Mở đầu
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bảo hiểm hàng hãa vËn chun b»ng ®êng biĨn qc tÕ cã vai trò hết
sức quan trọng trong hoạt động ngoại thơng của các quốc gia, đặc biệt là
những nớc mà vận tải biển là phơng thức vận tải chủ yếu trong thơng mại quốc
tế nh ở Việt Nam.
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế chịu sự điều
chỉnh của một hệ thống quy phạm pháp luật hết sức phức tạp. Tính chất quốc
tế của việc vận chuyển hàng hóa bằng đờng biển đòi hỏi một sự tơng thích
nhất định giữa luật bảo hiểm hàng hải của mỗi quốc gia với các chuẩn mực
tiên tiến về bảo hiểm hàng hải quốc tế.
Cũng nh nhiều nớc trên thế giới, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng
đờng biển ở Việt Nam là một nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, do đó nó đợc điều
chỉnh trớc tiên bởi Bộ luật hàng hải Việt Nam. Bộ luật hàng hải Việt Nam đầu
tiên đợc ban hành từ năm 1990, sau hơn 10 năm áp dụng đà nhờng chỗ cho Bộ
luật hàng hải Việt Nam năm 2005. Việc ban hành Bộ luật hàng hải Việt Nam
2005 trong bối cảnh nớc ta đang trong giai đoạn chuẩn bị cho việc gia nhập tổ
chức thơng mại thế giới cã mét ý nghÜa to lín. So víi Bé luËt hàng hải năm
1990, Bộ luật hàng hải năm 2005 có nhiều điểm tiến bộ vợt trội. Tuy nhiên,
bên cạnh những điểm tiến bộ, bản thân Bộ luật này vẫn còn có những hạn chế,
khiếm khuyết. Bên cạnh đó, hiện trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển trong lĩnh vực hàng hải ở nớc ta cũng đặt ra những vấn đề
pháp lý cần phải giải quyết. Từ thực tiễn trên cho thấy, việc nghiên cứu một
cách toàn diện những vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đờng biển quốc tế nhằm tìm ra những giải pháp và kiến nghị hữu
dụng cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này trở nên có ý
nghĩa quan trọng.
1
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả luận văn đà lựa chọn nghiên cứu
đề tài "Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế".
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Những nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện những vấn đề
lý luận về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế trong khía
cạnh pháp lý. Trên cơ sở chỉ ra những khiếm khuyết của pháp luật bảo hiểm
Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển,
những vấn đề pháp lý đặt ra qua hiện trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm
hàng hóa, kết quả nghiên cứu của luận văn là căn cứ cho việc định hớng hoàn
thiện pháp luật bảo hiểm ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Luận văn có mục đích làm rõ những vấn đề căn bản nhất về bảo hiểm và
bảo hiểm hàng hải; đồng thời nhấn mạnh những khía cạnh pháp lý đặc thù của
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế.
Nhiệm vụ:
Đề đạt đợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Chỉ ra những kết quả đạt đợc và những hạn chế, vớng mắc trong thực
tiễn thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc
tế tại Việt Nam và các vấn đề pháp lý đặt ra trong thực tiễn.
- Xây dựng các giải pháp và kiến nghị nhằm hớng tới một sự hoàn
thiện hơn trong các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đờng biển.
4. Phạm vi và đối tợng nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong các vấn đề pháp lý trong
quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vËn chuyÓn b»ng
2
đờng biển quốc tế. Do đó, đối tợng nghiên cứu của luận văn cũng đợc giới hạn
ở các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này, bao gồm Bộ luật
hàng hải Việt Nam, Luật kinh doanh bảo hiểm, các quy tắc về bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển bằng đờng biển hiện hành trong tơng quan so sánh với pháp
luật quốc tế và pháp luật nớc ngoài.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Các phơng pháp đợc sử dụng trong nghiên cứu của luận văn là:
- Phơng pháp duy vật biện chứng, các vấn đề nghiên cứu đợc giải
quyết từ lý luận đến thực tiễn với việc kết hợp ba quan điểm: quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể.
- Phơng pháp tổng hợp, phân tích, đối chiếu và so sánh trong các
nghiên cứu từ thực tiễn đến việc xây dựng giải pháp, kiến nghị.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chơng:
Chơng 1: Những vấn đề chung về bảo hiểm và bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đờng biển quốc tế.
Chơng 2: Những điểm cơ bản của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đờng biển quốc tế.
Chơng 3: Hiện trạng thực thi và một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tÕ.
3
Chơng 1
Những vấn đề chung về bảo hiểm và bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm
ý tởng tìm cách chống đỡ thiên tai, tai họa đà xuất hiện ngay từ thời
kỳ cổ xa của nền văn minh nhân loại. Việc dự trữ thức ăn có đợc từ săn bắn,
hái lợm thời nguyên thủy có thể coi là những hành động có ý thức đầu tiên của
con ngời nhằm bảo vệ mình trớc những rủi ro, bất trắc. Hành động dự trữ thức
ăn của từng cá nhân hoặc tõng nhãm ngêi thêi cỉ xa xt ph¸t tõ nhu cầu sinh
tồn trong những mùa khan hiếm hoặc những ngày tháng ma gió, rét mớt
không đi kiếm ăn đợc. Tuy nhiên, thực tiễn cuốc sống đà dạy cho con ngời ý
thức đợc rằng nguy cơ đe dọa cuộc sống của họ không chỉ là thức ăn khan
hiếm hay thời tiết khắc nghiệt. Cùng với sự phát triển của xà hội, bên cạnh
việc nảy sinh nhiều loại rủi ro mới thì bản thân các rủi ro truyền thống cũng
trở nên đa dạng hơn và có nguy cơ vợt quá khả năng tự chống đỡ của từng cá
nhân, từng gia đình, thậm chí từng tổ chức kinh tế đơn lẻ. Bắt nguồn từ thực tế
phải chống chọi với nhiều loại rủi ro trong cuộc đấu tranh sinh tồn, ý tởng bù
đắp thiệt hại mà một số thành viên trong cộng đồng phải gánh chịu nhờ vào sự
đóng góp từ số đông của các thành viên trong cộng đồng đà gieo mầm cho sự
ra đời và phát triển của hoạt động bảo hiểm ngày nay.
ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ "bảo hiểm" đợc sử dụng chung cho cả
hai loại hình: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Theo Điều 7 Luật
kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế
là một trong các nghiệp vụ thuộc bảo hiểm phi nhân thọ, vì vậy mọi vấn đề lý
luận và thực tiễn đợc đề cập trong đề tài chỉ liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm
phi nh©n thä.
4
Nghiên cứu kho tàng lý luận về bảo hiểm có thể nhận thấy đà có
nhiều tác giả đa ra những khái niệm khác nhau về bảo hiểm.
Theo Dr.David Bland:
Bảo hiểm là một hợp đồng theo đó một bên, (gọi là công ty
bảo hiểm) bằng việc thu một khoản tiền (gọi là phí bảo hiểm), cam
kết thanh toán cho bên kia (gọi là ngời đợc bảo hiểm), một khoản
tiền hoặc hiện vật tơng đơng với khoản tiền đó khi xảy ra một sự cố
đi ngợc lại quyền lợi của ngời đợc bảo hiểm [6, tr. 11].
Theo Từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm do Bảo Việt phát hành
năm 2002: "Bảo hiểm (Insurance) là cơ chế chuyển giao theo hợp đồng gánh
nặng hậu quả của một số rủi ro thuần túy bằng cách chia sẻ rủi ro cho nhiều
ngời cùng gánh chịu" [20].
Luật kinh doanh bảo hiểm nớc Cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam
Điều 3, chơng 1:
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục ®Ých sinh lêi, theo ®ã doanh nghiƯp b¶o hiĨm chÊp
nhËn rủi ro của ngời đợc bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
chấp nhận đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm cho ngời đợc b¶o hiĨm khi x¶y ra sù kiƯn b¶o hiĨm [4].
Sù khác nhau trong các quan niệm về bảo hiểm xuất phát từ việc nhìn
nhận bảo hiểm ở các góc độ khác nhau và cách thức tiếp cận khác nhau. Bảo
hiểm là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp hàm chøa u tè kinh doanh, ph¸p
lý, kü tht nghiƯp vơ đặc trng nên khó có thể tìm đợc một định nghĩa hoàn
hảo thể hiện đợc tất cả các khía cạnh đó.
Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Bảo hiểm là sự cam kết bồi thờng
của ngời bảo hiểm đối với ngời đợc bảo hiểm đợc thực hiện qua hợp ®ång b¶o
hiĨm, theo ®ã ngêi mua b¶o hiĨm chÊp nhËn trả phí bảo hiểm và ngời bảo
hiểm bồi thờng hoặc tr¶ tiỊn b¶o hiĨm khi x¶y ra sù kiƯn b¶o hiÓm.
5
Khái niệm trên đà hàm chứa những điểm cốt lõi nhất về bảo hiểm kinh
doanh, đó là:
- Đặc thù pháp lý cđa viƯc chun giao rđi ro b»ng b¶o hiĨm là thực
hiện qua hợp đồng bảo hiểm.
- Hai chủ thể đặc trng của hợp đồng bảo hiểm là ngời mua bảo hiểm và
ngời bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm);
- Qua b¶o hiĨm, hËu qu¶ cđa rđi ro cã thĨ x¶y ra đợc chuyển giao từ
bên mua bảo hiểm sang bên bảo hiểm theo một cơ chế đặc biệt, bên mua bảo
hiểm trả phí bảo hiểm để đổi lấy "lời hứa" (cam kết) bồi thờng hoặc trả tiền
bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Điều kiện để doanh nghiệp thực hiện cam kết của mình là xảy ra sự
kiện bảo hiểm.
Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc do
pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải
trả tiền bảo hiểm cho ngời thụ hởng hoặc bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm [4,
tr. 10].
1.1.2. Phân loại bảo hiểm
Có thể phân loại hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Phạm vi phần này sẽ đề cập tới hai tiêu thức phân loại bảo hiểm
căn bản, đó là: phân loại bảo hiểm theo đối tợng bảo hiểm và phân loại bảo
hiểm theo trình tự u tiên áp dụng luật đối với hợp đồng bảo hiểm.
1.1.2.1. Phân loại bảo hiểm theo đối tợng bảo hiểm
Theo đối tợng bảo hiểm, toàn bộ hoạt động kinh doanh bảo hiểm đợc
chia thành ba loại: bảo hiểm tài sản; bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm
con ngời. Có thể thấy rõ điều này qua việc phân loại tại khoản 2 Điều 12, Luật
kinh doanh bảo hiểm của níc ta.
6
Bảo hiểm tài sản là thể loại bảo hiểm trong đó đối tợng bảo hiểm của
hợp đồng bảo hiểm là tài sản và các quyền tài sản. Tài sản đợc bảo hiểm bao
gồm nhiều chủng loại với những đặc tính riêng, do đó trong thực tế doanh
nghiệp bảo hiểm phải thiết kế nhiều sản phẩm bảo hiểm tơng thích với từng
loại tài sản.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là loại bảo hiểm trong đó ngời bảo hiểm
nhận trách nhiệm bồi thờng phần trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thờng
của ngời đợc bảo hiểm cho ngời thứ ba theo cách thức và mức độ đà thỏa
thuận. Trách nhiệm bồi thờng của ngời đợc bảo hiểm cho ngời thứ ba là một
dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng và trách nhiệm bồi thờng thiệt hại theo hợp đồng.
Bảo hiểm con ngời là loại bảo hiểm trong đó tính mạng, sức khỏe, khả
năng lao động và tuổi thọ của ngời đợc bảo hiểm là đối tợng bảo hiểm của hợp
đồng bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm con ngời, khi xảy ra sù kiƯn b¶o
hiĨm, doanh nghiƯp b¶o hiĨm tr¶ mét kho¶n tiền bảo hiểm hoặc trợ cấp định
kỳ cho ngời thụ hởng bảo hiểm. Khác với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm trả cho bên mua bảo hiểm
trong các hợp đồng bảo hiểm con ngời thờng không mang tính chất bồi thờng
thiệt hại mà đơn thuần chỉ là việc thực hiện cam kết của doanh nghiệp bảo
hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
Theo cách phân loại trên, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng
biển quốc tế là một trong các loại hình bảo hiểm tài sản.
1.1.2.2. Phân loại bảo hiểm theo nghiƯp vơ b¶o hiĨm
Theo nghiƯp vơ b¶o hiĨm, Lt kinh doanh bảo hiểm Việt Nam chia
hoạt động kinh doanh bảo hiểm thành hai loại bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
phi nhân thọ. Tại Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định bảo hiểm nhân
thọ bao gồm 6 nhóm nghiệp vụ và bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm 12 nhãm
nghiƯp vơ b¶o hiĨm sau:
7
1. Bảo hiểm nhân thọ bao gồm:
a) Bảo hiểm trọn ®êi;
b) B¶o hiĨm sinh kú;
c) B¶o hiĨm tư kú;
d) B¶o hiểm hỗn hợp;
đ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ;
e) Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
2. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm:
a) Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con ngời;
b) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
c) Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đờng bộ, đờng biển, đờng
sông, đờng sắt và đờng không;
d) Bảo hiểm hàng không;
đ) Bảo hiểm xe cơ giới;
e) Bảo hiểm cháy, nổ;
g) Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;
h) Bảo hiểm trách nhiệm chung;
i) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
k) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;
l) Bảo hiểm nông nghiệp;
m) Các loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do Chính
phủ quy định [4, tr. 13-14].
Theo cách phân loại trên, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng
biển nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế nói
riêng là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc bảo hiểm phi nh©n thä.
8
Trong bảo hiểm phi nhân thọ, có những nghiệp vụ bảo hiểm thuộc lĩnh
vực hàng hải (bảo hiểm hàng hải) và có những nghiệp vụ bảo hiểm không
thuộc lĩnh vực hàng hải (bảo hiểm phi hàng hải). So với bảo hiểm phi hàng
hải, bảo hiểm hàng hải có những nét đặc thù về pháp lý riêng. Chính vì vậy, tại
khoản 3 Điều 12, Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định: "3. Hợp đồng bảo
hiểm hàng hải đợc áp dụng theo quy định của Bộ luật hàng hải; đối với những
vấn đề mà Bộ luật hàng hải không quy định thì áp dụng theo quy định của
Luật này" [4, tr. 17].
Bảo hiểm hàng hải vận chuyển bằng đờng biển quốc tế là một trong
các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Do đó, hợp đồng bảo hiểm này đợc điều
chỉnh trớc hết bởi Bộ luật hàng hải.
1.1.3. Khái niệm, các loại bảo hiểm hàng hải
Ngành bảo hiểm thế giới đà có bề dày lịch sử phát triển hàng thế kỷ.
Với hợp đồng bảo hiểm cổ xa nhất còn lu giữ lại đợc cho đến ngày nay là hợp
đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển trên biển Địa Trung Hải phát hành tại hải
cảng Gênes - Italia vào năm 1347, các nhà nghiên cứu lịch sử đều nhận định
rằng sự ra đời bảo hiểm hàng hải mở ra trang đầu tiên cho lịch sử của ngành
bảo hiểm thế giới.
Ban đầu, khái niệm bảo hiểm hàng hải chỉ bao gồm việc bảo hiểm cho
đối tợng bảo hiểm là thân tàu biển và hàng hóa vận chuyển trên tàu biển. Rủi
ro đợc bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên cịng chØ bao
gåm c¸c hiĨm häa cđa biĨn (perils of the sea). Tuy nhiên, sự phát triển của
giao lu thơng mại quốc tế bằng đờng biển đà kéo theo nhiều nhu cầu của giới
thơng gia cần đợc nhà bảo hiểm đáp ứng trong hợp đồng bảo hiểm hàng hải.
Đòi hỏi thực tiễn này đà mở rộng đối tợng và phạm vi của bảo hiểm hàng hải
nh ngày nay.
Trong bảo hiểm hàng hải, ngời bảo hiểm không chỉ nhận bảo hiểm
cho tàu biển mà còn bảo hiểm cho các hoạt động hàng hải. Hoạt động hàng
9
hải là hoạt động có liên quan đến việc sử dụng tàu biển vào các mục đích
kinh tế, nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, và các mục đích khác. Bảo hiểm
hàng hải ra đời trớc tiên và chủ yếu là phục vụ cho đội tàu buôn, đó là các
tàu biển đợc sử dụng vào các mục đích kinh tế nh vận chuyển hàng hóa, hành
khách, thăm dò, khai thác tài nguyên biển, trục vớt, cứu hộ và các mục đích
kinh tế khác.
Bảo hiểm hàng hải bao gồm ba loại bảo hiểm chủ yếu đó là: bảo hiểm
thân tàu biển; bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển và bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển (bảo hiểm P and I).
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển bao gồm cả bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế và bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển giữa các cảng biển Việt Nam (trong phạm vi nội thủy và lÃnh hải Việt
Nam). Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế thực chất là bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển.
1.1.4 Các bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đờng biển quốc tế
Nh đà đề cập, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển quốc tế
thực chất là bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hãa xt nhËp khÈu vËn chun b»ng ®êng biĨn cã
mèi quan hệ mật thiết với hợp đồng mua bán ngoại thơng và hợp đồng vận
chuyển. Vì vậy, ngoài hai chủ thể chủ yếu là doanh nghiệp bảo hiểm và bên
mua bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đờng biển còn liên quan đến nhiều bên khác nh ngời vận chuyển, ngời nhận
ủy thác hàng hãa, ngêi giao nhËn kho vËn, …, trong ®ã chđ yếu và quan trọng
nhất là ngời vận chuyển.
Để tạo cơ sở cho các nghiên cứu ở các chơng sau, trong phần này, đề
tài sẽ đề cập đến khái niệm về các bên liên quan chủ yếu nhất trong hợp đồng
bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển.
10
- Ngời bảo hiểm: Là thuật ngữ dùng để chỉ doanh nghiệp đợc thành
lập tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các
quy định của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm.
Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển biển, ngời bảo hiểm là ngời chấp nhận
yêu cầu bảo hiểm bằng việc giao kết hợp đồng bảo hiểm, cấp cho bên mua bảo
hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm và chịu
trách nhiệm bồi thờng những tổn thất và chi phí phát sinh cho hàng hóa do
những rủi ro đợc bảo hiểm gây ra.
- Ngời tham gia bảo hiểm: Là tổ chức, cá nhân đứng ra giao kết hợp
đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Để có thể
giao kết hợp đồng bảo hiểm, ngời tham gia bảo hiểm không những phải đảm
bảo quy định về năng lực giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm mà còn
phải đảm bảo quy định về quyền lợi có thể đợc bảo hiểm.
Ngời tham gia bảo hiểm trong bảo hiĨm hµng hãa xt nhËp khÈu cã
thĨ lµ ngêi xt khẩu hoặc ngời nhập khẩu tùy theo điều kiện thơng mại áp
dụng. Chẳng hạn, nếu điều kiện thơng mại áp dụng trong hợp đồng mua bán là
điều kiện CIF (cost insurance and freight) hoặc CIP (carriage and insurance
paid to) thì ngời có trách nhiệm tham gia bảo hiểm cho hàng hóa là ngời bán
(ngời xuất khẩu), ngợc lại nếu điều kiện thơng mại áp dụng là FOB (free on
board); CRF (cost and freight) hoặc FAS (free alongside ship); thì hợp đồng
bảo hiểm hàng hóa lại do ngời mua (ngời nhập khẩu) tham gia.
- Ngời đợc bảo hiểm: Theo khoản 7 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm:
"Ngời đợc bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính
mạng đợc bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Ngời đợc bảo hiểm có thể đồng
thời là ngời thụ hởng" [4, tr. 10].
Trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, ngời đợc bảo
hiểm là những tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu lô hàng đợc bảo hiểm và là
ngời đợc nhận tiền bồi thờng cđa ngêi b¶o hiĨm khi cã sù kiƯn b¶o hiĨm xảy
ra. Ngời đợc bảo hiểm thờng là ngời nhập khẩu.
11
Khác với các nghiệp vụ bảo hiểm khác, ngời đợc bảo hiểm không nhất
thiết phải có quyền lợi bảo hiểm khi tiến hành bảo hiểm, tuy nhiên, họ phải có
dự tÝnh hỵp lý vỊ viƯc tiÕp nhËn qun lỵi Êy.
Trêng hợp ngời xuất khẩu là ngời tham gia bảo hiểm, cùng với việc gửi
hàng, họ phải chuyển nhợng quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm cho ngời nhập
khẩu thông qua việc ký hậu vào đơn bảo hiểm gửi cho ngời nhập khẩu.
Tại khoản 3 Điều 226 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 quy định:
3. Ngời đợc bảo hiểm phải có quyền lợi trong đối tợng bảo
hiểm tại thời điểm xảy ra tổn thất và có thể không có quyền lợi
trong đối tợng bảo hiểm tại thời điểm tham gia bảo hiểm. Khi đối tợng bảo hiểm đợc bảo hiểm theo điều kiện có tổn thất hoặc không
có tổn thất thì ngời đợc bảo hiểm vẫn có thể đợc bồi thờng mặc dù
sau khi tổn thất xảy ra mới có quyền lợi bảo hiểm, trừ trờng hợp ngời đợc bảo hiểm biết tổn thất đà xảy ra, còn ngời bảo hiểm không
biết việc đó [2, tr. 163].
- Ngời chuyên chở: Là những tổ chức, cá nhân sử dụng phơng tiện vận
tải là tàu biển, đảm nhận việc vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển theo yêu cầu
của chủ hàng hoặc ngời đợc ủy thác.
Trong vận tải biển, ngời chuyên chở có thể là chủ tàu hoặc ngời thuê tàu.
1.1.5. Đối tợng bảo hiểm
Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản nói chung, bao giờ cũng có một tài sản
hoặc một vật thể dễ bị đe dọa bởi các rủi ro, tài sản hay vật thể đó đợc gọi là đối
tợng bảo hiểm. Nói một cách khác đối tợng bảo hiểm là tài sản và những lợi ích
liên quan tới tài sản bị đe dọa trớc các rủi ro. Chính vì mục đích phục hồi, an toàn
và tái tạo lại đối tợng bảo hiểm mà hợp đồng bảo hiểm đợc giao kết.
Trong bảo hiểm hàng hải, đối tợng bảo hiểm đợc quy định tại Điều 225 Bộ
luật hàng hải Việt Nam, theo ®ã:
12
Đối tợng bảo hiểm hàng hải có thể là bất kỳ quyền lợi vật
chất nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà có thể quy ra tiền,
bao gồm tàu biển, tàu biển đang đóng, hàng hoá, tiền cớc thể vận
chuyển hàng hóa, tiền công vận chuyển hành khách, tiền thuê tàu, tiền
thuê mua tàu, tiền lÃi ớc tính của hàng hóa, các khoản hoa hồng, chi
phí tổn thất chung, trách nhiệm dân sự và các khoản tiền đợc bảo
đảm bằng tàu, hàng hóa hoặc tiền cớc vận chuyển [2, tr. 162].
Nh vậy, đối với một hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đối
tợng bảo hiểm là hàng hóa với đầy đủ các yếu tố cấu thành nên giá trị hàng tại
nơi nhập khẩu bao gồm giá hàng, cớc phí vận chuyển, phí bảo hiểm và có thể
bao gồm cả phần lÃi ớc tính của hàng hóa.
Ban đầu, ngời bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho đối tợng bảo hiểm trên
hành trình đờng biển, tức là chỉ bảo hiểm khi hàng hóa đợc xếp lên tàu biển và
kết thúc khi hàng hóa đợc dỡ ra khỏi tàu. Ngày nay hợp đồng bảo hiểm hàng
hóa vận chuyển bằng đờng biển đợc mở rộng để bảo hiểm cho hàng hóa trên
cả quÃng đờng vận chuyển trên bộ từ kho ngời bán đến cảng bốc hàng và từ
cảng dỡ hàng đến kho ngời mua. Không những thế, bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển còn mở rộng để bảo hiểm cho cả những
hàng hóa vận chuyển đa phơng thức mà vận chuyển bằng đờng biển là một
trong những phơng thức ấy.
Đối tợng bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm hàng hóa phải đợc chỉ
rõ trên đơn bảo hiểm, tính chất và phạm vi quyền lợi của ngời đợc bảo hiểm.
1.1.6 Rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển
quốc tế
Trong bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đờng biển nói riêng, rủi ro là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng có thể gây
ra h hỏng, thiệt hại hoặc hủy hoại đối tợng bảo hiểm.
13
Rủi ro có thể đợc bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm hàng hải trớc
hết là các rủi ro hàng hải. Theo khoản 1 Điều 224 Bộ luật hàng hải Việt Nam:
Rủi ro hàng hải là những rủi ro xảy ra liên quan đến hành
trình đờng biển bao gồm c¸c rđi ro cđa biĨn, ch¸y, nỉ, chiÕn tranh,
cíp biĨn, trộm cắp, kê biên, quản thúc, giam giữ, ném hàng xng
biĨn, trng thu, trng dơng, trng mua, hµnh vi bÊt hợp pháp và các rủi
ro tơng tự hoặc các rủi ro khác đợc thỏa thuận trong hợp đồng bảo
hiểm [2].
Cần lu ý rằng, các rủi ro hàng hải liệt kê trên đây không phải là các rủi
ro mặc nhiên đợc bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Việc hợp
đồng bảo hiểm đảm bảo cho những rủi ro nào tùy thuộc vào thỏa thuận giữa
ngời mua bảo hiểm và ngời bảo hiểm. Thực tế, có nhiều hợp đồng bảo hiểm
hàng hải chỉ nhận bảo hiểm cho một số rủi ro trong những rủi ro có thể đợc
bảo hiểm kể trên.
Hoạt động hàng hải là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro song rủi ro đợc bảo hiểm phải là những thiên tai, tai nạn bất ngờ của biển gây ra h hại hàng
hóa và phơng tiện chuyên chở chứ không phải mọi rủi ro trên biển. Trong các
đơn bảo hiểm hàng hải cổ xa nhất, ngời bảo hiểm chØ nhËn b¶o hiĨm cho 4 rđi
ro, hiĨm häa lín là: chìm đắm; mắc cạn; cháy nổ; đâm va. Sau này, do hoạt
động thơng mại quốc tế ngày càng phát triển, nhu cầu về bảo hiểm của các thơng nhân ngày một cao vì vậy, để thu hút khách hàng các công ty bảo hiểm
ngày càng mở rộng phạm vi bảo hiểm của mình.
Các rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa bằng đờng biển thờng
đợc chia thành 4 loại là: rủi ro thông thờng; rủi ro phụ; rủi ro riêng và rủi ro
loại trừ.
* Rủi ro thông thờng: Là nguồn đe dọa chủ yếu và lớn nhất đối với
các hành trình hàng hải, nó bao gồm hai nhóm rủi ro: nhóm rủi ro chính và
nhóm rủi ro thông thêng kh¸c.
14
- Nhãm rđi ro chÝnh bao gåm c¸c rđi ro sau:
+ Mắc cạn là hiện tợng đáy tàu chạm sát với đáy biển hoặc chớng ngại
vật do một sự cố bất thờng gây ra làm cho tàu không chạy đợc nữa khiến hành
trình của tàu bị gián đoạn hoặc thậm chí bị chấm dứt. Mắc cạn có thể gây ra
những thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho hàng hóa.
+ Đắm tàu là hiện tợng toàn bộ phần nổi của con tàu bị chìm xuống dới nớc do một sự cố bất ngờ xảy ra khi đang hành thủy hoặc neo đậu. Đắm tàu
có thể gây ra tổn thất nghiêm trọng cho tàu, hàng, môi trờng và có thể gây ra
tổn thất lớn về con ngời.
+ Cháy là hiện tợng «xy hãa cã táa nhiƯt cao g©y ra bëi mét sự cố bất
ngờ không kiểm soát đợc xảy ra trên tàu.
+ Đâm va là hiện tợng phơng tiện vận chuyển bị va chạm với một vật
thể cố định hoặc di động.
Đây là những hiểm họa của biển, thờng gây ra những tổn thất lớn cho
chủ hàng và chủ tàu.
- Nhóm rủi ro thông thờng khác bao gồm các rủi ro sau:
+ Tàu mất tích là hiện tợng tàu không đến cảng quy định và chủ tàu
hoàn toàn không nhận đợc tin tức về tàu sau một khoảng thời gian hợp lý. Tàu
mất tích thì số hàng hóa chuyên chở trên tàu đợc coi là tổn thất toàn bộ thực tế.
+ Ném bỏ xuống biển: ám chỉ hành động ném hàng hóa một phần thiết
bị, dự trữ của tàu xuống biển để làm nhẹ tàu hoặc để tránh nguy cơ nguy hiểm
khác nhằm cứ tàu, hàng khi gặp nạn.
+ Nớc cuốn trôi khỏi tàu là hiện tợng hàng hóa bị sóng gạt, bị đứt dây
chằng buộc làm cuốn trôi xuống biển.
+ Dỡ hàng tại cảng lánh nạn: Hàng hóa bị dỡ ở cảng lánh nạn là trờng
hợp hàng hóa bị dỡ bắt buộc tại một cảng dọc đờng trớc khi tới cảng đích do
tàu chở hàng gặp sự cố hoặc nguy cơ đe dọa phải ghé vào ẩn náu.
15
+ Phơng tiện vận chuyển trên bộ bị lật đổ hoặc trật bánh: rủi ro này có
thể xảy ra đối với hàng hóa trên quÃng đờng vận chuyển trên bộ từ kho ngời
bán tới cảng bốc hàng hoặc từ cảng dỡ hàng tới kho của ngời mua.
+ Nớc biển, sông, hồ chảy vào tàu, sà lan, container hoặc nơi chứa
hàng. Đây là hiện tợng nớc biển, sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, sà lan,
container, xe nâng hàng, nơi chứa hàng có mái che hay ngoài trời làm hang
hóa bị h hỏng.
Ngoài những rủi ro trên, nhóm rủi ro thông thờng khác còn bao gồm
các rủi ro sau:
+ Động đất, núi lửa phun, sét đánh.
+ Mất cắp, giao thiếu hàng hoặc không giao hàng.
+ Hành vi phi pháp của thuyền trởng, thủy thủ.
+ Cớp biển.
* Rủi ro phụ: là những rủi ro không phải là rủi ro của biển hay rủi ro
trên biển và đợc bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm A hoặc điều kiện bảo hiểm
mọi rủi ro trong ICC 1963, bao gåm c¸c rđi ro sau:
- Vì, cong, bẹp là hiện tợng hàng hóa bị h hại hoặc biến dạng do các
tác động cơ học trong quá trình vận chuyển và bốc dỡ.
- Rỉ là hiện tợng hàng kim loại bị ôxy hóa hoặc bị ăn mòn hóa học do
độ ẩm cao hoặc nhiễm a xít.
- Hấp hơi là hiện tợng không khí trong hầm hàng có ®é Èm cao ngng
®äng thµnh níc lµm háng hµng.
- Nãng là hiện tợng hàng hóa bị nóng do tính chất riêng của hàng, do
lây từ hàng khác sang, do máy lạnh của tàu bị hỏng hoặc xếp gần buồng máy.
- Lây hại là hiện tợng hàng hóa bị h hỏng do xếp gần hàng có hơng vị
trái ngợc hoặc do ký sinh trùng từ hàng này lây sang hàng kia.
16
- Lây bẩn là hiện tợng hàng hóa bị bẩn do sơn, phẩm màu, dầu mỡ
ngấm qua bao bì.
- Các rủi ro phụ khác: h hại do móc cẩu, chuột bọ côn trùng, nấm mốc,
xây xát, rơi vÃi,
* Rủi ro riêng: là những rủi ro chỉ đợc bảo hiểm khi có thỏa thuận
giữa ngời đợc bảo hiểm và ngời bảo hiểm theo những điều kiện riêng, bao
gồm hai rủi ro sau:
Chiến tranh: rủi ro chiến tranh không chỉ là các hành động thù địch
của các thế lực chính trị tham chiến ở các nớc khác nhau mà còn bao gồm các
biến cố nh: nội chiến, cách mạng, nổi loạn, xung đột dân sự hoặc do bất kỳ
hành động thù địch nào khác của một thế lực tham chiến hay chống lại thế lực
đó. Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển biển, rủi ro chiến tranh chỉ đợc bảo
hiểm khi hàng hóa đang đợc vận chuyển trên tàu biển, rủi ro chiến tranh
không đợc bảo hiểm khi hàng hóa đang trên quÃng đờng vận chuyển bộ hoặc
đang nằm trong kho bÃi.
Đình công: bao gồm các rủi ro đình công, cấm xởng, rối loạn lao
động, phá rối trật tự, hành động khủng bố do bất kỳ ngời đình công, công
nhân bị cấm xởng, bạo động
* Rủi ro loại trừ: Là những rủi ro không đợc bảo hiểm trong bất kỳ trờng hợp nào, rủi ro loại trừ bao gồm mọi h hại, mất mát hoặc chi phí phát sinh
cho hàng hóa đợc bảo hiểm do các nguyên nhân sau:
- Hành vi xấu, cố ý của ngời đợc bảo hiểm.
- Rò chảy thông thờng, hao hụt trọng lợng, giảm thể tích thông thờng
hoặc hao mòn tự nhiên.
- Bao bì đóng gói không thích hợp, đóng gói sai quy cách.
- Chuẩn bị hàng hóa không đầy đủ, xếp hàng hỏng lên tàu.
17
- Chậm trễ hành trình và những hậu quả trực tiếp của việc chậm trễ.
- Phơng tiện vận chuyển không đủ khả năng đi biển, phơng tiện vận
chuyển, container không thích hợp với việc vận chuyển an toàn hàng hóa.
1.1.7. Giá trị bảo hiểm - số tiền bảo hiểm - phí bảo hiểm
- Giá trị bảo hiểm: Luật kinh doanh bảo hiểm không có quy định về
giá trị bảo hiểm, tuy nhiên, có thể tìm thấy định nghĩa về giá trị bảo hiểm
trong Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005. Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
bằng đờng biển nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển
quốc tế nói riêng, "giá trị bảo hiểm của hàng hóa là giá trị hàng hóa ghi trên
hóa đơn ở nơi bốc hàng hoặc giá thị trờng ở nơi và thời điểm bốc hàng cộng
với phí bảo hiểm, tiền cớc vận chuyển và có thể cả tiền lÃi ớc tính". (khoản 2
Điều 232 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005). Nh vậy, theo quy định trên, giá trị
bảo hiểm của hàng hóa đợc xác định trên cơ sở giá trị hàng hóa tại cảng đến
cuối cùng trong hành trình vận chuyển hàng hóa.
- Số tiền bảo hiểm: Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: "Số tiền
bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản đó"
(Điều 41, Luật kinh doanh bảo hiểm).
Quy định tơng đơng có thể tìm thấy tại điều 233 Bộ luật hàng hải Việt
Nam 2005, theo đó: "1. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, ngời đợc bảo hiểm
phải kê khai số tiền cần bảo hiểm cho đối tợng bảo hiểm (sau đây gọi là số
tiền bảo hiểm)" [2, tr. 169].
Cả hai khái niệm nêu trên đều tơng đồng về ngữ nghĩa bởi lẽ đều
khẳng định số tiền bảo hiểm là khoản tiền mà ngời mua bảo hiểm kê khai theo
nhu cầu bảo hiểm cho đối tợng bảo hiểm của họ. Tuy nhiên, trong thực tế
không phải mọi nhu cầu về số tiền cần bảo hiểm của bên mua bảo hiểm đều đợc ngời bảo hiểm chấp nhận. Chẳng hạn trong bảo hiểm mất cắp xe ô tô, ngời
mua bảo hiĨm mn b¶o hiĨm víi sè tiỊn b¶o hiĨm b»ng giá trị của xe song
18
ngêi b¶o hiĨm chØ nhËn b¶o hiĨm víi mét sè tiền bảo hiểm thấp hơn giá trị xe
nhằm gắn trách nhiệm của ngời đợc bảo hiểm trong việc bảo quản xe của
mình.
Về nguyên tắc ngời bảo hiểm chỉ chấp nhận một bản hợp đồng bảo
hiểm có số tiền bảo hiểm tối đa bằng giá trị bảo hiểm, nhằm tránh các hiện tợng gian lận, trục lợi trong quan hệ bảo hiểm.
Với bản hợp đồng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm bằng giá trị hàng hóa
đợc gọi là bảo hiểm đúng giá trị (full Insurance). Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác
nhau nh: do nguyện vọng của ngời mua bảo hiểm chỉ muốn đảm bảo một phần
giá trị hàng hóa; do giá cả hàng hóa biến động trong thời hạn bảo hiểm hoặc do
việc định giá hàng hóa không chính xác, có thể dẫn đến các trờng hợp:
+ Số tiền bảo hiểm của hợp đồng thấp hơn giá trị hàng hóa đợc bảo
hiểm. Trờng hợp này, gọi là bảo hiểm dới giá trị (Under Insurance) và ngời đợc bảo hiểm sẽ tự chịu lấy số tiền tổn thất ở phần giá trị không đợc bảo hiểm.
+ Số tiền bảo hiểm vợt quá giá trị hàng hóa đợc bảo hiểm. Trờng hợp
này, gọi là bảo hiểm trên giá trị (Over Insurance). Trong bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu ngời bảo hiểm có thể chấp nhận số tiền bảo hiểm của hợp
đồng lớn hơn giá trị bảo hiểm, tuy nhiên, số tiền bảo hiểm vợt trội đó chỉ đợc
chấp nhận khi coi nó là số lÃi có thể của công việc buôn bán (lÃi ớc tính) và nó
không lớn hơn 10% trị giá hàng hóa đợc bảo hiểm, số vợt trội nữa sẽ không có
hiệu lực.
- Phí bảo hiểm: "Là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho
doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phơng thức do các bên thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm" (khoản 11 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm).
Trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đờng biển
phí bảo hiểm đợc xác định bằng tích số giữa tỷ lệ phí và sè tiỊn b¶o hiĨm cđa
19
hợp đồng. Thực tế, tùy thuộc vào thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, phí bảo
hiểm có thể đóng bằng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ.
1.1.8. Tổn thất, giám định và bồi thờng
1.1.8.1. Tổn thất và các chi phí
Không có định nghĩa về tổn thất cũng nh các chi phí trong Bộ luật
hàng hải, Bộ luật dân sự hay Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển biển, tổn thất là thuật ngữ dùng
để chỉ tình trạng mất mát, h hại hay giảm giá trị, giá trị sử dụng của hàng hóa đợc bảo hiểm do sự tác động của rđi ro. Tỉn thÊt vµ rđi ro cã mèi quan hệ chặt chẽ
trong đó rủi ro là nguyên nhân, tổn thất là hậu quả. Chi phí là các khoản tiền mà
ngời đợc bảo hiểm đà chi ra hoặc phải đóng góp liên quan đến việc đề phòng
hạn chế tổn thất cho hàng hóa, bốc dỡ lu kho tại cảng lánh nạn, khiếu nại ngời
thứ ba, cứu hộ, giám định tổn thất. Ngời bảo hiểm chỉ bồi thờng những tổn
thất và chi phí phát sinh do rủi ro đợc bảo hiểm gây ra.
Nếu căn cứ vào quy mô và mức độ tổn thất, tổn thất đợc chia thành tổn
thất toàn bộ và tổn thất bộ phận. Nếu căn cứ vào tính chất liên quan và trách
nhiệm của các bên đối với tổn thất, tổn thất đợc chia thành tổn thất chung và
tổn thất riêng.
Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 chỉ định nghĩa về tổn thất toàn bộ mà
không có định nghĩa về các loại tổn thất khác. Tại Điều 254 Bộ luật này, tổn
thất toàn bộ trong bảo hiểm hàng hải đợc chia thành tổn thất toàn bộ ớc tính
và tổn thất toàn bộ thực tế, theo đó:
1. Tổn thất toµn bé íc tÝnh lµ tỉn thÊt do tµu biĨn, hàng hóa
bị h hỏng mà xét thấy không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ hoặc chi
phí sửa chữa, phục hồi vợt quá giá trị của tàu biển sau khi sửa chữa
hoặc vợt quá giá thị trờng của hàng hóa đó tại cảng trả hàng; trong
20
trờng hợp này, ngời đợc bảo hiểm phải gửi tuyên bố từ bỏ đối tợng
bảo hiểm đến ngời bảo hiểm trớc khi yêu cầu trả tiền bảo hiểm.
2. Tổn thất toµn bé thùc tÕ lµ tỉn thÊt, do tµu biĨn, hàng hóa
bị phá hủy, h hỏng toàn bộ mà không phục hồi đợc hoặc tàu biển
mất tích cùng hàng hóa; trong trờng hợp này, ngời đợc bảo hiểm có
thể đòi ngời bảo hiểm bồi thờng toàn bộ số tiền bảo hiểm mà không
phải tuyên bố từ bỏ đối tợng bảo hiểm [2, tr. 181].
Thực tế, trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đờng biển các loại
tổn thất trên đợc hiĨu nh sau:
- Tỉn thÊt toµn bé: Lµ sù mÊt mát, h hỏng hoàn toàn hàng hóa đợc bảo
hiểm. Tổn thất toàn bộ đối với hàng hóa cũng đợc chia thành hai loại: tổn thất
toàn bộ thực tế và tổn thÊt toµn bé íc tÝnh.
+ Tỉn thÊt toµn bé thùc tế là tổn thất trên thực tế hàng đà bị mất toàn
bộ giá trị và giá trị sử dụng nh: hàng bị phá hủy, hủy hoại hoàn toàn do cháy,
nổ, thối rữa; hàng không còn khả năng lấy lại đợc do bị chiếm giữ, tớc đoạt,
tịch thu; hàng chở trên tàu bị đắm không có khả năng trục vớt; hàng bị mất
hoàn toàn giá trị sử dụng nh xi măng ớt nớc bị đông cứng, gạo bị mốc đen, đờng bị chảy nớc; hàng chở trên tàu bị mất tích.
+ Tổn thất toàn bộ ớc tính: Là dạng tổn thất không thể tránh khỏi tổn
thất toàn bộ thực tế hoặc nếu bỏ ra chi phí để cứu hàng, sửa chữa, tu bổ lại và chở
về cảng đích thì những chi phí này vợt quá giá trị hàng hóa tại đó. Muốn đợc bồi
thờng theo tổn thất toàn bộ ớc tính thì ngời đợc bảo hiểm phải thông báo cho ngời bảo hiểm bằng văn bản ý định từ bỏ hàng và chuyển mọi quyền lợi đối với
hàng hóa đợc bảo hiểm cho ngời bảo hiểm (thông báo từ bỏ hàng hóa), đồng thời
yêu cầu ngời bảo hiểm bồi thờng toàn bộ số tiền bảo hiểm.
Các quy định về từ bỏ hàng hóa để đòi bồi thờng tổn thất toàn bộ ớc
tính có thể tìm thấy tại mục 7 chơng XVI Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005, từ
điều 250 đến ®iÒu 255.
21
Quyền từ bỏ hàng hóa của ngời đợc bảo hiểm đợc thừa nhận khi xét
thấy đối tợng bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ là không thể tránh khỏi hoặc chi phí
sửa chữa, vận chuyển hàng hóa đến cảng trả hàng là cao hơn so với giá thị trờng của hàng hóa đó tại cảng trả hàng (Điều 250 Bộ luật hàng hải Việt Nam
2005).
Cách thức và thời hạn thực hiện quyền từ bỏ hàng hóa đợc quy định tại
Điều 251 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005, theo đó thông báo từ bỏ phải đợc
làm bằng văn bản, gửi cho ngời bảo hiểm trong thời hạn hợp lý nhng không
quá 180 ngày kể từ ngày ngời đợc bảo hiểm biết về các sự kiện làm căn cứ để
áp dụng quyền từ bỏ hoặc trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn
bảo hiểm trong trờng hợp hàng hóa bị cỡng đoạt hoặc bị mất quyền chiếm hữu
vì những nguyên nhân khác, sau thời hạn này ngời đợc bảo hiểm bị mất quyền
từ bỏ nhng vẫn có quyền đòi bồi thờng tổn thất.
Ngời bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho ngời đợc bảo hiểm về
việc chấp nhận hoặc từ chối thông báo từ bỏ hàng trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận đợc thông báo từ bỏ hàng hóa của ngời đợc bảo hiểm, quá thời hạn
này, ngời bảo hiểm mất quyền từ chối (Điều 253 Bộ luật hàng hải Việt Nam
năm 2005).
Nếu thông báo từ bỏ hàng hóa đợc ngời bảo hiểm chấp nhận, ngời bảo
hiểm phải bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm theo tổn thất toàn bộ ớc tính và đợc tiếp nhận mọi quyền và nghĩa vụ liên quan đến lô hàng bị ngời đợc bảo
hiểm từ bỏ. Trờng hợp ngời bảo hiểm từ chối thông báo từ bỏ hàng hóa, ngời
đợc bảo hiểm vẫn có quyền đòi bồi thờng tổn thất của hàng hóa theo tổn thất
bộ phận (Điều 253 Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005).
- Tổn thất bộ phận: Là sự mất mát, h hỏng, giảm giá trị một phần
hàng hóa đợc bảo hiểm, bao gồm các dạng sau:
+ H hỏng hoàn toàn một phần hàng hóa;
+ Hàng bị giảm về trọng lợng;
22
+ Hàng bị giảm về số lợng;
+ Hàng bị giảm về thể tích;
+ Hàng bị giảm về giá trị.
- Tổn thất riêng: Là tổn thất chỉ gây thiệt hại cho riêng quyền lợi của
một hoặc một số chủ hàng trên tàu và chỉ liên quan đến quyền lợi của những
chủ hàng, những ngời bảo hiểm cho các chủ hàng đó mà thôi. Tổn thất riêng
có thể là tổn thất bộ phận hoặc tổn thất toàn bộ của chủ hàng riêng biệt. Ngời
bảo hiểm không những bồi thờng giá trị thiệt hại vật chất của tổn thất riêng
mà còn chi trả cả những chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế tổn
thất gọi là chi phí tổn thất riêng. Chi phí tổn thất riêng bao gồm các chi phí
phân loại, đóng gói lại hàng hóa, chi phí thay lại bao bì, chi phí sấy khô hàng
hóa bị ớt
- Tổn thất chung: Tổn thất chung gây ra bởi hoặc do hậu quả của
hành động tổn thất chung, đó là sù hi sinh mét sè Ýt qun lỵi cđa chđ hàng,
chủ tàu nhằm cứu vÃn an toàn cho tất cả các quyền lợi chung trên hành trình
khi có nguy cơ ®e däa. Hµnh ®éng tỉn thÊt chung lµ hµnh ®éng hy sinh tù
ngun, cã chđ ý cđa con ngêi nh»m đem lại an toàn chung cho toàn bộ hành
trình.
Tổn thất chung bao gåm hy sinh tỉn thÊt chung vµ chi phí tổn thất
chung. Hy sinh tổn thất chung là những hy sinh tài sản trong hành động tổn
thất chung bao gåm hy sinh vỊ hµng hãa vµ tµu biĨn (bao gồm cả dự trữ của
tàu). Chi phí tổn thất chung là những chi phí phát sinh do hậu quả của hành
động tổn thất chung (chi phí phát sinh tại cảng lánh nạn, chi phí bốc dỡ lu kho
bắt buộc khi tàu bị mắc cạn, chi phí thuê tàu kéo, ). Nhìn chung, khó có thể
thống kê hết đợc các tình huống và các dạng hy sinh tổn thất chung cũng nh
chi phí tổn thất chung trong thực tiễn.
Khi hành trình có tổn thất chung, chủ tàu sẽ chỉ định một chuyên gia
tính toán phân bổ tổn thất chung để thu về phần đóng góp tổn thất chung của
23
các chủ hàng. Ngời bảo hiểm sẽ bồi thờng cho chủ hàng số tiền phải đóng góp
trong tổn thất chung ấy.
1.1.8.2. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là công việc đợc tiến hành nhằm mục đích xác định
loại tổn thất, bản chất, mức độ, nguyên nhân và thời gian xảy ra tổn thất tổn
thất. Ngời bảo hiểm phải căn cứ vào biên bản giám định để đi đến kết luận tổn
thất có thuộc phạm vi, trách nhiệm bồi thờng của ngời bảo hiểm hay không,
nếu phải bồi thờng thì số tiền bồi thờng là bao nhiêu. Giám định viên tổn thất
có thể là ngời của một tổ chức giám định độc lập hoặc nhân viên của công ty
bảo hiểm đà đợc đào tạo chuyên môn hóa.
1.1.8.3. Bồi thờng bảo hiểm và đòi ngời thứ ba
Bồi thờng bảo hiểm là việc ngời bảo hiểm thực hiện cam kết của hợp
đồng, chi trả một khoản tiền nhất định nhằm đền bù cho ngời đợc bảo hiểm
khi có thiệt hại vật chất x¶y ra cho hä trong sù kiƯn b¶o hiĨm.
B¶o hiĨm hàng hóa là bảo hiểm thiệt hại, do vậy khi tiến hành bồi thờng bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc bồi thờng. Đó là số tiền bồi thờng của
ngời bảo hiểm trong mọi trờng hợp không lớn hơn thiệt hại của ngời đợc bảo
hiểm trong sự kiện bảo hiểm.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ giám định, xác định rủi ro thuộc trách nhiệm
bồi thờng của ngời bảo hiểm, ngời bảo hiểm sẽ tiến hành các thủ tục để giải
quyết bồi thờng.
Khi xác định đợc có ngời thứ ba chịu trách nhiệm về một phần hoặc
toàn bộ tổn thất, sau khi bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm, ngời bảo hiểm sẽ
tiến hành các thủ tục thế quyền ngời đợc bảo hiểm để đòi ngời thứ ba phần
thiệt hại thuộc trách nhiệm của họ và trong giới hạn đà bồi thờng cho ngời đợc
bảo hiểm.
24
1.2. Lợc sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo
hiểm hàng hải
1.2.1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
về bảo hiểm hàng hải
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàm chứa các mối quan hệ bảo hiểm.
Đó là những mối quan hệ phức tạp giữa ngời đợc bảo hiểm và ngời bảo hiểm;
giữa các tổ chức bảo hiểm với nhau; giữa tổ chức bảo hiểm với các tổ chức
kinh tế, xà hội khác và Nhà nớc. Các mối quan hệ này không chỉ bó hẹp trong
phạm vi từng quốc gia mà rộng khắp trên phạm vi quốc tế. Những mối quan
hệ đó đợc điều chỉnh bằng luật pháp của các quốc gia và cả những nguồn luật
mang tính chất quốc tế và khu vực.
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm là tên gọi chung của các văn bản
pháp lý, án lệ, tiền lệ có đối tợng điều chỉnh là quan hệ bảo hiểm tạo thành
một hệ thống pháp luật hớng tới một chuẩn mực điều chỉnh các quan mối
quan hệ bảo hiểm.
Pháp luật về bảo hiểm hàng hải ra đời từ rất sớm. Vào khoảng ba, bốn
thế kỷ trớc công nguyên, luật buôn bán đờng biển Ru-tơ giữ một vai trò quan
trọng trong hoạt động buôn bán đờng biển ở Địa Trung Hải. Trong luật này có
quy định về "tổn thất chung trên biển". Sau thế kỷ 14, theo đà phát triển của
hoạt động buôn bán đờng biển cũng nh sự phồn vinh của hoạt động bảo hiểm
hàng hải ở châu Âu đà dần xuất hiện những luật lệ về hoạt động hàng hải,
trong đó gồm cả nội dung của luật pháp về bảo hiểm. Theo đà phát triển của
thơng mại quốc tế và sự tiến bộ về giao thông quốc tế các văn bản luật liên
quan đến buôn bán quốc tế liên tục ra đời và phát triển.
Pháp lệnh Bacelona - Tây Ban Nha năm 1435 đà công bố Quy tắc bảo
hiểm hàng hải và thủ tục bồi thờng tổn thất. Pháp luật này cho đến nay đợc coi
là "Luật bảo hiểm hàng hải lâu đời nhất trên thế giới". Năm 1523, Phơ-rulông-sa (ngời Italia) đà tổng kết cách làm của bảo hiểm hàng hải trớc đây và
25