Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

hoạch định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới trên địa bàn quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.95 KB, 126 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta hiện vẫn là một nước nông nghiệp, nông dân đang chiếm gần 74%
dân số và chiếm đến 60,7% lao động xã hội. “Thu nhập hộ nông dân hịên chỉ
bằng 1/3 so với dân cư khu vực thành thị, ở vùng núi có tỉ lệ mù chữ trên 22,6%,
hiện còn 2,25 triệu hộ nghèo (90% ở nông thôn), 300.000 hộ thường xuyên thiếu
đói, 400.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu số sống du canh” [44, tr.248]. Trong khi
đó nông nghiệp nông thôn đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc dân với 20%
GDP, trên 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, các chính sách phát
triển nông nghiệp trước đây thường thiên về thúc đẩy phát triển ngành, có
phần xem nhẹ vai trò, lợi ích của chủ thể chính, động lực chính của phát triển
nông nghiệp là nông dân. Phần lớn các chính sách hầu như chưa quan tâm xử
lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa các vùng, các lĩnh vực trong ngành,
giữa nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để mối quan hệ
giữa các yếu tố chính của mô hình phát triển nông nghiệp nông thôn … Đây
là nguyên nhân chủ yếu, khiến cho sau nhiều thập kỷ chuyển đổi nền nông
nghiệp sang thị trường, đến nay về cơ bản nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
vẫn mang tính khép kín, tự cấp tự túc.
Khi nước ta gia nhập WTO, tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế
lớn của khu vực và thế giới, sức ép của hội nhập và phát triển ngày một lớn,
đặt ra yêu cầu rất cao đối với nền kinh tế nước ta, trong đó lĩnh vực nông
nghiệp là lĩnh vực phải đối mặt với nhiều thách thức nhất. Trước yêu cầu phát
triển và hội nhập hiện nay, thực hiện mục tiêu đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, đã đến lúc đòi hỏi phải có nhiều chính sách đột phá và
đồng bộ nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá nông
1
thôn. Giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa
chiến lược đối với sự ổn định và phát triển đất nước.
Ở nước ta thời gian qua, Nhà nước đã phối hợp với các tổ chức quốc tế, các
tổ chức xã hội trong nước đã có nhiều nỗ lực nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện
môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội ở nông thôn. Như, Chương trình


định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới (năm 1968); Chương tình mục
tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương
trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (327/CT) và Dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng; Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn; Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu
vùng xa. Chủ trương chính sách xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ba
chương trình: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; CNH và
HDH nông nghiệp, nông thôn; xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư,
Một trong số chương trình lớn có sự phối hợp, tài trợ của các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài, Chương trình 135 về giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn;
các chương trình quốc gia lớn nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân đã thu
hút trên 13,07 triệu hộ với trên 58,41triệu lượt người ở nông thôn tham gia;
các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về đất đai, sản xuất nông sản
hàng hoá, kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại,… đã và đang đưa nước ta từ nền
kinh tế kế hoạch hoá- tập trung - quan liêu - bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, nhìn chung, các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp,
nông thôn chưa thực sự hiệu quả, thiếu bền vững, ở nhiều mặt có thể nói chưa
đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, chưa đưa sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn thành sản xuất hàng hoá thực sự.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là chưa định hướng rõ mô hình
phát triển, thể hiện ở việc nhận thức chưa thấu đáo các vấn đề như: Tầm nhìn
(mục tiêu), mô hình phát triển và các nguồn lực và thiếu sự xác định lợi ích
thực tế của các bên liên quan trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Vì vậy
2
dẫn đến tình trạng thiếu cụ thể, thiếu tính khoa học trong quy trình hoạch định
và triển khai chính sách; có nhiều chính sách, nhưng hiệu quả kinh tế, hiệu
ứng xã hội của các chính sách không tương xứng với nguồn lực đầu tư, hoặc
thiếu bền vững.
Góp phần khắc phục một cách cơ bản tình trạng trên, đưa Nghị quyết của

Đảng về nông nghiệp, nông thôn đi vào cuộc sống, đẩy nhanh tốc độ CNH-
HĐH nông nghiệp nông thôn, việc cần làm trong giai đoạn hiện nay là xây
dựng cho được các mô hình nông thôn mới đủ đáp ứng yêu cầu phát huy nội
lực của nông dân, nông nghiệp và nông thôn, đủ điều kiện hội nhập nền kinh
tế thế giới.
Để thực hiện các mục tiêu trên, cần có nhiều chính sách phát triển nông
nghiệp nông thôn mang tính đồng bộ, nhưng trong đó chính sách có ý nghĩa
quyết định là chính sách xây dựng mô hình nông thôn mới.
Đây là chính sách về một mô hình phát triển của nông nghiệp và nông
thôn, nên vừa mang tính tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực, vừa đi sâu giải
quyết nhiều vấn đề cụ thể, đồng thời phải giải quyết các mối quan hệ với các
chính sách khác, các lĩnh vực khác trong sự tính toán, cân đối mang tính tổng
thể, khắc phục được tình trạng tuỳ tiện, rời rạc, ngẫu hứng hoặc duy ý chí
trong các chính sách nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp nông
thôn ở nước ta nói riêng từ trước đến nay.
Quảng Nam là một tỉnh nghèo, không nhiều thuận lợi về tài nguyên thiên
nhiên và điều kiện khí hậu, lại vừa mới chia tách từ tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng (được 10 năm), cơ sở vật chất kỹ thuật nhìn chung còn thiếu hụt, trình
độ phát triển hiện còn thấp so với bình quân cả nước; cơ sở hạ tầng điện,
đường, trường, trạm và các dịch vụ công cộng thiếu và yếu; số lượng gia đình
chính sách xã hội tương đối đông…Để có bước phát triển nhanh, bền vững,
hiện nay tỉnh đang cố gắng hoạch định và thực thi nhiều chính sách kinh tế xã
hội mang tính bứt phá. Trong nông nghiệp và nông thôn, là một tỉnh nông
nghiệp, các cơ quan hoạch định chính sách đang tìm tòi mô hình phát triển
nông thôn thật sự phù hợp, có khả năng đảm bảo ổn định chính trị, kinh tế xã
3
hội, phát huy được các truyền thống lịch sử văn hoá, thích ứng nhanh với
những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đáp ứng được
yêu cầu CNH, HĐH đất nước và nông nghiệp nông thôn…Mô hình nông thôn
như vậy, thể hiện trong ý tưởng của TƯ Đảng, Chính phủ và Bộ NN & PTNT,

cũng như của Hội Nông dân Việt Nam là Mô hình nông thôn mới.
Xây dựng mô hình nông thôn mới đòi hỏi phải có chính sách cụ thể. Hiện
nay, tuy ý tưởng đã có, Bộ NN & PTNT đã có những chỉ thị, hướng dẫn, các
nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu và đã có một số đề án thí nghiệm nhằm
đưa ra những tiêu chí của mô hình này…Nhưng vẫn chưa có một chính sách
cụ thể. Đối với một địa phương như Quảng Nam, chính sách xây dựng mô
hình nông thôn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong thực hiện các nhiệm
vụ mang tính chiến lược của tỉnh nhà.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề "Hoạch
định chính sách công trong quá trình xây dựng mô hình nông thôn mới
trên địa bàn Quảng Nam" làm luận văn thạc sĩ chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm đổi mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết vấn đề nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều cơ quan lãnh đạo, quản lý, các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học
trên thế giới cũng như ở nước ta.
Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình: “Chính sách nông
nghiệp trong các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà xuất
bản nông nghiệp ấn hành năm 1994. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu lên
những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát triển
thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước Châu
Á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Cuốn sách đã đề cập những vấn đề về
chính sách phát triển vùng, chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất
nông nghiệp, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát sinh trong
quá trình đô thị hoá.
Điều đặc biệt cần lưu ý là công trình này đã xem xét nền nông nghiệp
của các nước đang phát triển trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá
4
gắn liền với thương mại nông sản trên thế giới, đồng thời cũng nêu lên những
mô hình thành công và thất bại trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn

và giải quyết vấn đề nông dân.
Công trình: “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các
nước và Việt Nam” của các tác giả Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott
Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nxb Hà Nội ấn hành
năm 2000. Trong công trình này, các tác giả đã nghiên cứu về vai trò, đặc
điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và những
kết quả bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam. Những
điểm đáng chú ý của công trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết
những vấn đề của chính sách phát triển nông thôn nước ta hiện nay như,
tương lai của các trang trại nhỏ; nông dân với khoa học; hệ tư tưởng của nông
dân ở thế giới thứ ba; các hình thức sở hữu đất đai; những mô hình tiến hoá
nông thôn ở các nước nông nghiệp trồng lúa Đặc biệt lưu ý là những kết quả
nghiên cứu của công trình về làng truyền thống ở Việt Nam; quan hệ làng xóm
- Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Ở trong nước, có hàng loạt công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh
nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn của nước ngoài. Theo hướng này,
một số nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta như PGS,TS. Chu Hữu
Quý; GS,TS. Nguyễn Thế Nhã; GS,TS. Phạm Thị Mỹ Dung, GS. Đoàn Trọng
Truyến, PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc đã có những công trình nghiên cứu
công phu và có giá trị.
Điểm chung nhất của các nghiên cứu này và sau khi phân tích thực tiễn
giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ đạo chính
sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đều cố gắng
gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận dụng cho giải quyết những
vấn đề thực tiễn của Việt Nam.
Tác phẩm: “Gia nhập WTO, Trung Quốc làm gì? được gì?” do TS.
Nguyễn Kim Bảo chủ biên, xuất bản năm 2004. Những phân tích, đánh giá
5
của công trình này về những việc đã làm của Trung Quốc, những kết quả
bước đầu cũng như những vấn đề đặt ra cần được giải quyết về phát triển kinh

tế - xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng, đã cung
cấp những thông tin có giá trị tham khảo cho Việt Nam. Đặc biệt trong công
trình này, tác giả cảnh báo những thách thức, những khó khăn trong phát triển
kinh tế - đặc biệt là phát triển nông nghiệp nông thôn trước và sau khi Trung
Quốc gia nhập WTO.
Tác phẩm: “Vai trò của Nhà nước trong phát triển nông nghiệp của
Thái Lan” của các tác giả GS, TS. Nguyễn Thế Nhã và TS. Hoàng Văn Hoan
do Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 1995. Trong công trình này các tác giả đã
đi sâu phân tích quá trình hoạch định và chỉ đạo thực hiện chính sách nông
nghiệp của Thái Lan từng thời kỳ. Trong đó một số nội dung được các tác giả
đề cập có giá trị tham khảo rất tốt cho Việt Nam như chính sách phát triển các
hợp tác xã nông nghiệp, chính sách xuất khẩu nông sản, chính sách tín dụng
và đặc biệt là những chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của
ngành nông nghiệp.
Những công trình liên quan đến chính sách nông nghiệp, nông thôn và
nông dân ở nước ta có khối lượng rất đồ sộ, cách thức tiếp cận cũng rất đa dạng.
Công trình: “Phát triển nông thôn" do GS. Phạm Xuân Nam (chủ biên)
Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1997, là một công trình nghiên cứu chuyên
sâu về phát triển nông thôn. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá
sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như
dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và
quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xoá đói
giảm nghèo… Trong lúc phân tích những thành tựu, yếu kém và thách thức
đặt ra trong phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta, các tác giả đã chỉ ra
yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ đạo của Nhà nước
trong quá trình vận động của nông thôn.
6
Về mô hình nông nghiệp, nông thôn trong lịch sử dân tộc là vấn đề rất
được nhiều nhà khoa học quan tâm. Đây cũng là vấn đề không thể thiếu vắng
khi xác định mô hình nông thôn mới hiện nay.

Công trình: “Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong
lịch sử” do GS. Phan Đại Doãn và PGS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên,
Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1994, là công trình nghiên cứu những
vấn đề lịch sử trong phát triển nông thôn nước ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm
của Nhà nước trong các thời kỳ về quản lý làng xã và xây dựng thiết chế
chính trị - xã hội nông thôn nước ta, các tác giả đã trình bày khá toàn diện về
quản lý nông thôn nước ta trong lịch sử như vấn đề Nhà nước quản lý nông
thôn trong các thế kỷ XVI - XVIII; nhà Nguyễn đối với vấn đề nông thôn
trong thế kỷ XIX; phát triển nông thôn trong thời kỳ Pháp thuộc (1945 -
1954); cơ cấu quản lý hành chính làng xã Việt Nam từ 1954 - 1975. Công
trình còn đề cập mô hình phát triển làng xã nông thôn Việt Nam ở các vùng
cụ thể ở nước ta nhất là ở Bắc bộ và Nam bộ. Công trình đã cung cấp những
sử liệu rất có gía trị về vai trò của Nhà nước, tính cộng đồng và tính bền vững
của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác động những việc hình
thành thiết chế làng xã và mô hình hoạt động của chúng.
Những nghiên cứu chuyên sâu về chính sách phát triển kinh tế xã hội
nói chung và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng cũng
được các tác giả Việt Nam rất quan tâm. GS. Hồ Văn Thông; PGS, TS. Phạm
Chi Mai; PGS,TS. Ngô Đức Cát v.v đã trình bày những công trình có tính lý
thuyết về hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội.
Công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi
mới” của PGS,TS. Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê, năm 2003. Đây là công
trình nghiên cứu dài hơi rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có
tính thuyết phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm,
công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp, nông thôn
nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu nhỏ. Công trình đã
luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách nông nghiệp, nông thôn
7
nước ta trong những năm đổi mới, những thành tựu và những vấn đề đặt ra
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở

về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta
như vấn đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, vấn đề nâng cao khả năng
cạnh tranh, xuất khẩu nông sản đã được tác giả lý giải với nhiều luận cứ có
tính thuyết phục.
Công trình nghiên cứu của PGS, TS. Nguyễn Văn Bích và TS. Chu Tiến
Quang do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1996 với tiêu đề: “Chính sách
kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” đã
luận giải nhiều nội dung liên quan đến chủ đề nghiên cứu như khái niệm về
chính sách, các nội dung của chính sách kinh tế và quá trình thay đổi chính sách
nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đổi mới và những tác động của chúng.
Công trình nghiên cứu: “Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị
quyết X của Bộ Chính trị” do PGS,TSKH Lê Đình Thắng chủ biên do Nxb
Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1998 đã đề cập nhiều nội dung quan trọng
liên quan đến chủ đề nghiên cứu như phân tích quá trình phát triển nông
nghiệp của Việt Nam dưới sự tác động của hệ thống chính sách, đi sâu phân
tích một số chính sách cụ thể như chính sách đất đai, chính sách phân phối
trong phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta.
Về những mô hình hợp tác xã nông nghiệp nước ta, được coi là một mô
hình phát triển nông nghiệp nông thôn trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa
xã hội kiểu Xô viết, cũng được một tập thể các nhà khoa học Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh nghiên cứu khá sâu sắc trong Đề tài tổng kết thực
tiễn "Mô hình hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta" (2003) do GS,TS Lưu Văn Sùng làm chủ nhiệm
Đặc biệt công trình nghiên cứu do PGS. TS. Vũ Trọng Khải chủ trì
được Nxb nông nghiệp ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu công
phu về mô hình phát triển của nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu
này được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước do tác giả làm chủ nhiệm
với tiêu đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế- xã hội nông
thôn mới, kết hợp truyền thống làng xã với văn minh thời đại”.
8

Việc hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp Việt Nam cũng đã bước
đầu được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Một số tác giả như GS,TS
Bùi Xuân Lưu; GS,TS Nguyễn Điền, TS. Nguyễn Từ; Th.s Nguyễn Thu Hằng
Công trình nghiên cứu: “Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” do GS,TS Bùi Xuân Lưu, Nxb Thống kê
ấn hành năm 2004. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những đặc
trưng của hội nhập kinh tế quốc tế trong nông nghiệp; phân tích khái quát
những thành tựu cũng như hạn chế của nông nghiệp nước ta trong hội nhập
kinh tế quốc tế; đồng thời khuyến nghị về sửa đổi các chính sách và hoàn thiện
vai trò của Nhà nước để nông nghiệp, nông thôn nước ta hội nhập thành công.
Công trình nghiên cứu: “Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế
cho ngành nông nghiệp” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tổ
chức Ausaid nghiên cứu đã đi sâu phân tích những quy định của WTO về
thương mại nông sản. Qua đó dự báo khả năng tương thích của hệ thống
chính sách nông nghiệp Việt Nam so với những quy định của WTO, khuyến
nghị những sửa đổi về chính sách để phát triển nông nghiệp Việt Nam khi trở
thành thành viên WTO.
Công trình nghiên cứu: “Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó
đến phát triển nông nghiệp Việt Nam” là một dự án nghiên cứu tập thể do TS.
Nguyễn Từ phụ trách. Trong công trình này, các tác giả đã tập trung phân tích
các liên kết kinh tế quốc tế về thương mại và đầu tư trong nông nghiệp; đánh
giá chính sách phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp
Việt Nam; đồng thời khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để phát triển nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc
biệt các tác giả đã tập trung phân tích những quy định của WTO về chính sách
nông nghiệp của các nước đang phát triển và nêu những hướng bổ sung, sửa
đổi chính sách nông nghiệp của Việt Nam để hội nhập thành công.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn không thể tách rời các nhân tố phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường Rất nhiều tác giả quan
tâm đến khía cạnh này của vấn đề. GS,TS Hoàng Chí Bảo về "hệ thống chính

9
trị ở cơ sở nông thôn" (Nxb CTQG. H. 2004); "Các đoàn thể nhân dân trong
đảm bảo dân chủ cơ sở" của PGS, TSKH Phan Xuân Sơn (Nxb. CTQG. H.
2002), TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông về "Thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (Nxb.
CTQG. H. 2003). PGS,TSKH Phan Xuân Sơn và Th.S Lưu Văn Quảng đã
trực tiếp bàn về chính sách, hơn nữa lại là chính sách liên quan đến nông
nghiệp nông thôn và chính sách dân tộc trong cuốn "Những vấn đề cơ bản về
chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay" (Nxb LLCT. H. 2005)…
Những công trình đó đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ
liệu rất quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn và giải quyết vấn đề nông dân trong thời kỳ mới ở nước ta. Tuy nhiên, các
công trình ấy không đi sâu nghiên cứu quá trình hoạch định chính sách công về
nông nghiệp, nông thôn nói chung và mô hình nông thôn mới của một tỉnh
(Quảng Nam) của Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu đã nêu cũng là cơ sở lý
luận và thực tiễn quan trọng mà tác giả tiếp thu và sử dụng trong quá trình hoàn
thành luận văn này và trong những công trình nghiên cứu của mình về sau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Thông qua nghiên cứu, đánh giá quá trình hoạch định chính sách công
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
nói chung, và Quảng nam nói riêng, luận văn nghiên cứu quá trình hoạch định
chính sách công trong xây dựng nông thôn mới ở Quảng Nam, đề xuất các
khuyến nghị mang tính giải pháp làm cơ sở để các cơ quan, ban, ngành thực
hiện tốt hơn các chu trình hoạch định chính sách công trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn ở địa phương, xây dựng thành công nông thôn mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách công và việc hoạch định chính
sách công.
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển của chính sách công trong

phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, xây dựng mô hình nông thôn
mới nói riêng của Đảng và Nhà nước ta từ sau đổi mới đến nay;
10
- Phân tích quá trình hoạch định chính sách xây dựng mô hình nông
thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những kiến nghị mang tính giải pháp
nhằm thực hiện một cách khoa học các chu trình hoạch định chính sách công
trong xây dựng mô hình nôn thôn mới, góp phần đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Cỏc chớnh sỏch và chu trỡnh hoạch định chính sách công trong phát
triển nông nghiêp, nông thôn nói chung và mô hỡnh nụng thụn mới núi riờng.
4.1. Phạm vi nghiờn cứu
- Chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn của Đảng và Nhà nước
ta từ khi đổi mới; chính sách của địa phương từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam
năm 1997 đến nay.
- Nghiên cứu việc hoạch định chính sách công theo quy định phân cấp
của chính quyền cấp tỉnh ở tỉnh Quảng Nam trong lĩnh vực phỏt triển nụng
nghiệp, nụng thôn hướng đến xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Lý luận: Chủ nghĩa Mỏc - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng, các khung khổ lý thuyết về chớnh sỏch cụng.
Thực tiễn: Quỏ trỡnh hoạch định chính sỏch phỏt triển nụng nghiệp,
nụng thụn, xõy dựng mụ hỡnh nụng thụn mới ở nước ta và tỉnh Quảng Nam.
Đề tài sử dụng các phương pháp cụ thể: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử,
thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xó hội học, so sỏnh, dự bỏo, khảo sỏt văn
bản.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Trên phạm vi tỉnh Quảng Nam luận văn là công trỡnh đầu tiên được

nghiên cứu ở quy mô và phạm vi một luận văn thạc sĩ chính trị học.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và
học tập trong lĩnh vực chính sách công. Các khuyến nghị và dự báo có thể
11
dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lónh đạo, quản lý, hoạch định
chính sách ở trung ương và địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 8 tiết.
12
Chương 1
NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH
CễNG VỀ Mễ HèNH NễNG THễN MỚI
1.1. CÁC KHUNG KHỔ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG
1.1.1. Quan niệm về chớnh sỏch cụng
Có nhiều định nghĩa khác nhau về “chính sách công”. Nhà kinh tế học
Anh (Frank Ellis) cho rằng: Không có một định nghĩa duy nhất về thuật ngữ
“chính sách công” phù hợp với tất cả mọi người. Cách hiểu thông thuờng
được nói đến nhiều nhất: Chính sách (Politique) là các chủ trương và các biện
pháp của một đảng phỏi hoặc chớnh phủ trong cỏc lĩnh vực chớnh trị - kinh tế
- xó hội; là sỏch lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định.
Tuy vậy, có rất nhiều cách cắt nghĩa. Frank Ellis cho rằng chính sách là
“nghệ thuật của Chính phủ” tạo ra các điều chỉnh và sự can thiệp cần thiết.
Chớnh sỏch cụng ngụ ý sự can thiệp của Nhà nước vào xó hội. Từ đó ông nêu
ra định nghĩa: “Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà
Chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu
mà Chính phủ tỡm kiếm và sự lựa chọn cỏc phương pháp để theo đuổi mục
tiêu đó” [10, tr.121].
E. Anlerson cho rằng chính quyền là cơ quan thực hiện sự uỷ quyền của
dân, thực hiện ý chớ của mọi người. Vỡ thế nú là một thể chế cụng cộng điển

hỡnh nhất, hoạt động của nó là hoạt động công cộng vỡ lợi ích công cộng.
Chính quyền có khả năng huy động nguồn lực của toàn xó hội và tác động
đến các bộ phận của xó hội với những mục đích nhất định. Những tác động
này được gọi là chính sách. E. Anlerson cho rằng hoạt động của chính quyền
là chính sách công. Từ đây, ông định nghĩa: "Chính sách công là những hoạt
động mà chính quyền chọn làm và không làm" [10, tr.122].
Nhiều quan điểm cho rằng chính sách công là một chuỗi các hoạt động
nhằm trong một hệ thống với một trật tự xác định. Hệ thống này có mục tiêu
dài hạn hay ngắn hạn, được xây dựng trên cơ sở pháp lý và loại trừ cỏc yếu tố
13
ngẫu nhiờn. Như vậy chính sách công là hệ thống hoạt động có tính toán và
mục tiêu của chính quyền tác động đến cuộc sống của người dân.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính, “Chính sách công
(Politique publique) là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt
những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tõm của Nhà nước. Chính
sách công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trũ của người cha đối với cuộc
sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gỡn hạnh phỳc và an toàn cho mọi
người; tạo ra an toàn tài chớnh và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [49, tr.47].
Cỏc tỏc giả tập bài giảng chớnh trị học của Viện Khoa học chớnh trị cho
rằng “chớnh sỏch là tập hợp những văn bản theo một hướng xác định được
quyết định bởi những chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trỡnh hành động
của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể -
đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giỏ trị”
[18, tr.125]. Cỏc tỏc giả của tập bài giảng cũn cho rằng khái niệm chính sách
công xuất phát từ các vấn đề của thực tiễn như: Sử dụng các nguồn lực đúng
và hiệu quả. Chính sách chứa đựng hai mặt của vấn đề kỹ thuật và hệ giá trị.
Cỏch hiểu ngắn gọn cô đúc song tất yếu: Chính sách công là Chương
trỡnh hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể. Hay chớnh
sỏch cụng cũn được hiểu là chuỗi các văn bản, được quyết định bởi chủ thể nắm
quyền lực nhà nước, nhằm quy định mục đích và cách thức, hành động của

những đối tượng liên quan, để giải quyết những vấn đề mà xó hội quan tõm.
Qua các cách hiểu như trên về chính sách công, có thể khái quát rằng:
Chớnh sỏch cụng là một hệ thống bao gồm tổng thể những tác động cú ý thức
(tự giỏc, khụng phải là ngẫu nhiờn) của Nhà nước đến đời sống nhân dân, nhằm
đạt được cỏc mục tiêu Nhà nước đó đặt ra trong quá trỡnh quản lý xó hội.
Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất
của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xó hội Muốn định ra
chính sách đúng phải căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tiễn trong từng lĩnh vực,
từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định
trong đường lối nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và
điều kiện cụ thể.
14
Đối với Việt Nam, chính sách là các quan điểm, cách thức, biện pháp của
Nhà nước nhằm cụ thể hoá đường lối của Đảng tác động đến các lĩnh vực trong
đời sống xó hội nhằm đạt được mục tiêu trong mỗi thời kỳ khác nhau. Nhiều
trường hợp chủ trương đường lối, nghị quyết của Đảng cũng được coi là chính
sách. Như vậy, chính sách công bao hàm các vấn đề rất cơ bản như sau:
Thứ nhất, chính sách công là các “chương trỡnh” bao gồm cỏc mục tiờu và
biện phỏp liờn quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, được luận giải khoa học. Điều
đó giúp phân biệt chính sách với các quyết định nhất thời mang tính chất tỡnh thế.
Thứ hai, “Tính định hướng đích, cụ thể” của chính sách công phân biệt
được rừ giữa định hướng, chính sách và biện pháp theo mức độ cụ thể hoá.
Thứ ba, “Tớnh hợp pháp” của chủ thể ra chính sách (Nhà nước) từ đó
khẳng định khả năng cưỡng chế của bộ máy quyền lực. Nó là tiêu chí chính
thể hiện sự khác biệt giữa chính sách công với các chính sách của các tổ chức
trong khu vực tư nhân hay của các đảng, đoàn thể xó hội vốn là những chủ thể
không nắm quyền lực công cộng mặc dù có ảnh hưởng nhất định đến quyền
lực đó.
Thứ tư, " tớnh hệ thống", " tớnh lịch sử",cỏc chớnh sỏch luụn luụn phụ
thuộc nhiều,chớnh sỏch liờn quan, chế tài bởi các văn bản quy phạm pháp

luật, các chính sách có thời hiệu trong một thời gian, không gian nhất định.
Thứ năm, chính sách phụ thuộc vào bộ máy, cơ chế, cán bộ nhằm hoạch
định, chỉ đạo thực hiện chính sỏch hiệu quả. Bộ mỏy gọn nhẹ, minh bạch, không
chồng chéo, cơ chế phối hợp rừ ràng, triển khai chính sách thuận lợi hơn.
Thứ sỏu, chính sách phụ thuộc vào tính đúng đắn của chính sách. sự chỉ
đạo vận dụng vào thực tiễn từng địa phương. Nhiều chớnh sỏch do chủ quan,
núng vội hoặc khụng thực tiễn, sẽ khú thực hiện.
1.1.2. Chớnh sỏch cụng ở Trung ương và địa phương
Để nghiên cứu chính sách công, chúng ta có thể phân loại chúng. Có thể
phân loại theo các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội, đối ngoại, an
ninh, quốc phũng…Cũng cú thể phõn loại theo thời gian: Ngắn hạn hoặc dài
hạn; phõn loại theo hiệu quả, phõn loại theo phương pháp triển khai, như
15
chính sách phõn bổ, chính sách điều tiết, chính sách có tính cưỡng chế hay
thuyết phục, phõn loại theo chớnh sỏch toàn thể hoặc chớnh sỏch bộ phận…
Trong phân loại chính sách, tất nhiên tuỳ từng đề tài để sử dụng cách
phân loại nào là chính trong quá trỡnh nghiờn cứu. Khi nghiờn cứu chớnh
sỏch phỏt triển nông nghiệp và nông thôn ở một tỉnh như Quảng Nam mà luận
văn đó lựa chọn, thỡ cỏch phõn loại theo cấp độ của chớnh sỏch (ở trung ương
và ở địa phương) cú ý nghĩa quan trọng, mặc dự chỳng cú sự khỏc biệt rất tương
đối.
Chính sách trung ương là cấp có thẩm quyền ban hành ở trung ương và
cả nước hoặc một vài địa phương cụ thể nào đó. Cũn chớnh sỏch địa phương
là ở tính cụ thể hoá các chủ trương, chớnh sách Trung ương, của chính quyền
địa phương, hoặc là giải quyết những vấn đề của địa phương nhưng khụng
trỏi với chớnh sỏch và phỏp luật của Nhà nước Trung ương.
Chính sách của Trung ương xuất phát từ nhu cầu tổng thể của đất nước,
sử dụng nguồn lực của cả nước, giải quyết mối tương quan lợi ích của mọi
giai cấp, tầng lớp và của tất cả các địa phương. Vỡ vậy, chớnh sỏch của Nhà
nước Trung ương mang tính chi phối, quyết định quỏ trỡnh thực thi quyền lực

Nhà nước ở địa phương.
Vỡ vậy, chớnh sỏch cụng (Nhà nước) của Trung ương mang tính toàn
diện. Bao gồm:
- Cỏc chớnh sỏch về phỏt triển kinh tế, như: Chính sách về sở hữu, phát
triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ,
xây dựng các thể chế thị trường, tạo dựng các khung khổ pháp lý cho hoạt
động kinh tế, các chiến lược phát triển kinh tế…
- Chớnh sỏch phỏt triển văn hoá, như: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy truyền thống văn hoá, khai thác những di
sản văn hoá trong phát triển và hội nhập, tạo dựng những giá trị mới về văn
minh vật chất và tinh thần trong các quan hệ xó hội,…
- Chớnh sỏch chớnh trị - xó hội là những chớnh sỏch nhằm đảm bảo và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào
16
công việc của nhà nước và xó hội; chính sách giáo dục đào tạo, xõy dựng
nguồn lực con người, trong đó đặc biệt là đội ngũ cán bộ lónh đạo, quản lý và
đội ngũ những nhà khoa học, đội ngũ lao động có trỡnh độ công nghệ cao, có
khả năng tạo ra các sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao; cỏc chớnh sỏch xoỏ
đói giảm nghốo, thực hiện cụng bằng xó hội, chớnh sỏch bỡnh đẳng giới,
bỡnh đẳng cùng phát triển đối với các dân tộc thiểu số…
Ngoài ra, cũn nhiều chớnh sỏch liờn quan đến an ninh quốc phũng,
chớnh sỏch tụn giỏo, dõn tộc, đối ngoại, chính sách trực tiếp giải quyết những
vấn đề của một địa phương hoặc giải quyết mối quan hệ phân cấp, phân
quyền giữa Trung ương và địa phương.
Tuy vậy, chính sách của Trung ương không thể bao quát hết các vấn đề
cụ thể, độc đáo của từng địa phương. Chính quyền từng địa phương cần cụ thể
hoá các chính sách của Trung ương phù hợp với đặc điểm, nguồn lực và
phương thức thực hiện của địa phương mỡnh. Ngoài ra, mỗi địa phương cũn
cú nhu cầu riêng không phản ánh trong chính sách của Trung ương. Nếu
không có chính sách địa phương thỡ khụng thực hiện được chính sách của

Trung ương và không thể giải quyết đầy đủ những vấn đề của từng địa
phương. Vỡ vậy, chớnh sỏch cụng của bất kỳ nước nào cũng là tổng thể cỏc
chớnh sỏch của Nhà nước Trung ương và chính quyền địa phương.
Nước ta là một nước nông nghiệp đang trong quá trỡnh đẩy mạnh CNH,
HĐH, chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn có vị trí quan trọng
hàng đầu. Chính sách nông nghiệp và nông thôn của Trung ương trực tiếp liên
quan đến hầu hết các địa phương. Hơn bất kỳ một chớnh sỏch nào, việc thực
hiện chớnh sỏch nụng nghiệp và nụng thụn phụ thuộc nhiều vào quỏ trỡnh
triển khai, thực hiện ở cỏc địa phương và cơ sở, chúng đũi hỏi phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa chớnh sỏch Trung ương và chính sách địa phương.
1.1.3. Chu trỡnh chớnh sỏch cụng
Khỏi niệm
Chu trỡnh hoạch định chính sách (quy trỡnh, trỡnh tự ) là tất cả cụng
việc từ đầu đến cuối của một chính sách, kể từ khi nảy ra ý tưởng tới việc
17
định hỡnh, kiểm nghiệm, sửa đổi hoặc huỷ bỏ nó. Hoạch định chính sách
công diễn ra theo một lôgic, có trật tự và đặc biệt có tính kế thừa rất cao.
Quỏ trỡnh hoạch định và thực hiện chính sách công chính là việc lần
lượt thực hiện các bước sau: Lập nghị trỡnh hành động, lập chính sách hay ra
quyết định, triển khai thực hiện, đánh giá chương trỡnh hay phõn tớch tỏc động
và cuối cùng là những phản hồi dẫn tới việc xem xét lại hay chấm dứt chính sách
công đó. Như vậy, nú là chu trỡnh khộp kớn. Quỏ trỡnh hỡnh thành chớnh sỏch
cụng trờn thực tế là quỏ trỡnh cỏc quần thể lợi ớch đưa ra yờu cầu của mỡnh và
cỏc chủ thể chớnh sỏch căn cứ vào yêu cầu lợi ích của xó hội để điều chỉnh các
mối quan hệ lợi ích phức tạp. Một chu kỳ chính sách công gồm các bước sau:
Bước 1: Xỏc lập nghị trỡnh
Thực chất là xác định vấn đề chính sách, cỏc yếu tố đầu vào của hệ
thống hoạch định chớnh sỏch.
Một chính sách ra đời bao giờ cũng là sản phẩm đầu ra của hệ thống
hoạch định chính sách. Ở tầm vĩ mô, đó là sản phẩm của hệ thống chính trị.

Trong quá trỡnh tạo ra được một "sản phẩm đầu ra" là chính sách, hệ thống
hoạch định phải thực hiện nhiều công đoạn của một chu trỡnh. Trước hết, đó
là xác định vấn đề của chính sách. Vấn đề của chính sách nằm trong các nhu
cầu về chính sách (hay cũn gọi là nhu cầu chớnh trị). Cỏc nhu cầu này xuất
phỏt từ lợi ớch của cỏ nhõn, cỏc nhúm xó hội, cỏc đảng chính trị, thậm chí là
các quốc gia cần được đáp ứng ngay. Trong thời điểm mà những vấn đề nêu
trên trở thành bức xúc, trong xó hội vẫn cũn nhiều vấn đề bức xúc khác nữa,
liên quan đến lợi ích của các nhóm dân cư, các lực lượng chớnh trị, xó hội
khỏc nhau. Vậy làm sao lựa chọn được vấn đề đúng cho một chính sách?
Điều này liên quan đến yếu tố đầu vào thứ hai là thông tin. Ai là người có khả
năng cung cấp những thông tin, diễn giải về vấn đề cho hệ thống hoạch định
chính sách? Có nhiều kờnh thụng tin từ truyền miệng, gây dư luận, kiến nghị
bằng văn bản qua hệ thống chính quyền, truyền thông đại chúng, các nghiên
cứu khoa học, vận động hành lang, gây áp lực và kênh thu thập thông tin
chính thức của hệ thống hoạch định chính sách…Vấn đề đặt ra ở đây là cho
18
dù một vấn đề xó hội thực sự bức xỳc hoặc một sỏng kiến chớnh sỏch rất tốt,
nhưng nếu không có cách nào đưa vào được nghị trỡnh chớnh sỏch thỡ sẽ
khụng thể trở thành chớnh sỏch được. Đây là quá trỡnh thực thi quyền lực
chớnh trị và quyền lực Nhà nước rất phức tạp thông qua hệ thống chính trị và
hệ thống xó hội, mà kết quả phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan của
các lực lượng chính trị - xó hội, của cỏc nhà hoạch định chính sách.
Bước 2: Xõy dựng và ban hành chớnh sỏch
Từ tất cả các thông tin, hệ thống hoạch định phải xác định cho được
vấn đề nào cần đặt lên chương trỡnh nghị sự. Để có kết quả đó, người hoạch
định chính sách cần sử dụng ba công cụ chủ yếu:
- Tầm nhỡn.
- Nguồn lực được sử dụng.
- Lợi ích và thiệt hại tiềm năng của cỏc bờn liờn quan.
Trên cơ sở đó, cơ quan hoạch định chính sách tiến hành các bước:

- Thu thập, phõn tớch thụng tin.
- Phỏt triển các phương án giải quyết vấn đề.
- Xõy dựng liờn minh chớnh trị.
- Đàm phán, thoả hiệp và thụng qua chớnh sỏch.
- Các vấn đề chính trị trong quá trỡnh ra quyết định chính sách.
Bước 3: Triển khai chớnh sỏch
- Nguồn lực cho chớnh sỏch.
- Chủ thể triển khai: trong và ngoài chớnh phủ, đối tượng chịu tác động
của chính sách.
- Diễn giải chính sách: Các vấn đề về cưỡng chế và khuyến khớch việc
thực thi chớnh sỏch
Bước 4: Tổng kết, đỏnh giỏ chớnh sỏch
- Đánh giá quá trỡnh triển khai, hiệu quả triển khai và cỏc tỏc động
thực tế của chính sách
- Đánh giá chính trị; đánh giá kỹ thuật; đỏnh giỏ toàn diện
19
- Chủ thể đánh giá: Phõn tích từ góc độ thông tin và quyền lực chính
trị.
- Phõn tớch chi phí lợi nhuận và những hạn chế của phương pháp này.
Chu trỡnh hoạch định chính sách công nhằm xây dựng mô hỡnh nụng
thụn mới cần tuân theo các bước của chu trỡnh chớnh sỏch mang tớnh lý
thuyết đó được trỡnh bày ở mục 1.1.3. Vấn đề đặt ra ở chỗ: Thứ nhất, mục
đích của các cơ quan hoạch định chính sách (Nhà nước Trung ương và địa
phương) đặt ra mục tiêu là cải thiện rừ rệt tỡnh trạng yếu kộm, thiếu tương
thích với các điều kiện mới của mô hỡnh nông thôn hiện có, nhằm đáp ứng
yêu cầu của một nông thôn văn minh, hiện đại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Thứ hai, xác định cho được những cấu trúc
của mô hỡnh nụng thụn mới trờn cỏc mặt kinh tế, chớnh trị, văn hoá, xó hội,
mụi trường…bằng những tiêu chí định tính và định lượng tương đối cụ thể.
1.1.4. Khỏi niệm mụ hỡnh nụng thụn mới

Khái niệm “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng, xóm, thôn.
Theo các tài liệu nghiên cứu, “làng” là từ nôm, là tiếng nói dân dó, ngụn
ngữ đời sống trong dân gian ăn sâu vào trong tâm lý, ý thức của người
Việt. Nó gợi ra môi trường kinh tế sản xuất với nghề trồng lúa nước cổ
truyền - không gian sinh tồn; đồng thời là không gian xó hội và cảnh quan
văn hoá xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo thành lối sống, cốt cách và
bản lĩnh của người Việt.
Nhà nghiờn cứu Trần Từ cho rằng “Làng là tế bào sống của xó hội Việt
cổ, là sản phẩm tự nhiờn tiết ra từ quỏ trỡnh định cư và cộng cư của người
Việt trồng trọt”. Cùng nhận xét đó, GS,TS Hoàng Chớ Bảo trong cụng trỡnh
nghiờn cứu về “Hệ thống chớnh trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” cũng
cho rằng làng Việt vốn hỡnh thành một cỏch tự nhiờn, ra đời không qua bàn
tay nhào nặn của chính quyền Trung ương, mang nét đặc trưng riêng; cùng
với sự thay đổi của các triều đại trị vỡ trong lịch sử mà tờn gọi của làng cú
20
khỏc nhau: “làng” cũn gọi là "thụn" hoặc "làng xó", cũng cú khi làng cũng
chớnh là "xó".
Theo PGS,TSKH.Phan Xuân Sơn: Trong lịch sử, đơn vị "xó", cú nơi là
"làng -xó" một đơn vị quần cư- hành chính có từ lâu đời trong kết cấu nụng
thụn Việt Nam [39, tr.43].
Trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội của làng- xó, những đặc điểm
kinh tế, văn hoá, xó hội của nú là những yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định
đến sự nghiệp dân chủ hoá cấp cơ sở nói riờng và sự phỏt triển nụng nghiệp,
nụng thụn núi chung.
Làng - xó là một cộng đồng địa vực, có ranh giới lónh thổ tự nhiờn và
hành chớnh xỏc định. Làng là một đơn vị tự cấp, tự túc về kinh tế. Làng xó
vừa cú ruộng, cú nghề, cú chợ tạo thành một khụng gian khộp kớn thống nhất.
Làng - xó là một cộng đồng tương đối độc lập về phong tục tập quán văn hoá.
Làng- xó cũn là một đơn vị tự trị về chính trị.
Ngày nay, khái niệm “nông thôn” đó mở rộng nội hàm so với “làng”,

“bao gồm cả những thị trấn mà sự tồn tại và phát triển của nó phụ thuộc vào
nông nghiệp, gắn với nông thôn và bảo đảm các dịch vụ cần thiết cho dân cư
ở nông thôn”.
Tuy hiện nay chưa có định nghĩa có tính kinh điển để phân biệt nông
thôn và thành thị nhưng có thể hiểu những đặc trưng cơ bản của nông thụn so
với thành thị ở những tiờu chớ sau:
Thứ nhất, về cơ cấu kinh tế, hoạt động cơ bản - nhất là trong điều kiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ nụng thụn cũn thấp thỡ nụng nghiệp là ngành
kinh tế cơ bản. Hoạt động công nghiệp, dịch vụ vừa hỡnh thành và phát triển
độc lập vừa liên quan chặt chẽ, cùng hướng tới phục vụ cho nông nghiệp và
dân cư nông thôn.
Thứ hai, cơ cấu dân cư, lao động nông nghiệp cũn chiếm đa số.
Thứ ba, thiết chế, quy chế, quy ước, hương ước gắn liền với từng làng,
từng dân tộc, từng vựng kinh tế sinh thỏi.
21
Mụ hỡnh tiờu biểu trong xõy dựng nụng thụn mới hiện nay là nụng thụn
cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá. Do vậy, Hội nghị TW5 (khoá IX) của Đảng đề
ra mục tiêu, nội dung tổng quát và những giải pháp để đẩy nhanh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết khẳng định: CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của CNH, HĐH đất nước.
1.1.5. Vai trũ của làng xó với tư cách là đơn vị cơ bản của mụ hỡnh
nụng thụn trong lịch sử dõn tộc
Do được hỡnh thành một cỏch tự nhiờn và cú tớnh tự trị rất cao, nờn
trong lịch sử “làng”, “thụn” hay “làng xó” đó từng đóng vai trũ rất quan trọng
đối với sự phát triển đất nước, quốc gia. Trong nghỡn năm Bắc thuộc, các thế
lực phong kiến phương Bắc luôn tỡm cỏch nắm lấy và sử dụng làng Việt như
công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và đồng hoá của chúng. Tuy nhiên,
làng Việt cổ truyền trở thành pháo đài, chiến luỹ nhằm đương đầu với mọi âm
mưu xâm lăng, thôn tính, đồng hoá của phong kiến phương Bắc để gỡn giữ các

giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Dân gian Việt Nam cũng thường truyền
tụng câu nguyền: "Đá trôi nhưng làng không trôi", cho thấy sức sống mạnh mẽ
của làng.
Dưới thời phong kiến, làng xó là người quản lý đất công cho nhà vua và
nụng dõn cày ruộng đất công làng xó trở thành tỏ điền của Nhà nước. Những
làng xó tương đối tự trị trước kia trở thành một đơn vị kinh tế phụ thuộc Nhà
nước, vừa cung cấp lương thực phẩm, lao dịch, binh dịch, vừa cung cấp đất
đai để Nhà nước ban cho viên chức của mỡnh. Nếu Nhà nước phong kiến biết
chấp nhận nhu cầu tự trị của làng xó, tổ chức được nó sẽ nắm quyền quản lý
và phỏt huy được sức mạnh. Ngược lại, đẩy làng xó về phớa đối lập với mỡnh
và trong thực tế khụng nắm được quyền quản lý làng xó đó.
Thời thuộc Phỏp, là nơi nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý thức dõn tộc
của nhõn dõn ta, nhiều làng xó đó trở thành những căn cứ chống Pháp, lật
đổ ách thống trị thực dân phong kiến và xác lập chế độ dân chủ cộng hoà,
22
giành lại độc lập chủ quyền và xõy dựng chớnh quyền thực sự của dõn, do
dõn làm chủ.
Trong khỏng chiến chống Mỹ và cụng cuộc xõy dựng chủ nghĩa xó hội,
làng xó, nụng thụn Việt Nam phỏt huy tối đa vai trũ hậu phương, đóng góp
sức người, sức của cho sự nghiệp Cách mạng. Nông thôn từng là pháo đài
chiến luỹ, quân với dân tay súng tay cày cùng đánh giặc; khắp nông thôn
miền Bắc dấy lên phong trào “tất cả vỡ miền Nam ruột thịt”; “thúc khụng
thiếu một cõn, quõn khụng thiếu một người”. Hoà bỡnh lập lại trờn miền Bắc,
phong trào hợp tỏc hoỏ nụng nghiệp với tinh thần “hợp tỏc xó là nhà, xó viờn
là chủ”, hầu như khắp các làng xó của nụng thụn đóng góp sức người, thậm
chí cả xương máu, lôi cuốn toàn bộ tinh thần và nỗ lực của dân tộc cho sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam. “Không có phong trào tập
thể hoá và hợp tỏc xó nụng nghiệp, khụng cú hy sinh to lớn của cả cộng đồng,
trong đó có mấy chục triệu nông dân ở nông thôn chúng ta không thể giành
chiến thắng mà nhờ đó dân tộc ta đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong

chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân vỡ độc lập dõn tộc và chủ nghĩa
xó hội” [3, tr.104]. Đó cũng chính là đóng góp to lớn của nông dân, nụng
nghiệp và nụng thụn miền Bắc thời kỳ tập thể hoỏ và xõy dựng hợp tỏc xó
nụng nghiệp.
Từ đó đến nay, nhiều mô hỡnh sản xuất kinh doanh, xây dựng đời sống
văn hoá ở nông thôn thực sự là điển hỡnh trở thành phỏo đài xó hội chủ nghĩa
trong nụng nghiệp, nụng thụn như: xó Duy Sơn, nông trường Lam Sơn, nông
trường Sông Hậu,… không chỉ đem lại cuộc sống tốt đẹp cho hàng triệu con
người mà cũn đóng góp cho cả nước một số bài học kinh nghiệm, chứng minh
và làm rừ hơn sự đúng đắn trong chủ trương, đường lối của Đảng.
Tóm lại, sau năm 1975 và 20 năm đổi mới, nụng dõn, nụng nghiệp và
nụng thụn Việt Nam đó gúp phần quan trọng vào việc đưa nước ta ra khỏi
tỡnh trạng khủng hoảng kinh tế - xó hội và nõng cao đời sống nhân dân.
Chiến lược phát triển kinh tế - xó hội 2001- 2010 thụng qua tại Đại hội IX và
đến Đại hội X vẫn tiếp tục khẳng định: Nông nghiệp, nông thôn là những vấn
23
đề có tầm chiến lược, là vấn đề trung tâm đảm bảo sự thành công của chiến
lược chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, từ trong lịch sử cũng như hiện tại hội nhập kinh tế quốc tế, chất
lượng, trỡnh độ phát triển nông thôn là cái gốc quyết định sự phát triển bền
vững, hưng vong của một quốc gia có nền nông nghiệp lâu đời như Việt Nam;
mô hỡnh phỏt triển nụng thụn đúng đắn là nhân tố đảm bảo sự thành cụng của
chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội nụng thụn và phỏt triển kinh tế - xó hội
đất nước.
1.1.6. Cỏc tiờu chớ của mụ hỡnh nụng thụn mới
Sự hỡnh dung chung của cỏc nhà nghiờn cứu về mụ hỡnh nông thôn mới
là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những thành tựu
khoa học - kỹ thuật hiện đại, song vẫn giữ được những nét đặc trưng, tính
cách Việt Nam trong cuộc sống văn hoá tinh thần.
Nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu phát

triển; có sự đổi mới về tổ chức và vận hành đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả
các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xó hội, tiến bộ hơn so với mô hỡnh cũ,
chứa đựng các đặc điểm chung có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
Túm lại, mụ hỡnh nụng thụn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc
tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới
đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây
dựng so với mô hỡnh nụng thụn cũ (truyền thống, đó cú) ở tớnh tiờn tiến về
mọi mặt, được hỡnh dung trờn những nột rất cơ bản như sau:
Một là, nụng thụn làng-xó thực sự là một cộng đồng, trong đó quản lý
của Nhà nước khụng can thiệp sõu vào đời sống nông thôn trên tinh thần tôn
trọng tính tự quản của người dân thông qua hương ước, lệ làng (không trái với
phỏp luật của Nhà nuớc). Quản lý nhà nước và tự quản của nông dân được kết
hợp hài hoà; các giá trị truyền thống làng xó được phát huy tối đa, tạo ra bầu
khụng khớ tõm lý xó hội tớch cực, bảo đảm trạng thái cân bằng trong đời
24
sống kinh tế - xó hội ở nụng thụn, giữ vững an ninh trật tự xó hội,… nhằm
hỡnh thành mụi trường cho phát triển kinh tế nông thôn.
Hai là, nụng thụn đáp ứng yêu cầu đô thị hoá để chuẩn bị những điều
kiện vật chất và tinh thần giúp nông dân làm ăn sinh sống và trở nên thịnh
vượng ngay trên mảnh đất mà họ đó gắn bú từ ngàn đời. Trước hết, tạo cho
người dân điều kiện chuyển đổi lối sống và canh tác tự cung tự cấp, thuần
nông (cổ truyền) sang điều kiện sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá cơ cấu kinh tế
nông thôn gắn với công nghiệp, dịch vụ, du lịch; để người nông dân “ly nông
bất ly hương”.
Ba là, nụng thụn khai thỏc hợp lý và nuụi dưỡng các nguồn lực về sinh
thái cho thế hệ ngày nay và mai sau; có mức tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững, có môi trường sinh thái được giữ gỡn, tiềm năng du lịch được khai thác,
khôi phục làng nghề truyền thống, làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Vận dụng
các công nghệ cao về quản lý, sinh học để kinh tế nông nghiệp, nông thôn đạt
hiệu quả. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp phát triển hài hoà, hội nhập địa phương,

khu vực, cả nước và quốc tế.
Bốn là, dân chủ nông thôn mở rộng và đi vào thực chất; các chủ thể
nông thôn (lao động nụng thụn, chủ trang trại, hộ nụng dõn, cỏc tổ chức
phi chớnh phủ, Nhà nước, tư nhân, ) tham gia tích cực trong mọi quá
trỡnh ra quyết định về chính sách phát triển nông thôn; thông tin minh
bạch, thông suốt và hiệu quả giữa các tác nhân có liên quan; phân phối
công bằng. Người nông dân thực sự “được tự do và quyết định trên luống
cày và thửa ruộng của mỡnh”, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh
làm giàu cho mỡnh, cho quờ hương theo đúng chủ trương đường lối của
Đảng và chớnh sỏch, phỏp luật của Nhà nước.
Năm là, nông dân, nông thôn có văn hoá phát triển, trí tuệ được nõng
lờn, sức lao động được giải phúng, nhiệt tỡnh cỏch mạng được phát huy. Đó
chính là sức mạnh nội sinh của làng trong công cuộc xây dựng nông thôn mới
hôm nay. Người dân có cuộc sống ổn định, giàu cú, trỡnh độ văn hoá, khoa
25

×