Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.13 KB, 39 trang )

1

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo
Mã phách:……………………………

1


2

Hà Nội – 2021

2


1

DANH MỤC VIẾT TẮT
Stt
1
2

Chữ cái viết tắt
TTNN


TTCN

Nội dung
Thanh tra nhà nước
Thanh tra chuyên ngành


1

MỤC LỤC
MỞ

ĐẦU

1
1.



do

chọn

đề

tài

1
2.


Tình

hình

nghiên

cứu

1
3.

Đối

tượng

Mục

đích



phạm

vi

nghiên

cứu

nhiệm


vụ

nghiên

cứu

2
4.



2
5.



sở



luận



phương

pháp

nghiên


cứu

3
6.

Kết

cấu

của

tiểu

luận

3
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THANH

TRA

NHÀ

NƯỚC

4
1.1.

Khái


niệm



đặc

điểm

của



quan

thanh

tra

nhà

nước

4
1.1.1.

Khái

niệm


4
1.1.2.

Đặc

điểm

của



quan

thanh

tra

nhà

nước

4
1.2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước


2

5
1.2.1.


Chức

năng

của



quan

thanh

tra

nhà

nước

5
1.2.2.

Nhiệm

vụ,

quyền

hạn

của




quan

thanh

tra

nhà

nước

hoạt

động

của



quan

thanh

tra

nhà

nước


6
1.3.

Tổ

chức



9
1.3.1.

Tổ

chức

của



quan

thanh

tra

nhà

nước


tra

nhà

nước

9
1.3.2.

Hoạt

động

của



quan

thanh

10
Tiểu

kết

Chương

1


12
Chương II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THANH

TRA

NHÀ

NƯỚC

13
2.1. Những kết quả đạt được trong tổ chức của cơ quan thanh tra nhà nước
13
2.1.1. Kết quả đạt được trong tổ chức bộ máy, điều kiện bảo đảm hoạt động thanh
tra

của



quan

thanh

tra

nhà

nước


13
2.1.2. Kết quả đạt được trong biên chế, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
điều

kiện

bảo

đảm

hoạt

động

thanh

tra

15
2.2. những kết quả đạt được trong hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước


3

15
2.2.1. Trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thanh

tra


15
2.2.2.

trong

hoạt

động

thanh

tra

giải

quyết

kinh

tế

-



hội

nại,

tố


cáo

16
2.2.3.

Trong

cơng

Về

hoạt

tác

khiếu

17
2.2.4.

động

phịng,

chống

tham

nhũng


17
2.2. Những hạn chế, yếu kém trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà
nước
18
Tiểu

kết

chương

2

22
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA


QUAN

THANH

TRA

NHÀ

NƯỚC

23
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà
nước.

23
3.2. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước
24
Tiểu

kết

chương

3

28
KẾT

LUẬN


4

29
Tài
30

liệu

tham

khảo



1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luật thanh tra được Quốc hội thơng qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2011. Việc ban hành Luật thanh tra là cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy quá trình đổi mới về tổ chức và hoạt động
thanh tra. Trên cơ sở đó, tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nói chung
và cơ quan thanh tra nhà nước nói riêng ngày càng được kiện toàn theo hướng
chuyên nghiệp và hiệu quả, cũng như khẳng định được vị trí, vai trị là cơng cụ hữu
hiệu giúp thủ trưởng cơ quan cùng cấp trong công tác quản lý Nhà nước. Tuy nhiên,
sau gần 10 năm thực hiện, Luật Thanh tra cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Việc thực thi Hiến pháp năm 2013 đang đặt ra yêu cầu đối với ngành Thanh tra thực
hiện hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phịng, chống tham nhũng, góp phần kiểm soát quyền lực nhà
nước, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân. Q trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường cũng như hội nhập
quốc tế cũng địi hỏi ngành Thanh tra nói chung và cơ quan thanh tra nhà nước nói
riêng cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động nhằm theo
kịp và phù hợp với yêu cầu của sự phát triển và hội nhập quốc tế. Đồng thời, thực
hiện đầy đủ, hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của cơ
quan Thanh tra nhà nước là rất cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới về tổ chức và
hoạt động thanh tra theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, chính quy và hoạt động hiệu
quả; đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành
động, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Vì
vậy em chọn đề tài "Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước" làm đề
tài cho bài tiểu luận kết thúc học phần của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết chuyên khảo trên các

Báo thanh tra, Tạp chí thanh tra và các Báo, Tạp chí chuyên ngành đề cập đến tổ
chức và hoạt động của thanh tra nhà nước ở những khía cạnh và mức độ khác nhau,


2

trong đó có đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động của
thanh tra nhà nước, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước như:
- "Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi Luật
thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra" đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
năm 2007 do đồng chí Trần Văn Truyền – Tổng Thanh tra Chính phủ, làm Chủ
nhiệm;
- Trịnh Xuân Thiện: "Suy nghĩ về các nguyên tắc hoạt động thanh tra", Tạp
chí Thanh tra, số 03/2015;
- Nguyễn Ngọc Tản: "Về công tác xây dựng thể chế của ngành Thanh tra",
Tạp chí Thanh tra, số 01/2017;
- Nguyễn Thành Vinh: "Những bất cập trong các quy định của pháp luật về
thanh tra", Tạp chí Thanh tra, số 11/2017;
Các bài viết trên đã phân tích thực trạng hoạt động thanh tra trong thời gian
vừa qua, đồng thời nêu lên những bất cập, vướng mắc về các quy định pháp luật
thanh tra hiện hành khi áp dụng trên thực tế. Từ đó, các tác giả đã đề xuất hướng
sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra nhà nước nói
chung là vấn đề rất rộng, phức tạp, có tầm bao quát lớn. Trong khuôn khổ của tiểu
luận, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu Luật thanh tra 2010 với các vấn đề:
- Nghiên cứu và phân tích kỹ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước.

- Nghiên cứu và phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà
nước, đưa ra nhận xét về những ưu điểm và hạn chế, những bất cập so với quy định
hiện hành trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu


3

Đề tài nghiên cứu với mục đích nhằm đảm bảo cơng tác thanh tra nhà nước có
được một cơ sở lý luận vững chắc để chuẩn hóa về tổ chức bộ máy và hoạt động
thanh tra nhà nước. Phân tích thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà
nước nhằm tìm ra những ưu điểm và hạn chế, từ đó kiến nghị phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra. Qua đó kiến nghị, đề xuất sửa
đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thanh tra để phù hợp với tình hình thực
tế.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau:
xây dựng một cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cho việc kiện toàn và nâng cao tổ
chức và hoạt động thanh tra nhà nước dựa trên sự nghiên cứu và phân tích thực
trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước.
Phát hiện những vấn đề khó khăn, vướng mắc, chồng chéo của hoạt động
thanh tra nhà nước, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả
công tác thanh tra.
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về thanh tra nhằm phù
hợp với yêu cầu thực tiễn, hình thành một mơ hình thanh tra nhà nước đảm bảo về
các mặt: Hồn thiện về bộ máy, hoạt động có hiệu quả, đảm bảo tốt về nguồn nhân
lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu là những luận điểm trong học thuyết MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Các phương pháp được sử dụng trong tiểu luận gồm: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước.
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước


4

Chương 3. Một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà
nước
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THANH TRA NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm và đặc điểm của cơ quan thanh tra nhà nước
1.1.1. Khái niệm
Luật Thanh tra năm 2010 thay thế Luật Thanh tra 2004 tiếp tục khẳng định vai
trị to lớn của cơng tác thanh tra và có những quy định mới nhằm nâng cao vị trí và
vai trị của các tổ chức thanh tra và tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh
tra. Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra 2010 quy định: "Thanh tra Nhà nước là hoạt
động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành"[3, tr.1]. Như vậy, trong nội hàm khái
niệm Thanh tra nhà nước theo Luật thanh tra 2010 nêu rõ mục đích của hoạt động
thanh tra, chủ thể tiến hành thanh tra, nội dung thanh tra và đối tượng của thanh tra.
Trong đó:
Thanh tra hành chính, là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành, là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó.
1.1.2. Đặc điểm của cơ quan thanh tra nhà nước
Các cơ quan thanh tra là bộ phận cấu thành của hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước, hay nói cách khác là một bộ phận của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp. Theo Điều 5 Luật Thanh tra năm 2010 thì Cơ quan thanh tra nhà nước giúp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết


5

khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Các cơ
quan thanh tra được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc.
Nghĩa là cơ quan thanh tra một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính Nhà nước có
thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan Thanh tra cấp trên
trực tiếp. Ví dụ: tại Khoản 3 Điều 20 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: "Thanh tra
tỉnh chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp và chịu sự
chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ."[3]
Mỗi cơ quan đều có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tạo ra một sự
độc lập trong cơ quan thanh tra để đảm bảo cho hoạt động thanh tra được tiến hành
theo pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. Nghĩa là mỗi cơ quan thanh tra đều được
quy định có chức năng, nhiệm vụ riêng, tại Khoản 1 Điều 17 Luật Thanh tra năm
2010 thì "Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phịng, chống tham nhũng; tiến hành
thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của

bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật."[3] Còn chức năng, nhiệm
vụ của Thanh tra tỉnh được quy định tại Khoản 1 Điều 20. Luật Thanh tra: "Thanh
tra tỉnh là cơ quan chun mơn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm
giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật."[3]
1.2 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước
1.2.1. Chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước
Trên thực tế công tác thanh tra, kiểm tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân và công tác phòng, chống tham nhũng đều là những mảng hết sức quan
trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước.
Khác với các lĩnh vực công tác khác, như lĩnh vực xét xử chỉ do Tòa án thực hiện,
lĩnh vực điều tra do các cơ quan điều tra tiến hành, công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng lại thuộc trách nhiệm của toàn
đảng, toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nhìn từ phương diện lịch sử sẽ


6

thấy rằng, các tổ chức thanh tra đóng vai trị quan trọng trong công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng. Sắc lệnh số 64/SL ngày
23/11/1945, văn bản đánh dấu sự ra đời của ngành thanh tra mặc dù còn rất sơ khai
nhưng đã có những quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn bao hàm đầy đủ
các phương diện hoạt động này của ngành thanh tra. Nói một cách khác, nội hàm của
khái niệm công tác thanh tra đã bao hàm các lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Luật Thanh tra đã quy định rõ và phân biệt sự khác nhau giữa tổ chức thanh tra
ở các cấp và tổ chức thanh tra thuộc ngành ở trung ương và địa phương.

Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, thanh tra huyện có chức năng quản lý
nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước
hoặc trong phạm vi quản lý của uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Thanh tra bộ, Thanh tra sở có chức năng thực hiện quyền thanh tra trong phạm
vi quản lý nhà nước của cơ quan mình và quản lý cơng tác thanh tra đối với cơ quan
thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan mình.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước
Trong các văn bản pháp luật từ Pháp lệnh thanh tra 1990 đến Luật thanh tra
2004 và hiện nay là Luật thanh tra 2010 vẫn quy định rất rõ về nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan thanh tra nhà nước như: Thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng; Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của các cơ quan nhà nước
cùng cấp; Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo; Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Khi tiến hành thanh tra các cơ quan thanh tra được áp dụng những quyền hạn
nhất định để phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm. Vì vậy các cơ
quan thanh tra phải có tính độc lập tương đối để bảo đảm tính khách quan khi tiến
hành các hoạt động thanh tra, kết luận về các hành vi sai phạm, nhất là đối với các
vụ việc liên quan đến trách nhiệm của cơ quan quản lý. Luật thanh tra năm 2010 và
những văn bản pháp luật hiện hành đã quy định những nhiệm vụ và quyền hạn


7

chung của các cơ quan thanh tra nhà nước đồng thời quy định nhiệm vụ quyền hạn
riêng của từng tổ chức thanh tra, các chức danh lãnh đạo của từng tổ chức thanh tra
và thanh tra viên. Cụ thể:
Thứ nhất, nhiệm vụ, quyền hạn về công tác thanh tra. Thực hiện quản lý nhà

nước về công tác thanh tra:
Về công tác: Phải xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra, hướng dẫn các
cấp, các ngành và chỉ đạo các tổ chức thanh tra cấp dưới thực hiện. Tổ chức thanh
tra có quyền yêu cầu các cấp, các ngành trong phạm vi quản lý của thủ trưởng cùng
cấp thanh tra những việc thuộc phạm vi trách nhiệm. Tổ chức thanh tra cấp trên giao
nhiệm vụ cho tổ chức thanh tra cấp dưới, khi cần có thể điều động các cán bộ tổ
chức thanh tra cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác cần kiểm tra, được phép
đình chỉ việc thi hành, sửa đổi bãi bỏ những kiến nghị, quyết định không đúng của
thanh tra cấp dưới.
Về tổ chức: Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền các quy định về hệ thống tổ chức và chính sách, chế độ quản lý về tổ
chức cán bộ. Quản lý cán bộ theo thẩm quyền và việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán
bộ.
Về nhiệm vụ: Nghiên cứu lý luận công tác thanh tra, xây dựng và hướng dẫn
việc thực hiện các quy trình biểu mẫu, phương pháp tiến hành thanh tra, tổng kết
kinh nghiệm hoạt động thanh tra trong nước, nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm
thanh tra nước ngoài. Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về thanh
tra: Các tổ chức thanh tra đều phải tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
các quy định của Nhà nước trong các văn bản pháp luật và pháp quy về công tác
thanh tra và công tác xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan đơn vị tổ chức, cá
nhân thuộc quyền quản lý các cấp ngành mình. Qua đó có quyền tạm đình chỉ việc
thi hành, sửa đổi, bãi bỏ những quy định trái pháp luật về công tác thanh tra và xét
giải quyết việc khiếu nại, tố cáo.
Kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành các quy định phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước. Nhiệm vụ quyền hạn này
nhằm thực hiện tốt mục đích thanh tra, góp phần thúc đẩy hồn thiện nhiệm vụ,
hồn thiện cơ chế quản lý. Bởi vì hoạt động quản lý luôn đổi mới, đối tượng quản lý
ln vận động địi hỏi chủ thể quản lý ln phải có những quyết định phù hợp.



8

- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân. Tổ chức thanh tra nào cũng có nhiệm vụ này nhưng nội dung, đối
tượng, phạm vi lại khác nhau.
+ Thanh tra Chính phủ thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm
vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; thanh tra
đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;
Thanh tra vụ việc phức tạp liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều bộ, uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh; Thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
+ Thanh tra tỉnh thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ,
quyền hạn của sở, của UBND cấp huyện; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước
do Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập; Thanh tra vụ việc phức tạp, liên
quan đến trách nhiệm của nhiều sở, UBND cấp huyện; Thanh tra vụ việc khác do
Chủ tịch UBND cấp tỉnh giao;
+ Thanh tra huyện thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, của UBND cấp xã;
Thanh tra vụ việc phức tạp, có liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện, UBND cấp xã; Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch
UBND cấp huyện giao;
+ Thanh tra bộ, sở là tổ chức thanh tra nằm trong cơ cấu bộ máy của bộ, của
sở, tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của bộ, của sở; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ, của sở;
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Một hoạt động hết sức quan trọng của cơ quan thanh tra nhà nước là quản lý
nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, hoạt động này có tác động tích cực, hỗ
trợ việc thực hiện các nhiệm vụ khác của cơ quan thanh tra trong giải quyết khiếu
nại đạt kết quả vững chắc, toàn diện và đầy đủ hơn. Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của mình thanh tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại của

cơ quan hành chính nhà nước; Tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại; Tổng
kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại…
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn về phòng, chống tham nhũng
Kể từ khi thành lập, mặc dù ở mỗi giai đoạn lịch sử đều có những điều chỉnh


9

về chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp, nhưng ngành Thanh tra và cơng tác thanh tra
ln ln có một vai trị quan trọng trong cơng tác phịng, chống bệnh quan liêu,
nạn tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý
nhà nước.
Các cơ quan thanh tra nhà nước đã tham mưu cho các cấp, các ngành triển
khai và hoàn thành việc kê khai minh bạch tài sản theo đúng quy định. Phối hợp với
Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tham mưu cho cơ quan quản lý nhà nước
cùng cấp ban hành các kế hoạch thực hiện chiến lược phòng chống tham nhũng và
Chỉ thị về tăng cường công tác tự kiểm tra, phòng ngừa sai phạm trong hoạt động
của các cơ quan hành chính Nhà nước; phối hợp với các ngành chức năng tiến hành
thanh tra việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; tổng hợp báo cáo định
kỳ, đột xuất kết quả cơng tác phịng, chống tham nhũng đảm bảo thời gian, nội dung
theo yêu cầu.
1.3. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước
1.3.1. Tổ chức của cơ quan thanh tra nhà nước
Tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà
nước bao gồm một hệ thống các cơ quan thanh tra được thành lập từ trung ương đến
địa phương để xem xét, đánh giá, xử lý hoặc đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền
xử lý đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý; kiến nghị các biện pháp khắc phục những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,

cá nhân.
Theo Luật Thanh tra năm 2010, cơ quan thanh tra nhà nước bao gồm: Thanh
tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ); Thanh
tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra
sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Thanh tra
huyện).
- "Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cơng tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố


10

cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật" [3, tr.15]. Tổng Thanh tra Chính phủ là thành viên Chính phủ, do Thủ
tướng Chính phủ đề nghị, Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Thanh tra Chính phủ do Chính phủ
Quy định.
- "Thanh tra bộ là cơ quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành
thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của
bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật" [3, tr.20]. Chánh Thanh tra
bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng
thanh tra Chính phủ.
- "Thanh tra tỉnh là cơ quan chun mơn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có
trách nhiệm giúp uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật"

[3, tr.24]. Chánh Thanh tra tỉnh do Chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ.
- "Thanh tra sở là cơ quan của sở, giúp Giám đốc sở tiến hành thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham
nhũng theo quy định của pháp luật" [3, tr.28]. Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh.
- "Thanh tra huyện là cơ quan chun mơn thuộc uỷ ban nhân dân cấp huyện,
có trách nhiệm giúp uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp
luật" [3, tr.32]. Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh.


11

1.3.2. Hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước
Hoạt động thanh tra là cách thức thể hiện vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan thanh tra nhà nước. Hoạt động thanh tra theo quy định của pháp
luật bao gồm: xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra; quyết định việc thanh tra;
tiến hành thanh tra trên thực tế; báo cáo kết quả thanh tra; kết luận thanh tra và xử
lý kết luận thanh tra…
Hoạt động thanh tra được các cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành trên cơ sở
hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
- "Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao" (Khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra 2010).
Như vậy, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà
nước; đối tượng của thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực
thuộc. Chẳng hạn như bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành hoạt động thanh tra đối với

các cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự quản lý trực tiếp của bộ, cơ quan ngang bộ; Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành thanh tra đối với các
sở, ban, ngành cấp tỉnh… Nội dung của thanh tra hành chính nhằm xem xét, đánh
giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ
quan, tổ chức và cá nhân trực thuộc. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thanh tra
hành chính và thanh tra chun ngành. Nó thể hiện quan hệ trong chỉ đạo, điều
hành, kiểm tra, kiểm soát giữa cấp trên đối với cấp dưới, giữa cơ quan có thẩm
quyền với đối tượng trực thuộc chịu sự quản lý.

- "Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý
thuộc ngành, lĩnh vực đó" (Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra 2010). Hoạt động thanh
tra chuyên ngành do các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực
tiến hành như Bộ, sở, Thanh tra bộ, Thanh tra sở và cơ quan được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở). Đối
tượng thanh tra chuyên ngành là mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong


12

ngành, lĩnh vực đó. Nội dung của thanh tra chuyên ngành nhằm xem xét, đánh giá
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc
quản lý ngành, lĩnh vực. Hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước được thể hiện
thông qua chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra theo quy định
của pháp luật.

Tiểu kết Chương 1
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước rất
quan trọng, ảnh hưởng đến hướng nghiên cứu của đề tài. Chương 1 của tiểu luận đã

triển khai nghiên cứu vấn đề này qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận về các cơ
quan thanh tra, nội dung vai trò của các cơ quan thanh tra; các yếu tố ảnh hưởng đến
việc thực hiện vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong việc xem xét, đánh
giá và xử lý theo thẩm quyền đối với việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước thơng qua việc thực hiện chức năng thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Các phương diện thể hiện vai trò của các
cơ quan thanh tra nhà nước có thể nói đến là các cơ quan thanh tra tiến hành thanh
tra giúp các cơ quan hành chính nhà nước thực thi chính sách, pháp luật một cách
thống nhất; đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật; phát hiện những
sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật và tăng cường mối quan hệ chỉ
đạo, điều hành của hệ thống hành chính; xử lý vi phạm pháp luật theo thẩm quyền,
phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.


13

Chương II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
THANH TRA NHÀ NƯỚC
2.1. Những kết quả đạt được trong tổ chức của cơ quan thanh tra nhà nước
2.1.1. Kết quả đạt được trong tổ chức bộ máy, điều kiện bảo đảm hoạt động
thanh tra của cơ quan thanh tra nhà nước
Luật thanh tra năm 2010 có nhiều đổi mới về tổ chức các cơ quan thực hiện
chức năng thanh tra so với Luật thanh tra năm 2004, đặc biệt là tổ chức Thanh tra
bộ, ngành. Theo đó, các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm các cơ
quan TTNN và cơ quan được giao thực hiện chức năng TTCN: Thanh tra Chính
phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện và các cơ quan
được giao thực hiện chức năng TTCN. Thời gian qua, các cơ quan TTNN được
thành lập theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Thanh tra Chính phủ được

tổ chức theo Nghị định số 50/2018/NĐ-CP ngày 09/4/2018 về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Chính phủ. Các cơ quan Thanh tra bộ được tổ chức theo quy
định của Luật thanh tra và các Nghị định về tổ chức và hoạt động của thanh tra
ngành. Riêng đối với tổ chức thanh tra trong Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ
Quốc phịng, Bộ Cơng an được tổ chức theo đặc thù của ngành, cụ thể như sau:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có cơ quan Thanh tra, giám sát ngành ngân
hàng là cơ quan TTNN, được tổ chức thành hệ thống gồm: Cơ quan thanh tra,
giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước; Thanh tra, giám sát ngân
hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương được thành lập tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi khơng có Cục
Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Bộ Cơng an có các cơ quan thuộc TTNN: Thanh tra Bộ Công an; Thanh tra
Tổng cục; Thanh tra Bộ Tư lệnh. Ở địa phương có Thanh tra Cơng an tỉnh, thành
phố trung ương; Thanh tra Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố


14

trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại bộ máy, hiện nay Bộ
Công an đã không còn 06 Tổng cục và sáp nhập 20 đơn vị cảnh sát phòng chát
chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vào công an tỉnh, thành phố.
Do vậy hiện nay khơng cịn Thanh tra Tổng cục và Thanh tra cảnh sát phòng
cháy và chữa cháy ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Bộ Quốc phịng có hệ thống cơ quan thuộc TTNN (bao gồm cả các cơ quan
thanh tra trực thuộc Tổng cục, Cục thuộc Bộ, Cục thuộc Tổng cục và tương
đương): Thanh tra Bộ Quốc phòng; Thanh tra Quốc phòng quân khu; Thanh tra
Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và các Tổng cục; Thanh tra Cơ yếu;
Thanh tra Quân chủng; Thanh tra Bộ đội Biên phịng; Thanh tra Quốc phịng Bộ
Tư lệnh Thủ đơ Hà Nội; Thanh tra Quốc phòng Bộ Tư lệnh thành phố Hồ Chí
Minh; Thanh tra qn đồn, binh đồn.

Tổ chức thanh tra trong cơ quan được giao thực hiện chức năng TTCN được
thực hiện theo quy định của Luật thanh tra, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP và một
số Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ, ngành. Có một
số mơ hình như ở Tổng cục có bộ phận tham mưu được tổ chức thành Vụ; ở Cục
thuộc Bộ và ở Chi cục thuộc Sở có bộ phận tham mưu được tổ chức thành
Phịng. Ngồi ra cịn các trường hợp đặc biệt như sau: Xác định bộ phận tham
mưu về công tác TTCN của Chi cục thuộc Cục được tổ chức thành Đội. Bộ phận
tham mưu về công tác TTCN thuộc Cục đường sắt Việt Nam, Chi cục đường
thủy nội địa và Cơ quan quản lý đường bộ được tổ chức thành Đội. Một số Tổng
cục, Cục thuộc Bộ được thành lập tổ chức thanh tra độc lập theo các điều ước,
thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước (thuộc Bộ Tài chính), Cục Hàng khơng, Cục Hàng hải, Cục An toàn và bức
xạ hạt nhân. Các cơ quan thanh tra này trực thuộc Tổng cục, Cục thuộc Bộ, có
Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên theo ngạch thanh tra,
Chánh Thanh tra được quyền ra quyết định thanh tra. Ngoài ra, theo tinh thần của
Luật thanh tra, tổ chức bộ máy của thanh tra ngành Tòa án, ngành kiếm sát đã
từng bước được củng cố, kiện toàn và phát triển đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.
Như vậy, trong thời gian qua, việc kiện toàn tổ chức các cơ quan thanh tra


15

theo cấp hành chính được thực hiện tương đối thuận lợi. Việc sắp xếp tổ chức
Thanh tra bộ, ngành được triển khai tích cực.

2.1.2. Kết quả đạt được trong biên chế, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, điều kiện bảo đảm hoạt động thanh tra
Biên chế của ngành thanh tra được giao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và
phạm vi hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Theo báo cáo

của các bộ, ngành, địa phương, tổng số công chức, viên chức, người lao động tại
các cơ quan TTNN (tính đến ngày 30/6/2017) là 23.002 người, trong đó thanh tra
viên cao cấp là 432 người, thanh tra viên chính là 2.110 người, thanh tra viên là
10.792 người và 8.717 công chức, viên chức và lao động hợp đồng khác. Tổng số
công chức, viên chức, người lao động làm công tác TTCN tại các cơ quan được
giao thực hiện chức năng TTCN là 8.350 người, trong đó có: 5.710 cơng chức
TTCN, 1.945 viên chức, người lao động, 339 là thanh tra viên[6].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành thanh tra đã được
Thanh tra Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương quan tâm nhiều hơn qua việc
xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng
năm. Việc chuyển ngạch, nâng ngạch thanh tra được thực hiện theo đúng quy
định; chủ động, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho công chức, viên chức đáp
ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham dự các kỳ thi nâng ngạch, chuyển ngạch.
Kinh phí tổ chức và hoạt động của các cơ quan TTNN do ngân sách nhà
nước bảo đảm. Việc cấp, quản lý và sử dụng ngân sách của ngành thanh tra được
thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Chế độ, chính
sách, tiền lương, phụ cấp, trang phục và chế độ đặc thù đối với thanh tra viên đã
được bộ, ngành, địa phương thực hiện theo đúng quy định. Ngoài ra, các cơ quan
TTNN được trích một phần từ các khoản thu hồi phát hiện qua thanh tra để hỗ
trợ hoạt động, khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong cơng tác thanh
tra.


16

2.2. những kết quả đạt được trong hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước
2.2.1. Trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thanh tra
Hàng năm thanh tra nhà nước đã chủ động xây dựng kế hoạch thanh tra và tổ
chức thực hiện kế hoạch đó; Yêu cầu cơ quan chuyên môn báo cáo về công tác
thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra; Theo dõi, đôn đốc, kiểm

tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Trong những
năm qua, Thanh tra nhà nước đã có cố gắng chủ động chỉ đạo, hướng dẫn công tác
tổ chức, chuyên môn nghiệp vụ, tuyên truyền giáo dục pháp luật về thanh tra đối
với Thanh tra bộ, tỉnh, huyện, Thanh tra Sở và các cơ quan, đơn vị thuộc quyền
quản lý trực tiếp của thanh tra nhà nước; nghiên cứu, xây dựng, hướng dẫn thực
hiện thống nhất một số quy trình nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra; đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức một số lớp tập huấn nghiên cứu sâu một số
chuyên đề cho đội ngũ cán bộ thanh tra; tiếp tục duy trì các lớp tập huấn nghiệp vụ
về công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt. Đồng thời tiến hành thanh tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND tỉnh, huyện,
Giám đốc các Sở, các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về
công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2.2.2. trong hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội
Căn cứ vào chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt, hàng năm Thanh tra
nhà nước đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra tập trung vào các lĩnh vực: quản lý đầu
tư xây dựng; quản lý tài chính ngân sách; thanh tra việc thực hiện chính sách xã hội;
thanh tra lĩnh vực quản lý, sử dụng tài nguyên; thanh tra chuyên đề cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước; thực hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, chính
sách di dân tái định cư; thanh tra trách nhiệm thi hành công vụ... Qua thanh tra, đã
phát hiện, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý nhiều sai phạm, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước và tập thể, cá nhân; đồng
thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách,
pháp luật nhằm khắc phục những khuyết điểm, sơ hở trong công tác quản lý, góp
phần phát triển kinh tế và tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội.
Hoạt động thanh tra đã đóng góp tích cực trong việc phát hiện các sai phạm về
kinh tế và chấn chỉnh trong hoạt động quản lý Nhà nước, kiến nghị xử lý nhiều cá


17


nhân, tập thể vi phạm các quy định pháp luật. Các cuộc thanh tra được tiến hành có
trọng tâm, trọng điểm. Đối tượng thanh tra được xác định tập trung hơn, triển khai
kịp thời và kết thúc nhanh hơn; việc chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra sâu sát,
cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng; Hầu hết kết quả các cuộc thanh tra đã được
các bộ, ban, ngành nhất trí, dư luận đồng tình, ủng hộ; vai trị, vị thế của cơ quan
Thanh tra nhà nước được nâng lên rõ rệt. Thông qua các cuộc thanh tra đã giúp cho
cơ quan quản lý nhà nước chủ động trong việc phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các
tiêu cực, tham nhũng, thu hồi tiền, đất đai, tài sản về cho Nhà nước và nhân dân,
chấn chỉnh công tác quản lý Nhà nước và hoàn thiện thể chế trên nhiều lĩnh vực.
2.2.3. Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Hàng năm, các cơ quan Thanh tra nhà nước đã tiếp nhận và giải quyết một số
lượng lớn đơn khiếu nại, tố cáo do các cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi đến. Nhiều vụ
việc phức tạp, tồn đọng lâu ngày đã được giải quyết dứt điểm. Các cấp, các ngành
đã nhận thức rõ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo, từ đó có nhiều cố gắng, nỗ lực nâng cao hiệu quả công tác này. Trên thực tế,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thanh tra nhà nước đã bảo vệ được
các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, góp phần bảo đảm an ninh trật tự và an
toàn xã hội. Nội dung khiếu nại của công dân liên quan đến nhiều lĩnh vực như:
Tranh chấp về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; Chế độ trợ cấp hưu trí, mất sức
lao động, chế độ người có cơng trong kháng chiến, thương binh bị cắt chế độ hoặc
tạm dừng chi trả trợ cấp; Khiếu nại về kết quả chấm thi tốt nghiệp phổ thông, bổ túc
văn hoá, tuyển dụng giáo viên; Khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ công chức;
Khiếu nại mức thu thuế, mức xử phạt vi phạm hành chính chưa đúng quy định...
trong đó các khiếu nại liên quan đến tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng
là lĩnh vực có những vụ việc với nhiều nội dung phức tạp.
2.2.4. Trong cơng tác phịng, chống tham nhũng
Hoạt động phịng, chống tham nhũng của cơ quan thanh tra nhà nước trong
thời gian vừa qua đã đạt được một số thành tựu: Thanh tra đã hướng việc xây dựng
chương trình, kế hoạch thanh tra vào những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, dễ nảy
sinh tiêu cực tham nhũng. Vì vậy, qua thanh tra đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc

tiêu cực, tham nhũng, góp phần vào cơng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng


18

nói chung. Thực hiện Chương trình cơng tác Thanh tra đã được chính phủ phê
duyệt, Thanh tra nhà nước đã thành lập các Đoàn thanh tra, tiến hành thanh tra trong
thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và phịng, chống tham
nhũng. Chỉ đạo, đơn đốc các Tổ chức thanh tra cùng cấp, tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN tại các đơn vị trực
thuộc. Qua thanh tra, phát hiện một số tồn tại, khuyết điểm trong việc xây dựng
Chương trình, kế hoạch PCTN; công tác kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập; việc
chuyển đổi vị trí cơng tác và những hạn chế, yếu kém trong công tác tự kiểm tra,
nhằm chấn chỉnh, phòng ngừa sai phạm trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Đồng thời
thông qua công tác thanh tra, tiếp tục hướng dẫn các đơn vị thực hiện một số quy
định cịn gặp những khó khăn, vướng mắc trong q trình tổ chức triển khai, thực
hiện như việc chuyển đổi vị trí cơng tác, cơng tác kê khai, minh bạch tài sản, thu
nhập. Đảm bảo cho cơng tác phịng, chống tham nhũng tại cơ sở được đi vào nề nếp
và đúng quy định của pháp luật.
Thông qua hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền,
tích cực thẩm tra, xác minh, kết luận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo theo thẩm
quyền hoặc kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giải quyết
nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tham nhũng, góp phần bảo vệ lợi
ích chung của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơng dân, bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ bị tố cáo
sai, minh oan cho những cán bộ, công chức đó. Tổ chức thực hiện tốt cơng tác
thơng tin, báo cáo, làm đầu mối phối hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền về tình hình
tham nhũng và kết quả phịng chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra, kiểm
tra, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng.
2.2. Những hạn chế, yếu kém trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra

nhà nước
Ngoài những kết quả đã đạt được, trong tổ chức và hoạt động của thanh tra
nhà nước còn một số những hạn chế, yếu kém sau:
Thứ nhất, mơ hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức
hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Khoản 1 Điều 4 Luật Thanh tra
năm 2010.


×