA
MẠNH TỬ
2.1 Thuyết nhân chính trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Theo thuyết Nhân chính, việc trị quốc, bình thiên hạ của các bậc vương giả, trước hết,

phải xuất phát vì nhân nghĩa, chứ khơng phải vì lợi. Do đề cao đến độ tuyệt đối hoá ý
nghĩa của nhân nghĩa, nên Mạnh Tử cho rằng, nhà cầm quyền khơng cần nói tới lợi,
mà chỉ cần nói tới nhân nghĩa là đủ. Từ đó, ơng đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải
lấy nhân nghĩa làm gốc trong đường lối cai trị của nhà cầm quyền. Theo Mạnh Tử,
khi người ta lấy điều lợi làm mục đích, chắc chắn kẻ dưới, vì lợi ích sẽ hại kẻ trên;
cịn ngược lại, kẻ trên vì lợi ích sẽ chiếm đoạt hết của cải của kẻ dưới. Như vậy, nếu
Trang 11


tất cả mọi người ai ai cũng chỉ biết theo đuổi lợi ích của bản thân mình, gia đình mình,
dịng tộc mình, tất yếu sẽ tạo ra mầm loạn trong một quốc gia, và cũng tất yếu dẫn tới
trình trạng nổi loạn, tranh giành, cướp đoạt của cải của nhau. Mạnh Tử nhấn mạnh,
muốn khắc phục tình trạng đó, nhà cầm quyền trước hết phải là tấm gương sáng về
đạo đức cho dân chúng noi theo; do đó, họ khơng được lấy lợi ích làm điểm xuất phát,
hoặc làm mục tiêu hướng tới của đường lối cai trị đất nước. Trong đời sống xã hội,
xét tới cùng, bản chất của mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, giữa cá
nhân với tập thể, giữa cá nhân với xã hội, thực chất là mối quan hệ lợi ích. Song, khi
kịch liệt phản đối những người đề cao lợi ích, Mạnh Tử đã khơng hiểu lợi ích là động
lực chi phối mọi hành vi và hoạt động của con người. Thực ra, Mạnh Tử khơng hề có
ý định phủ nhận lợi ích, ngay cả khi ơng đối lập nhân nghĩa với lợi ích. Với ơng, phủ
nhận lợi ích chỉ là cái cách để đề cao nhân nghĩa. Khi phản đối việc con người lấy lợi
ích làm động cơ chính cho hành động của mình, ơng tin rằng, nếu chỉ xuất phát từ lợi
ích, người ta khó có thể đạt được nhân nghĩa. Đặt nhân nghĩa và lợi ích trong mối
quan hệ ngược chiều, Mạnh Tử chỉ có dụng ý làm rõ cơng dụng, cũng như giá trị đích
thực của nhân nghĩa trong các quan hệ xã hội mà thơi. Ơng cho rằng, khi nhà cầm
quyền đã dụng nhân nghĩa và thi hành nhân đức trong việc cai trị, thì việc đó tự nó sẽ
mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu xuất phát từ lợi ích thì chẳng những làm tổn hại nhân
nghĩa, mà cịn có thể đánh mất ln cả lợi ích nữa. Tư tưởng trên đây của Mạnh Tử
chứa đựng tinh thần nhân bản sâu sắc. Nó chứng tỏ ơng là nhà chính trị có lịng nhân
ái, khơng lấy lợi ích bản thân làm động lực cho hành động của mình. Khi coi nhân

cách là cái gốc của đạo làm người, Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm đưa thiên hạ trở lại hữu đạo. Tuy nhiên, khi đề
cao tới mức tuyệt đối nhân nghĩa và đòi hởi một cách vô điều kiện việc con người
phải lấy nhân nghĩa đối xử với nhau trong cuộc sống, ơng đã khơng nhìn thấy sức
mạnh thực sự của bản năng con người trong các quan hệ xã hội của họ. Mặc dù vậy,
việc coi trọng và đề cao nhân nghĩa lại là điểm xuất phát để Mạnh Tử hình thành một
tư tưởng rất có giá trị - tư tưởng Dân bản. Tư tưởng Dân bản là yếu tố cốt lõi trong
học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử, và về thực chất, việc thi hành Nhân chính phải
coi dân là gốc, phải hướng tới dân, vì dân. Mạnh Tử ln nhấn mạnh tầm quan trọng
của dân mà ông gọi là dân thường. Và, với tầm nhìn sâu sắc của một chính trị gia, ơng
khẳng định: “Một vị vua chư hầu phải quý trọng ba việc: đất đai, nhân dân và chính
sự. Nếu chê ba điều ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt thân mình phải vương lấy tai ương
2.2 Đường lối dân bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Nhà nước ở vào thời đại Mạnh Tử là hệ thống nhà nước của một định chế xã hội, vừa
có thiên tử, vừa có chư hầu, đồng thời là cơng cụ để thống trị và chiếm hữu. Nhà nước
ấy thuộc quyền chuyên chế của cá nhân nhà vua cùng với gia tộc và tập đồn thống
trị, quần chúng nhân dân khơng được tham dự vào chính quyền. Nhân dân chỉ có một
nghĩa vụ là tuyệt đối làm theo mệnh lệnh của kẻ thống trị, mà vua là đỉnh cao tối
Trang 12


thượng của quyền lực. Do vậy, khi Mạnh Tử chỉ cho nhà cầm quyền biết về ba vật
báu - đất đai, nhân dân và chính sự, có nghĩa là ơng nhắc nhở những người đứng đầu
chính thể cần phải nhìn nhận một cách đúng đắn về các yếu tố cơ bản cấu tạo nên thực
thể quốc gia. Tuy nhiên, một vấn đề đáng lưu ý là, trong ba yếu tố đó, Mạnh Tử đề
cao vai trị quyết định của yếu tố dân đối với sự hưng thịnh và tồn vong của đất nước.
Nếu nhà cầm quyền mà được lòng dân thì sẽ được tất cả; cịn nếu mất lịng dân sẽ mất
tất cả. Như vậy, thương dân là để được lịng dân, muốn được lịng dân thì phải thương
dân. Ở đây, đức nhân đã chuyển hoá thành phương pháp trị quốc và phương pháp trị
quốc được gắn chặt trên nền tảng của đức nhân. Về điểm này, Mạnh Tử vượt khá xa

so với Khổng Tử khi đưa ra luận điểm nổi tiếng để đánh giá vị trí và vai trị của dân:
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”(2). Tư tưởng này, một mặt, chỉ rõ trong
các nhân tố dân, nước và nhà vua thì dân là nhân tố có vai trị quan trọng nhất; mặt
khác cịn cho thấy, Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải tôn trọng dân quyền,
phải quý trọng dân. Tư tưởng “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh
Tử đồng thời còn là tư tưởng cơ bản, chỉ đạo các chính sách cụ thể trong việc thực
hiện đường lối Nhân chính. Nó có tính chất tiến bộ hơn so với tư tưởng của Khổng
Tử khi bàn về dân, về sứ mệnh của dân trong lịch sử. Mạnh Tử luôn đòi hỏi nhà cầm
quyền phải thấu hiểu nỗi khổ của dân và hết lịng lo cho dân. Đối với ơng, dùng nhân
nghĩa trong việc trị nước có nghĩa là lo cho dân, coi trọng dân. Như thế, nhân nghĩa
và tôn trọng dân luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau trong chuỗi biện chứng
của nó. Mạnh Tử nhấn mạnh rằng, trong chính trị, muốn thu được thiên hạ, được dân
chúng, được lịng dân chỉ có một phương cách là nhà cầm quyền phải thi hành nền
chính trị nhân nghĩa. Với nhãn quan sâu sắc của một nhà tư tưởng, Mạnh Tử thấy rõ
sức mạnh to lớn của nhân dân. Sự sống còn, thịnh suy của một chế độ xã hội, của một
triều đại đều là do nhân dân quyết định. Khi được nhân dân ủng hộ thì nhà nước tồn
tại, xã hội ổn định. Khi không được nhân dân ủng hộ, sớm hay muộn, tất yếu chế độ
ấy cũng sẽ bị lật đổ. Do vậy, ông nhắc nhở việc cai trị phải biết dựa vào nhân dân và
phát huy sức mạnh của nhân dân. Để có thể phát huy được sức mạnh của nhân dân
đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhà cầm quyền cần phải được lòng
dân. Muốn được lòng dân, nhà cầm quyền cần phải biết lo cho dân, phải biết đáp ứng
nhu cầu của dân. Trong suy nghĩ của Mạnh Tử, việc trị nước khơng khó, vấn đề là ở
chỗ khơng để cho dân khiển trách mình và phải làm thế nào đó cho dân ái mộ, đi theo
ủng hộ. Khi đã được mn dân ái mộ, ủng hộ thì đường lối, chính sách đề ra sẽ được
thực hiện và chắc chắn thắng lợi. Đó là một tư tưởng có tính chất chiến lược và hiện
nay, vẫn cịn tính thời sự với chúng ta. Xuất phát từ chủ trương dùng nhân nghĩa vào
việc chính trị, chủ trương nhân chính, Mạnh Tử đưa ra tư tưởng lấy nhân làm trọng.
Có thể nói, đây là tư tưởng thể hiện rõ nét và sâu sắc nội dung thuyết Nhân chính của
ơng. Từ chỗ thấy được mối quan hệ và tầm quan trọng của ba yếu tố Thiên - Địa Nhân trong quốc sách chính trị, Mạnh Tử đặc biệt chú ý và nhấn mạnh yếu tố nhân
hồ. Theo ơng, nhân hồ là yếu tố quyết định sự thành công của nhà cầm quyền, bởi

Trang 13


lẽ: “Thời trời chẳng bằng lợi đất; lợi đất chẳng bằng lịng người hồ hợp”(3). Trong
thời đại của Mạnh Tử, các nước chư hầu đánh nhau liên miên vì những lợi ích khác
nhau. Tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh tàn sát khốc liệt, qua học thuyết Nhân
chính, Mạnh Tử tỏ rõ thái độ căm ghét chiến tranh, lên án các cuộc chiến tranh xâm
lược, thơn tính lẫn nhau của các tập đồn q tộc đương thời. Ơng địi hỏi nhà cầm
quyền phải dùng nhân đức trong công việc trị nước, chứ không dùng bạo lực. Bởi lẽ,
chiến tranh, chết chóc, tàn phá… đều trái với đức nhân, đều hại dân. Mạnh Tử cho
rằng, kẻ gây chiến tranh, ham dùng vũ lực là kẻ bất nhân và, kẻ bất nhân, dù có thể
làm nên nghiệp bá vẫn khơng thể thu phục được lịng người. Hồi bão lớn lao của ơng
là dùng nhân để trị quốc, bình thiên hạ, tránh cho dân chúng cảnh chết chóc và huynh
đệ tương tàn do cuộc chiến gây ra. Đây là tư tưởng vì dân tiến bộ so với bối cảnh xã
hội thời bấy giờ. Mạnh Tử đề ra chủ trương, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhà cầm
quyền phải thi hành phép cai trị nhân ái nhằm bảo vệ tính mạng của nhân dân. Dân là
quý, xã tắc thứ chi, nên ông không chấp nhận bất kỳ cuộc chiến tranh nào với mục
đích tranh giành đất đai, làm tổn hại đến tài sản vật chất và sinh mệnh của hàng triệu
sinh linh. Mặc dù Mạnh Tử không hề phủ nhận việc dùng vũ lực để khuất phục người
khác nhằm đạt được mục đích, nhưng theo ơng, vũ lực chỉ có thể khuất phục được
những hành vi chống đối, chứ không thể thật sự thu phục nhân tâm. Muốn thu phục
được nhân tâm, củng cố nền chính trị bền vững, nhà cầm quyền phải thi hành nhân
đức, Ơng khẳng định, đó là xu thế tất yếu. Bên cạnh đó, chúng ta cịn thấy rằng, trong
tồn bộ nội dung học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử, những tư tưởng bảo dân, khoan
dân, thư sức dân, lo cho đời sống của dân,… là tư tưởng dân bản có giá trị to lớn.
Cũng xuất phát từ quan điểm nhân nghĩa, coi dân là gốc, Mạnh Tử không chỉ dừng lại
ở việc đòi hỏi nhà cầm quyền phải giữ gìn sinh mệnh dân, mà cịn địi hỏi họ khơng
được lạm dụng sức dân và giữ gìn của cải cho dân. Như vậy, tư tưởng lo cho dân là
tư tưởng tiến bộ xét theo phương diện lịch sử, và tư tưởng đó đáng kể người đời sau
kết thừa, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc trị nước, an dân. Có thể nói, tư tưởng

đề cao dân, lo cho đời sống của dân trong học thuyết chính trị - xã hội của ông thực
sự là một phương pháp trị nước đúng đắn. Đường lối trị quốc đó khẳng định, xã hội
càng phát triển thì việc bảo dân, quan tâm tới đời sống của dân lại càng trở nên quan
trọng và, vẫn là cái gốc của đạo trị nước. Đường lối ấy lại càng quan trọng hơn đối
với những dân tộc đang phấn đấu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân
nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng con người. Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa, Mạnh
Tử đã đề xuất quan điểm nhân bản trong chính sự. Do dân là gốc nước nên về mặt đạo
đức, nhà cầm quyền phải tôn trọng dân. Nhưng trong cơ chế chính trị, dân có được
làm gốc hay khơng lại tuỳ thuộc vào yếu tố nhân đức, vào sự giác ngộ của vua chúa.
Xuất phát từ đó, để thể hiện “nhân chính”, Mạnh Tử địi hỏi các bậc vua chúa phải
biết tu thân sửa mình, trau dồi nhân đức, phải trọng dân. Trong thời Chiến quốc, Mạnh
Tử là người đầu tiên đưa ra khái niệm lương tâm, lương năng, lương tri. Theo Mạnh
Tử, nhà vua không chỉ chịu trách nhiệm trước lương tri của mình, mà cịn phải chịu
Trang 14


trách nhiệm trước dân chúng. Vì vậy, vua phải biết tồn tâm, dưỡng tính, phát triển
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, “Người qn tử … biết giữ lịng mình”. Mạnh Tử luôn chủ
trương nhà cầm quyền phải ở chỗ rộng rãi trong thiên hạ (đức nhân) mà dung nạp
người, đứng ở chỗ chính đáng trong thiên hạ (đức lễ), noi theo con đường lớn trong
thiên hạ (đức nghĩa); hễ đắc chí thì cùng với dân mà hành đạo, bất đắc chí thì riêng
mình hành đạo. Nhà cầm quyền khơng phóng túng trước cảnh phú q, khơng đổi khí
tiết trước cảnh bần tiện, không được để cho uy quyền, vũ lực khuất phục mình. Được
như vậy mới là chính nhân qn tử, mới được dân tin cậy. Mạnh Tử luôn nhấn mạnh,
sự tu thân, dưỡng tính của con người, nhất là của nhà cầm quyền là một đòi hỏi, một
tiêu chuẩn rất cao. Nhà cầm quyền, các “quan chức” phải là bậc đại nhân khơng ngừng
tu thân, sửa mình. Để tu thân, sửa mình, Mạnh Tử địi hỏi nhà cầm quyền phải giữ
mình, khiêm cung, sinh hoạt tiết kiệm, gia huệ với dân và thu thuế của dân có chừng
mực. Đây là một tư tưởng khoan dân rất tiến bộ so với đương thời. Theo ông, một
trong những phẩm chất quan trọng của nhà cầm quyền là phải dũng cảm đi vào đời

sống xã hội, đảm nhận việc nước, việc dân. Mặt khác, còn phải tỏ rõ tinh thần trách
nhiệm trước dân, dám nhận lỗi trước nhân dân. Như vậy, có thể nói, điểm nổi bật
trong học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử là ở chỗ, ông đã luận giải khá sâu sắc rằng,
sự ổn định và phát triển của xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chúng quy định và
ràng buộc lẫn nhau, như đạo đức của giới quan chức, sự gương mẫu của nhà cầm
quyền, các chủ trương, chính sách chính trị của nhà cầm quyền, v.v.. Nếu thuyết Nhân
chính là tư tưởng đặc sắc trong triết học Mạnh Tử, thì tư tưởng Dân bản - dân là gốc
nước - là điểm chói sáng trong thuyết Nhân chính. Với tư tưởng Dân bản, Mạnh Tử
đã kế thừa truyền thống tôn dân trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, nhưng ơng
đã bổ sung, hồn thiện, phát triển và nâng lên thành đường lối chính trị thực tiễn của
nhà nước nhằm mục tiêu trị quốc, an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng dân bản, tóm lại, là
hệ thống tư tưởng trọng dân, bảo vệ dân, đề cao dân, dưỡng dân, giáo dân; là tư tưởng
mà các chính sách kinh tế - xã hội phải vươn tới mục tiêu vì dân… Đây là luận điểm
cốt lõi trong chiến lược chính sự của Mạnh Tử

Chương 3: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
VỚI XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
3.1 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Mặc dù còn bị hạn chế bởi hoàn cảnh lịch sử và lập trường giai cấp, nhưng tư tưởng
Dân bản trong học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử vẫn phản ánh khách quan ước
nguyện của quần chúng, nhân dân lao động Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến quốc.
Mặt khác, nó cũng đã đóng góp vào kho tàng lý luận chung của nhân loại. Đây là một
tư tưởng có giá trị cao trong việc xây dựng nhà nước cầm quyền cũng như xây dựng
một chiến lược chính trị để trị quốc có hiệu quả. Tư tưởng này vẫn có ý nghĩa thiết
thực đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trang 15


3.2 Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử

Như vậy, đường lối chính trị “nhân chính” - lấy dân làm gốc, chính trị vì dân, dựa trên
nhân nghĩa có nguồn từ trong triết học Nho giáo, ảnh hưởng đến đường lối chính trị
của các nho sĩ ở Việt Nam, trong đó có Phan Bội Châu. Đường lối đó khơng chỉ có ý
nghĩa đương thời và nó cịn vẹn ngun ý nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới ở
nước ta hiện nay. Vận dụng quan điểm đó vào q trình lãnh đạo của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định, mọi đường lối, chính sách pháp luật đều phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân
tham gia góp ý kiến trong mọi khâu của quá trình, từ đưa ra quyết định đến tổ chức
cách thức thực hiện

Trang 16



×