Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

lệ làng truyền thống với việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân việt nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.09 KB, 183 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia hiện có gần 80% dân số là nông dân vẫn
sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp truyền thống, mang tính chất tự cấp,
tự túc. Từ hiện trạng ấy tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, do đó,
cũng có nghĩa là bỏ qua dân chủ t sản, hiển nhiên đặt ra cho chúng ta nhiều
khó khăn. Đối với những nớc đã qua dân chủ t sản, việc sống và làm việc
theo pháp luật, đã trở thành tập quán, thói quen của ngời dân. Trái lại, ở n-
ớc ta, do cha trải qua dân chủ t sản, từ điểm xuất phát thấp về kinh tế xã
hội, nhất là ở nông thôn, ngời nông dân với truyền thống "phép vua thua lệ
làng" và những quan hệ dòng họ, xóm ngõ, nên cha có thói quen sống và
làm việc theo pháp luật.
Tiến trình cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, thực hiện công
cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh là quá trình đa nông dân lên CNXH. Bởi vậy, cùng với việc chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân "chúng ta phải thay đổi triệt
để những nếp sống thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng
ngàn năm" [84, tr. 493] để xây dựng và nâng cao ý thức và năng lực thực
hành pháp luật cho họ. Đây là một tất yếu khách quan và cũng là một yêu
cầu cấp bách.
Lệ làng vốn đợc xem là công cụ quản lý xã hội trong các làng xã
truyền thống. Bên cạnh giá trị tích cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ
xã hội trên quy mô nhỏ hẹp của làng xã, nhìn chung, lệ làng còn có nhiều
yếu tố ảnh hởng tiêu cực tới việc hình thành YTPL ở ngời nông dân. Đó là
những cản trở đáng kể cho việc thiết định trong thực tế nguyên tắc sống và
làm việc theo pháp luật, một chuẩn mực của xã hội dân chủ văn minh, hiện
đại. Do vậy, xây dựng YTPL cho nông dân, một mặt phải đẩy mạnh sự
5
nghiệp xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
nhà nớc pháp quyền, mặt khác, cần phải phát huy những mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền thống. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần


thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Quan tâm giữ gìn và
nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo
đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc" [24, tr. 111], cũng là để đa
nông dân lên CNXH, từng bớc hình thành YTPL cho họ, nhằm xây dựng
thành công CNXH ở nớc ta.
Để giải quyết những vấn đề trên, đề tài "Lệ làng truyền thống với
việc hình thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới"
là một đóng góp nhỏ vào sự nỗ lực chung đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Truyền thống, đất nớc và con ngời Việt Nam đợc hình thành và bảo
lu từ trong các làng xã cổ truyền. Làng xã, vì thế, đã thu hút nhiều nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực của khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài n-
ớc quan tâm nghiên cứu.
- Khảo sát một cách khá toàn diện xã hội nông thôn truyền thống có một
số công trình tiêu biểu: "Xã thôn Việt Nam" của GS Nguyễn Hồng Phong [102];
hai tập sách về "Nông thôn Việt Nam trong lịch sử" [125], [126], và hai tập
về "Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại" [127], [128] - những tập
sách trên đã tập trung các bài viết của các nhà sử học, dân tộc học.
- Từ góc độ truyền thống và con ngời có "Giá trị tinh thần truyền
thống dân tộc Việt Nam" của GS Trần Văn Giàu [33]; Đề tài KX-07-02
là công trình của nhiều nhà khoa học, đợc thể hiện ở hai tập sách do
GS Phan Huy Lê và PGS.TS Vũ Minh Giang chủ biên [48], [49].
- Từ góc độ tâm lý xã hội, phong tục tập quán, có tác phẩm "Tâm lý
cộng đồng và di sản" của Đỗ Long và Trần Hiệp [61]; "Việt Nam phong
tục" của Phan Kế Bính [6].
6
- Từ góc độ di sản "luật pháp" làng xã có "Chúng ta kế thừa di sản
nào" của GS Văn Tạo [108], các công trình của TS. Bùi Xuân Đính "Lệ
làng phép nớc" [30], "Hơng ớc và quản lý làng xã" [29]; Lê Đức Tiết "Về lệ
làng Hơng ớc" [111]. Nhà Việt Nam học Hàn Quốc, GS In Sun Yu với

"Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII" [130]. Các bài viết trong
"Hội thảo vai trò của Hơng ớc trong việc xây dựng nông thôn mới và quản
lý nhà nớc đối với hơng ớc" do Bộ T pháp và UBND tỉnh Hải Hng tổ chức
ngày 26-27/12/1995.
- Nhiều bài viết về dân chủ, con ngời của PGS.TS Hoàng Chí Bảo,
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS Dơng Xuân Ngọc, PGS.TS Trần
Quang Nhiếp đã đợc đăng trên các tạp chí: Cộng sản, Triết học, Nhà nớc
và Pháp luật, Thông tin lý luận, Nghiên cứu lý luận
Số lợng lớn công trình về nông thôn, làng xã, dân chủ và pháp luật
phản ánh sự quan tâm của các nhà khoa học, của xã hội đối với vấn đề mà
đề tài hớng tới. Những thành tựu đạt đợc là tiền đề quan trọng gợi mở cho
việc tiếp tục nghiên cứu về nông thôn và ngời nông dân ở các góc độ khác
nhau.
Tuy vậy, việc nghiên cứu ảnh hởng của lệ làng - di sản của làng xã
truyền thống - đến việc hình thành YTPL cho ngời nông dân vẫn cha có
một công trình nào mang tính chuyên khảo từ góc độ triết học - xã hội. Sự
thiếu vắng những công trình về lĩnh vực này càng khẳng định tính cấp bách
của đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án:
Trên cơ sở làm rõ quan hệ lệ làng và luật nớc trong xã hội Việt
Nam cổ truyền và ảnh hởng của lệ làng truyền thống với việc hình thành
YTPL của ngời nông dân, luận án đa ra phơng hớng và giải pháp nhằm
phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền
7
thống trong quá trình xây dựng, nâng cao YTPL cho nông dân nớc ta thời
kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ của luận án:
- Làm rõ quá trình hình thành và mối quan hệ giữa lệ làng và luật n-
ớc trong quá trình lịch sử.

- Làm rõ nét đặc thù của lệ làng trong thời kỳ đổi mới và ảnh hởng
của nó đối với việc hình thành YTPL cho nông dân nớc ta hiện nay.
- Đề xuất một số phơng hớng, giải pháp chủ yếu để phát huy nhân
tố tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền thống trong quá trình
xây dựng, nâng cao YTPL cho nông dân nớc ta thời kỳ đổi mới.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu quan hệ của ngời
nông dân với lệ làng: ý thức sống và làm việc theo lệ làng của ngời nông
dân trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Quan hệ của ngời nông dân với luật
nớc trong thời kỳ đổi mới, ý thức sống và làm việc theo pháp luật để từ đó
định hớng việc giáo dục YTPL cho ngời nông dân hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu nông dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi làng xã truyền thống hình thành sớm, có kết
cấu xã hội bền chặt và cũng là nơi chịu ảnh hởng sâu đậm của lệ làng.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong các giai đoạn cách mạng nớc ta.
- Luận án sử dụng phơng pháp duy vật lịch sử của triết học mácxít,
có chú ý đến những đặc thù của phơng pháp CNXHKH, gắn lý luận với
thực tiễn chính trị xã hội Việt Nam để luận giải những vấn đề đặt ra. Ngoài
8
ra, luận án cũng sử dụng các phơng pháp nh lịch sử - lôgic; phân tích tổng
hợp, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh, văn bản học
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án khái quát từ góc độ chính trị - xã hội mối quan hệ giữa lệ
làng truyền thống với luật nớc trong lịch sử; Những nét đặc thù của lệ làng
trong thời kỳ đổi mới; làm rõ nội hàm khái niệm YTPL của ngời nông dân
Việt Nam và ảnh hởng của lệ làng đối với quá trình hình thành và nâng cao
YTPL cho ngời nông dân.

- Luận án nêu lên một số phơng hớng, giải pháp góp phần xây
dựng, nâng cao YTPL cho nông dân phù hợp với dân chủ hóa xã hội và xây
dựng nhà nớc pháp quyền XHCN.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án ở mức độ nhất định có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo, góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chính sách của
Đảng và Nhà nớc để phát huy nguồn lực lao động ở nông thôn vào sự
nghiệp đổi mới đất nớc.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 3 chơng, 6 tiết.
9
Chơng 1
lệ làng. mối quan hệ giữa lệ làng và luật nớc
trong xã hội Việt Nam truyền thống
1.1. lệ làng trong làng xã cổ truyền
1.1.1. Làng xã Việt Nam trong quá trình lịch sử
Tìm hiểu xã hội nông thôn Việt Nam, ngời ta thờng bắt gặp các từ
làng, xã và thôn trong các văn bản giấy tờ và ngôn ngữ của ngời nông dân.
Làng là một từ nôm, dùng để chỉ đơn vị tụ c truyền thống của ngời nông
dân Việt. Làng là cộng đồng dân c, cộng đồng "lãnh thổ", cơ cấu tổ chức,
tâm lý, phong tục tập quán tín ngỡng và "thổ ngữ" riêng. Còn xã là từ Hán -
Việt chỉ đơn vị hành chính cơ sở của nhà nớc phong kiến ở vùng nông thôn.
Trớc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên vùng đồng bằng và trung du
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phần nhiều mỗi làng là một xã. Do vậy, ngời
nông dân thờng ghép hai từ này làm một: làng xã.
Thôn cũng là một từ Hán - Việt, thờng đợc dùng trong văn bản giấy
tờ hành chính, trong văn tế. Một xã mà gồm nhiều làng thì các làng họp
thành xã ấy đợc gọi là thôn.
Còn trong ngôn ngữ của ngời nông dân, mỗi ngời khi nói về quê h-

ơng, nơi mình sinh sống vẫn thờng nói làng này, làng kia hơn là xã này,
thôn nọ. Từ làng in đậm dấu ấn trong ý nghĩ tình cảm, ngôn ngữ thờng
ngày của ngời nông dân hơn là xã, thôn.
Làng xã Việt Nam thuộc loại hình công xã nông thôn kiểu á châu
mà đặc trng cơ bản nhất là lúc ban đầu, toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở
hữu và quản lý của công xã. Công xã có thể giành một phần ruộng đất cày
cấy chung để cung cấp sản phẩm cho những hoạt động cộng đồng, còn
phần lớn ruộng đất đợc phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng.
10
Mỗi làng "là sự kết hợp của các tiểu gia đình trong một khu vực
nhất định" [102, tr. 12]. Quan hệ láng giềng, sự gắn bó trên cùng một địa
bàn c trú, sinh sống gần gũi, liên kết với nhau là đặc điểm chung của công
xã nông thôn. Ph.Ăngghen đã từng nhận xét về đặc trng của hình thái kinh
tế - xã hội này: "Lịch sử thời cổ của tất cả, hoặc hầu hết các dân tộc là: việc
phân chia dân c dựa trên các quan hệ thân thuộc, và chế độ sở hữu chung về
ruộng đất" [73, tr. 469].
Cả hai đặc trng trên đều tồn tại rõ rệt trong lịch sử hình thành của
các làng Việt. Quan hệ thân thuộc đợc thể hiện trong những gia đình một
họ "định c thành từng làng". Cho đến tận ngày nay những tên làng Đào Xá,
Lê Xá, Nguyễn Xá vẫn tồn tại mặc cho có sự hỗn c của nhiều họ, nhng
quan hệ "dây mơ rễ má" vẫn còn tồn tại do quá trình chung sống và hôn
phối tạo nên. Chính quan hệ mang tính huyết thống đó đã chi phối nhiều
mặt trong sinh hoạt làng xã, tạo thành sợi dây ràng buộc quan hệ ứng xử
của những ngời nông dân.
Làng cũng là nơi c trú của c dân nông nghiệp, sản xuất lúa nớc gắn
liền với thủ công nghiệp. Ruộng đất công (đất) và thủy lợi (nớc) đã liên kết
c dân thành làng xóm, tự nó đã mang tính chất "siêu ổn định". Tính chất
này đã hóa thân thành tinh thần công xã, truyền thống đoàn kết xóm làng
trong cuộc đấu tranh chống lại ách nô dịch, đồng hóa của ngoại xâm. Lịch
sử Việt Nam đã chứng minh rằng ngời Việt có lúc mất nớc nhng cha bao

giờ mất làng.
Làng Việt tồn tại trên cơ sở sự kết hợp trực tiếp giữa nông nghiệp và
thủ công nghiệp. Những di tích khảo cổ học thời kỳ đồ đồng: Đồng Đậu,
Gò Mun ở Vĩnh Lạc và Phong Châu Vĩnh Phú đã thấy sự tập hợp c dân nh
những làng cổ. Với truyền thuyết Thánh Gióng - ngời con trai làng Gióng,
ngời anh hùng phá giặc Ân - thì các làng của ngời Việt đã định hình trớc
thời Bắc thuộc.
11
Theo các nhà sử học cho đến thế kỷ XVIII trên đất nớc ta đã có đến
gần 2 vạn làng đợc hình thành từ ba nguồn:
- Từ công xã nguyên thủy, loại làng này không phải là ít vì sự phát
triển của xã hội Việt Nam không tạo ra một giai đoạn phá vỡ hoàn toàn các
công xã nguyên thủy, để rồi đến một lúc khác thành lập lại trên cơ sở một
xã hội mới.
- Các làng xã khác hình thành trong xã hội có giai cấp theo nhiều
con đờng: do một họ, nhiều họ, một điền trang của quan lại phong kiến
(làng Mộ Trạch, làng Minh Luân, An Nội ) hoặc có nguồn gốc từ đồn
điền của nhà nớc (Quán La, Nhật Tảo ).
- Làng do nhà nớc chủ trì khai hoang lập nên [125, tr. 66-67].
Do điều kiện tự nhiên đất đai màu mỡ, dân số cha đông, ngời Việt
có thể khai khẩn bất cứ chỗ nào thuận tiện xung quanh đủ ruộng cấy lúa và
nơi c trú là thành làng. C trú thành làng là một đặc trng kinh tế, chính trị,
văn hóa của ngời Việt. Là một đơn vị quần c, mỗi làng đợc xác định bởi
một không gian bằng những đờng ranh giới giữa làng này với làng khác,
giữa đất làng với đất không phải của làng. Đất đai của làng tạo nên bởi
những ranh giới do các thế hệ ngời làng lập nên. Nó vừa là của chung, của
làng vừa là của riêng mỗi gia đình. Ruộng đất đó dân làng cày cấy nuôi
sống mình và đóng góp một phần cho nhà nớc. Ngoài phần đất canh tác,
mỗi làng thờng giành một phần làm nơi c trú thuận lợi cho hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội, giao thông và đợc gọi là làng. Nơi c trú ấy của cộng

đồng làng thờng đợc bao bọc bởi lũy tre, trong đó đợc chia thành xóm ngõ.
Trong cái không gian bé nhỏ đó, có đờng làng ngõ xóm để mọi ngời dùng
chung, có giếng làng để mọi ngời lấy nớc sinh hoạt, có đình làng vừa là nơi
thờ thành hoàng, vừa là nơi hội họp. Không gian kinh tế - xã hội, văn hóa
thiêng liêng ấy là yếu tố gắn kết mọi ngời chung một làng.
12
Qua hàng ngàn năm, do điều kiện đặc thù của lịch sử quy định, làng
Việt Nam tồn tại nh những đơn vị độc lập tơng đối. Tính độc lập và khép
kín đợc xác định bởi những lũy tre xanh bao bọc nh những tờng thành ngăn
cách và bằng cả một hệ thống thiết chế, tập tục của từng làng. Về mặt kinh
tế, đó là những thể thức phân chia và sử dụng công điền, công thổ, sử dụng
nguồn nớc của làng. Về mặt chính trị - xã hội mỗi làng đều có những quy -
ớc quy định các vị trí đẳng cấp xã hội, cả quyền lợi và nghĩa vụ, là sự tồn
tại và thực hiện chức năng xã hội của các hội, các phờng đợc thiết lập trong
làng. Về mặt văn hóa, đó là các hình thức hội hè, tập tục, lễ cới, lễ tang, lễ
khao vọng và gắn với văn hóa tôn giáo, là tín ngỡng thành hoàng với "Lệnh
làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ". Sự khác nhau giữa các
làng đã hình thành nên cái mà các nhà nghiên cứu văn hóa gọi là cái "Ta
làng" - cơ sở của tính biệt lập khép kín của mỗi làng.
Bên cạnh những khác biệt trên, làng Việt nào cũng có đủ tất cả:
ruộng công, ruộng t, đình chùa, hội hè, đình đám, có phờng hội, có chính
quyền quản lý và đó cũng là điểm giống nhau của tất cả các làng.
Làng là đơn vị kinh tế tự túc, tự cấp, có thể thỏa mãn những nhu cầu
tối thiểu của con ngời: hầu hết các làng đều có một vài hộ làm nghề rèn,
dăm ba hộ làm thợ mộc, thợ nề, một số hộ buôn bán tạp hóa ở chợ làng,
một vài ông đồ dạy học, ông lang bốc thuốc. "Làng có nông, làng cũng có
sĩ, công, thơng" [125, tr. 12]. Sự giống nhau đó đảm bảo cho các làng có
tính độc lập, tơng đối ít phụ thuộc vào nhau. Nh C.Mác từng nhận xét:
Cái cơ cấu sản xuất đơn giản của các cộng đồng tự cung
tự cấp ấy, - những cộng đồng không ngừng đợc tái sản xuất ra d-

ới cùng một hình thức ấy và nếu ngẫu nhiên bị phá hủy thì cũng
lại xuất hiện trên địa điểm cũ với một tên cũ - cái cơ cấu ấy cho
chúng ta cái chìa khóa để hiểu đợc sự bí ẩn của tính chất bất di
bất dịch của những xã hội châu á, nó trái ngợc một cách lạ thờng
13
với hiện tợng các nhà nớc châu á không ngừng bị phá hủy rồi lại
đợc lập lại, với những sự biến đổi không ngừng của các triều vua.
Kết cấu của các yếu tố kinh tế cơ bản của xã hội vẫn không bị
những cơn dông tố của lĩnh vực chính trị đầy mây ảnh hởng tới
[75, tr. 520-521].
C. Mác còn chú thích thêm:
Dới hình thức đơn giản ấy những ngời dân các nớc đó
đã sống từ thời thợng cổ đến nay. Ranh giới giữa các làng mạc ít
khi bị thay đổi. Và mặc dù bản thân những làng mạc đó đôi khi
bị thiệt hại, hay thậm chí còn bị tàn phá vì chiến tranh, nạn đói,
bệnh dịch, nhng cũng cái tên ấy, những ranh giới ấy, với những
lợi ích ấy, thậm chí với cả gia tộc ấy vẫn cứ tiếp tục tồn tại hàng
thế kỷ. Sự sụp đổ hay sự phân biệt của các vơng quốc chẳng hề
làm cho họ lo lắng; trong khi làng xóm vẫn còn nguyên vẹn, thì
dù nó nằm dới quyền lực của ai hay đợc chuyển cho một ông vua
nào, điều đó đối với họ cũng không quan trọng lắm, nền kinh tế
nội bộ của họ vẫn không thay đổi [75, tr. 520].
Chính cái cơ cấu kinh tế - xã hội khép kín ấy, là cơ sở hình thành ý
thức ngời nông dân làng xã Việt Nam, ý thức cộng đồng - cái cá nhân dờng
nh bị tan ra, bị hòa vào cộng đồng. Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích cộng
đồng, danh dự của ngời nông dân gắn với danh dự của làng xã - họ không
chỉ sống cho mình mà sống cho làng xã. Ngời nông dân chấp nhận những
quy tắc ứng xử, nếp sinh hoạt, quan hệ cộng đồng làng xã nh một lẽ tự nhiên.
Quan hệ làng xã ấy, vừa có mặt trì trệ bảo thủ của nó, nhng chính nó lại là
nơi thể hiện khá rõ quyền lợi và nghĩa vụ của ngời nông dân mà nhiều nhà

nghiên cứu gọi là "dân chủ làng xã". Quan hệ ấy cũng là những bức tờng
thành kiên cố vững chắc nhất bảo tồn văn hóa làng, cũng là bản sắc văn hóa
dân tộc đã chiến thắng mọi yếu tố tiêu cực của luồng văn hóa từ bên ngoài.
14
1.1.2. Sự hình thành "lệ làng" và những nội dung cơ bản của nó
Tập thể c dân trong mỗi cộng đồng sinh sống lâu dài trong một địa
vực, có những mối liên hệ với nhau trong đời sống sản xuất và xã hội, trong
cuộc đấu tranh thờng nhật với thiên tai và địch họa, đều muốn xây dựng
những mối quan hệ ổn định, hòa thuận, một lối sống có kỷ cơng, trật tự.
Nhu cầu ấy đòi hỏi phải có những quy ớc, những thỏa thuận ràng buộc
nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa cá thể
với cộng đồng làng xã.
Những quy ớc lúc đầu mang tính chất đạo đức răn dạy, những điều
nên và không nên làm, đợc truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ ngời
này sang ngời khác. Về sau với sự phát triển của làng, số lợng dân c ngày
một tăng, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và các dạng quan hệ
của nó ngày càng phức tạp, thì những quy ớc cũng phát triển nh một đòi
hỏi tất yếu, để điều tiết các mối quan hệ trong làng, để đảm bảo tính ổn
định của nó. Những quy ớc (mặc dù lúc đầu chỉ là truyền miệng - bất thành
văn) có tính bắt buộc chung, mọi ngời dân trong làng phải tuân theo. Đó
cũng là một trong những biểu hiện tiêu biểu tính tự quản của mỗi cộng
đồng dân c mỗi làng.
Chế độ phong kiến ra đời, làng đợc coi là đơn vị hành chính cơ sở,
nhà nớc chỉ quản lý tới làng, còn làng trực tiếp quản lý tới từng ngời nông
dân. Nhà nớc không biết đến mỗi ngời cụ thể mà chỉ biết đến làng của họ.
Làng là khâu trung gian nối liền nhà nớc và từng cá nhân cụ thể. Trong
thực tế, làng tồn tại nh một thực thể tơng đối biệt lập; giữa làng này với
làng khác không có mối liên hệ ràng buộc mà có sự cách biệt về ranh giới
lãnh thổ, sự khác nhau về phong tục tập quán sinh hoạt, về quan hệ xã hội
Cho nên, mỗi làng đều có quy ớc riêng để các thành viên của mình thực

hiện đợc gọi là "lệ làng".
15
Theo Từ điển tiếng Việt:
Lệ: Lề lối, phép tắc đã đặt ra, lệ làng: tục lệ ở làng [46, tr. 912]
Lệ có nguồn gốc Hán Việt : bao gồm : ngời chỉ những việc liên
quan đến con ngời và : liệt nêu ra, bày đặt ra, sắp đặt ra.
Lệ: là những sắp đặt, bày đặt ra mà ngời ta phải tuân theo.
Lệ làng là toàn bộ những quy định, lề lối, phép tắc, những phong
tục tập quán đợc hình thành trong các hoạt động của dân làng trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, xã hội văn hóa tín ngỡng của từng làng. Lệ làng quy
định điều chỉnh hành vi, ứng xử của con ngời trong các hoạt động đó.
Trớc Cách mạng Tháng Tám, ở các làng xã ngời Việt đều có những
lệ làng thành văn với những tên gọi riêng tùy theo cách ghi chép của ngời
soạn thảo: Hơng ớc, Hơng biên, Khoán ớc, Hơng khoán, Hơng lệ, Điều lệ
v.v Nhng dù gọi tên gì chăng nữa thì những văn bản đó đều bao gồm
những quy ớc liên quan đến các lĩnh vực đời sống của từng làng, từng cộng
đồng dân c, mà ngời ta quen gọi bằng tên phổ biến nhất - Hơng ớc.
Quá trình phát triển của làng xã làm cho c dân đông đúc dần, các
mối quan hệ và thiết chế xã hội lần lợt ra đời và tăng lên để quản lý các
mặt, các lĩnh vực của đời sống. Đó là tiền đề để làm phong phú các quy ớc
nhằm đáp ứng đợc yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng.
Các hình thức tổ chức, các mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân, các tổ
chức trong làng cũng nh quan hệ giữa làng xã với nhà nớc phong kiến ngày
càng phức tạp. Những tục lệ tập quán trong làng cũng phức tạp thêm lên.
Để duy trì các mối quan hệ đó, giữ "thăng bằng" cho làng xã, những quy ớc
truyền miệng phải đợc điều chỉnh bổ sung cho phù hợp, mặt khác cũng
không ai có thể nhớ nổi những quy ớc ngày càng phức tạp đó. Để cho cộng
đồng có thể thống nhất với nhau trong khi vận dụng những điều về các quy
tắc ứng xử, quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng và ngợc
lại. Do vậy, việc văn bản hóa những tục lệ, tập quán là sự đòi hỏi khách

16
quan của quá trình phát triển các mối quan hệ cộng đồng. Hơng ớc ra đời
vừa là kết quả, vừa là yêu cầu của quá trình phát triển nội tại của đời sống
làng xã. Nó kế tục và hoàn chỉnh những quy ớc trớc đó của mỗi nhóm dân
c, của các hình thức cộng đồng ngời trong mỗi làng xã.
Yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong từng làng mới
chỉ là điều kiện cần cho sự xuất hiện lệ làng - hơng ớc. Bất cứ cộng đồng
ngời nào để có những bộ luật hay tập quán viết thành văn ngoài việc phải
có một cơ cấu tổ chức xã hội hoàn chỉnh còn phải có những điều kiện
khác. Đó là văn tự (chữ viết) và cùng với nó là một tầng lớp trí thức có đủ
trình độ để soạn thảo văn bản. Mặt khác, đối với những nhóm dân c nhỏ
của một quốc gia thì "bộ luật" của họ muốn ra đời và tồn tại còn phải chịu
sự kiểm soát của bộ máy nhà nớc bao trùm lên trên nó, nghĩa là, mỗi đơn vị
tụ c ấy phải trở thành đơn vị, trở thành một cấp hành chính của nhà nớc.
Nh vậy, trải qua quá trình phát triển lịch sử, do yêu cầu quản lý xã
hội các "bộ luật" hay các bản hơng ớc của các làng xã ngời Việt ra đời
trong những điều kiện:
- Chữ viết (chữ Hán) phải trở thành thứ văn tự phổ biến, đợc sử dụng
trong giấy tờ sổ sách để giải quyết, ghi chép các công việc, các mối quan hệ
trong đời sống hàng ngày của làng xã. Cùng với chữ viết còn có một tầng
lớp trí thức (nho sĩ) trực tiếp sử dụng thứ văn tự đó.
- Sự tác động của nhà nớc phong kiến đối với làng xã để hớng các
làng xã đi vào quỹ đạo của nó. Nhà nớc phong kiến thông qua lệ làng để
buộc các làng xã, các đơn vị tụ c của ngời nông dân ấy phải khuôn theo
hình mẫu của nó. Muốn làm đợc việc đó phải văn bản hóa các tục lệ, các
quy ớc của làng xã.
17
Theo các nhà dân tộc học, từ cuối thời Trần trở đi trong mỗi làng
Việt đã có những điều kiện để những bản lệ làng thành văn ra đời. Những
điều kiện đó là:

- Cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh, các phong tục, tập quán, các tục lệ
ngày càng phức tạp.
- Nhà nớc phong kiến ngày càng can thiệp vào làng xã, biến nó
thành đơn vị hành chính cơ sở, tuy vậy mỗi làng còn giữ đợc tính "tự trị"
thể hiện ở một số tập tục truyền thống.
- Trong mỗi làng đã xuất hiện một tầng lớp nho sĩ có thể đại diện
cho làng soạn thảo các sổ sách giấy tờ trong đó có bản lệ làng thành văn -
Hơng ớc [30].
Khẳng định điều đó nhằm tìm ra một niên đại tơng đối về sự xuất
hiện của các văn bản lệ làng. Số lợng các bản hơng khoán ớc có niên đại cụ
thể hiện nay còn lại khá nhiều chỉ tính riêng hai th viện: Viện nghiên cứu
Hán Nôm và Viện Thông tin khoa học xã hội đã có tới 5.456 bản [29, tr.
16] đó là cha kể số còn lại nằm rải rác ở các th viện trung ơng, th viện địa
phơng, trong các làng, và trong tay các nhà nghiên cứu. Những bản hơng -
ớc có niên đại sớm nhất còn lại đến ngày nay là bộ Quỳnh Đôi sự tích cổ
kim Hơng biên gồm ba văn bản ra đời vào gần giữa thế kỷ XVII. Hơng ớc
làng Mộ Trạch, huyện Đờng An, phủ Thợng Hồng (nay là huyện Cẩm
Bình - Hải Dơng) ra đời năm 1665 sau đó đợc sửa chữa bổ sung tới 16 lần
từ 30 điều ban đầu lên 82 điều ở bản cuối cùng [108, tr. 107]. Ngoài ra còn
khá nhiều các bản hơng ớc có niên đại từ nửa sau thế kỷ XVII đến đầu thế
kỷ XX. Điều đó chứng tỏ từ thế kỷ XVII trở đi, lệ làng đợc "văn bản hóa"
đã trở thành rất phổ biến trong sinh hoạt làng xã. Song, cha hẳn những văn
bản lệ làng hiện nay còn lại đã là những văn bản có niên đại sớm nhất mà
có thể từ thời Lê Thánh Tông đã xuất hiện và tồn tại của các văn bản lệ
làng. Bằng chứng là dới triều Lê Thánh Tông (1460 -1497) trong hàng loạt
18
các đạo dụ đợc tập hợp trong "Hồng Đức Thiện chính th" có một điều luật
gồm 5 điều mà nội dung rõ ràng nhằm mục đích hạn chế các làng xã lập h-
ơng ớc - khoán ớc [39, tr. 54-55].
Đạo dụ của Lê Thánh Tông cũng chứng tỏ ngay cả khi có luật nớc,

lệ làng vẫn còn tồn tại để điều chỉnh các mối quan hệ làng xã. Sức sống của
truyền thống công xã cùng sự phong phú và phức tạp của đời sống làng
mạc càng làm cho lệ làng - hơng khoán ớc cần đợc duy trì, tồn tại. Lệ làng
đã đợc nhà nớc phong kiến - mặc dù có khi ngăn cản nó - chấp nhận, công
nhận, lợi dụng nó, để phục vụ cho lợi ích của mình. Tình hình đó tạo điều
kiện thuận lợi để từ thế kỷ XVII trở đi là thời kỳ phát triển nhất của các h-
ơng - khoán ớc: hầu hết các làng ở Bắc và Bắc Trung Bộ đều thảo ra các
bản lệ làng thành văn của mình và chúng đợc nhà nớc phong kiến thừa
nhận nh những văn bản pháp lý.
Từ khi xâm lợc và đặt ách thống trị lên đất nớc ta, để nắm chặt các
làng xã, củng cố chế độ thuộc địa, thực dân Pháp đa ra cái gọi là "Cải lơng
hơng chính" vào các năm 1921, 1927 và 1941. Theo đó, các bản hơng ớc
do thực dân Pháp buộc các làng soạn thảo theo mẫu thống nhất đã thay thế
các bản hơng ớc trớc đây do từng làng soạn thảo.
Những điều trình bày ở trên cho thấy, lệ làng ra đời, tồn tại nh một
yêu cầu khách quan để làng xã tự quản lý và cũng thông qua đó, cùng với
luật của nhà nớc trở thành công cụ để nhà nớc quản lý các làng xã, quản lý
ngời nông dân đảm bảo sự ổn định để duy trì sự thống trị của nhà nớc.
Là những "bộ luật" của làng xã, tùy theo cách ghi chép của từng
làng mà lệ làng tồn tại dới các tên khác nhau, hơng khoán, điều ớc, điều lệ,
khoán lệ, tục lệ và tùy điều kiện cụ thể của từng làng mà mỗi bản hơng ớc
gồm nhiều hay ít các điều khoản. Tỷ lệ các điều khoản của từng vấn đề và
sự sắp xếp chúng cũng theo những trình tự khác nhau, tùy theo đặc điểm
của mỗi làng mà có những tập tục quy ớc riêng. Nhng nhìn chung, các điều
19
khoản trong hơng ớc khá đa dạng phong phú, phản ánh khá sinh động các
mặt hoạt động của đời sống sinh hoạt làng xã theo một khuôn phép mà
không một luật nớc nào có thể bao quát hết đợc. Nếu đem chắt lọc những
khác biệt của từng làng ta thấy các bản hơng ớc đều phản ánh những nội
dung cơ bản dới đây:

Nội dung thứ nhất, hơng ớc khẳng định ranh giới lãnh thổ của làng
và cơ cấu tổ chức, quan hệ trong làng xã.
Mỗi làng có một địa vực riêng, đợc hình thành do những dòng họ
hay tập đoàn ngời đầu tiên đến khai phá và mở rộng theo thời gian nhờ
công sức của nhiều thế hệ. Hơng ớc của một số làng đã ghi lại quá trình
khai hoang lập nên làng xóm. Chủ quyền của làng, đợc khẳng định qua
điều khoản của hơng ớc: ranh giới của làng giáp đâu ? Xác định bởi mốc
giới nào? Diện tích công t điền thổ bao nhiêu? Hơng ớc cũng quy định, các
thành viên trong làng có nghĩa vụ bảo vệ "lãnh thổ" của làng, chống lại sự
xâm phạm của ngời làng khác, cũng nh phải tuân thủ nghiêm ngặt về việc
sử dụng các bộ phận lãnh thổ của làng. Chính cái giới hạn lãnh thổ của mỗi
làng đã làm nên cái "ta làng" cái văn hóa làng. Ngời nông dân ý thức về
quyền sở hữu "tập thể làng" cái ý thức "co cụm để đề kháng" để bảo vệ
làng và rộng hơn là bảo vệ bản sắc dân tộc. Do vậy, "làng và văn hóa làng
từng là cái nôi, lá chắn, đã sáng tạo giữ gìn và che chở những giá trị tinh
thần chống lại các âm mu đồng hóa về văn hóa của bên ngoài" [60, tr. 46].
Mặc dù sắp xếp trớc sau có thể có sự khác nhau, song một trong
những mục mà các bản hơng ớc đều đề cập tới đó là mục chính trị, trong đó
nội dung chủ yếu liên quan đến thiết chế chính trị, cơ cấu tổ chức và các
quan hệ xã hội trong làng.
Quan hệ tổ chức - xã hội ở làng xã khá chặt chẽ, đợc thể hiện ở các
điều mục trong hơng ớc quy định bộ máy tổ chức, phân định trật tự đẳng
cấp trong bộ máy, trong c dân làng xã. Lệ làng gồm những quy ớc đề cập
20
tới các tổ chức trong làng, chức năng quyền hạn của các tổ chức và những
thành viên của nó: Hội đồng kỳ mục, xóm ngõ, phờng hội, phe, giáp, dòng
họ
Hội đồng kỳ mục là bộ máy quản lý làng xã truyền thống, về danh
nghĩa, đây là cơ quan có toàn quyền quyết định các công việc quan trọng
trong làng. Phân bổ thuế khóa, su dịch, phân chia công điền, xây dựng tu

bổ đình chùa, tổ chức hội hè, đình đám v.v
Hội đồng lý dịch đại diện cho bộ máy nhà nớc phong kiến ở làng,
đứng đầu bộ máy này là lý trởng, phó lý do dân làng bầu ra và phải đợc nhà
nớc phong kiến công nhận, vừa đại diện cho làng vừa đại diện cho nhà nớc.
Những con ngời của bộ máy lý dịch vừa là ngời "nhà nớc" vừa là ngời
"làng ta", "họ ta". Cái quan hệ theo "lý" của nhà nớc vừa có cái "tình" của
làng đã chi phối quan hệ xã hội ở nông thôn. Đi kèm với những điều khoản
phân định trật tự xã hội, hơng ớc còn quy định chức năng, quyền hạn,
quyền lợi và nghĩa vụ của các thang bậc xã hội trong sinh hoạt của làng.
Những quy định cụ thể tùy theo đặc điểm của từng làng, nhng xu hớng
chung là những ngời ở thang bậc cao thì thờng đợc trọng vọng và đợc hởng
quyền lợi nhiều hơn. Tất cả đợc quy định theo một trật tự nghiêm ngặt, vi
phạm trật tự đó có nghĩa là xâm phạm tới lợi ích, tinh thần của ngời khác,
sẽ bị làng bắt vạ, bị ngời làng tẩy chay và không ít trờng hợp đã dẫn tới
kiện cáo. Ngời nông dân cũng ý thức đợc vị trí của mình trong trật tự đẳng
cấp đó.
Việc quản lý nhân khẩu của làng cũng đợc quy định trong hơng ớc
nhằm quản lý các thành viên của mình thực hiện các nghĩa vụ với làng và
với nhà nớc.
Hơng ớc còn dành những điều khoản quy định việc cới xin, sinh, tử.
Việc sinh đẻ, công nhận một thành viên mới ra đời đợc tiến hành qua lễ
vọng giáp. Việc hôn nhân của đôi trai gái muốn đợc làng công nhận phải
21
nộp "cheo"; cheo có giá trị pháp lý nh giấy kết hôn. Nếu không nộp cheo
cuộc kết hôn coi nh vô nghĩa và không đợc làng công nhận. Cheo có thể
nộp bằng tiền, cũng có thể bằng hiện vật tùy theo từng làng quy định. Việc
ma chay cũng đợc quy định chặt chẽ, tỉ mỉ trong các bản hơng ớc, nh
những điều luật của làng.
Quan hệ xã hội của ngời dân trong làng đợc quy định bởi những
quy ớc về việc c xử giữa ngời với ngời trong làng xã. Những điều khoản

này chiếm một số lợng tơng đối trong hơng ớc. Nội dung chủ yếu trong
những điều khoản đó đề cao tinh thần đoàn kết đùm bọc làng xóm, giữ
gìn những quan hệ tốt đẹp, khuyến khích dân làng ăn ở hòa thuận giúp đỡ
nhau trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn, Điều 71 hơng ớc làng Quỳnh
Đôi quy định: Mọi ngời phải đến giúp ngời khác lợp nhà, đa ma mà
không cần lời mời, khi đa ma thì tùy tang chủ kính biếu mà không đợc đòi
hỏi. Điều 83 lại ghi: Ai gặp ngời già mà không giúp sức mang vác thì bị
phạt. Hoặc ở Điều 97: Gặp hoạn nạn, ngời trong làng phải giúp đỡ lẫn
nhau, nếu không khi trở về làng bị phạt 20 quan mới đợc ghi tên vào sổ
làng (đợc công nhận lại là thành viên của làng).
Nhiều bản hơng ớc còn có những điều khoản quy định nhằm hạn
chế hiện tợng kéo bè cánh, cậy quyền ỷ thế trong việc giải quyết các công
việc của làng, nh hơng ớc làng Dơng Liễu (Hoài Đức - Hà Tây) làng Quỳnh
Đôi (Quỳnh Lu - Nghệ An) v.v
Hơng ớc làng Dơng Liễu viết: Ai ức hiếp dân chúng, yêu sách trong
kỳ thu thuế, bắt phu, kẻ đó bị phạt 10 quan tiền và bị xóa bỏ ngôi thứ ở
đình. Hoặc ở làng Quỳnh Đôi: Khi đi thu thuế, ai đòi hỏi yêu sách thêm thì
đến khi ngời ấy chết làng không đến đa ma Những quan hệ xã hội trong
làng xã đã đợc "luật hóa" trong lệ làng.
22
Dòng họ là một hình thức tập hợp ngời trong làng theo quan hệ
huyết thống. Mỗi làng có thể có nhiều họ. Các họ c trú đan xen vào nhau ở
tất cả các xóm trong làng, nhng ở nhiều làng, có những dòng họ c trú trong
một xóm hay một khu vực nhất định. Tình cảm dòng họ nhiều khi trở thành
một phơng thức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Ngời trong họ hàng
thờng quan tâm và biểu lộ tình cảm thái độ đối với cách ứng xử của các
thành viên của dòng họ mình. Vì thế, ngời ta có thể tự điều chỉnh hành vi
của mình, đừng làm điều gì tổn hại đến thanh danh gây tai tiếng cho cả họ.
Quan hệ dòng họ của ngời nông dân ở nông thôn tác động khá sâu sắc đến
phơng thức hoạt động của từng cá nhân.

Làng xã đòi hỏi mỗi thành viên của mình trớc hết phải biết kính yêu
cha mẹ, thơng mến họ hàng. Quan hệ huyết thống thân tộc có thể đợc coi là
quan hệ u tiên hàng đầu trong mối liên hệ gắn bó giữa ngời và ngời trong
xã hội làng xã: "đi làng, bênh họ", "giọt máu đào hơn ao nớc lã". Quan hệ
đó trở thành "nguyên tắc" ứng xử hớng dẫn hành vi cho con ngời: "Anh em
nh thể chân tay", "máu chảy, ruột mềm", "gà cùng một mẹ chớ hoài đá
nhau". Mỗi hành vi tốt xấu của con ngời trớc hết liên quan đến gia tộc "con
dại, cái mang". Nếu lấy con ngời làm tâm điểm xã hội, làng xã là không
gian bao quanh thì gia tộc họ hàng là vòng tròn giáp ranh tâm điểm.
Quan hệ làng - xóm - họ - tộc tác động đến ý thức, chi phối từng
hành vi, phơng thức ứng xử của ngời nông dân. Trong quan hệ của họ khi thì
"bán anh em xa mua láng giềng gần", khi thì "một giọt máu đào, hơn ao n-
ớc lã" Ngời nông dân suy nghĩ và hành động không chỉ vì mình mà vì
"làng mình", "xóm mình" và "họ mình" Những yếu tố đó trớc đây giai
cấp thống trị đã lợi dụng để duy trì trật tự quản lý xã hội ở nông thôn.
Bên cạnh quan hệ dòng họ, quan hệ xóm ngõ cũng không kém phần
quan trọng. Quan hệ xóm ngõ là hình thức cộng đồng ngời theo lĩnh vực c trú.
Tùy đặc điểm từng làng mà ranh giới các xóm đợc phân định bởi mốc giới
23
khác nhau, trong xóm có ngõ, trong ngõ bao gồm các gia đình quần c theo
truyền thống "tắt lửa tối đèn có nhau".
Trong sự vận hành của đời sống làng xã, mỗi thành viên bao giờ
cũng hiện diện đồng thời với hai t cách: ngời con của họ hàng và ngời dân
của làng xã. Quan hệ đó khi thì "cửu đại hơn ngoại nhân", khi thì "bán anh
em xa mua láng giềng gần". Dân làng xã lại đợc "lệ làng" phân thành
những cấp bậc khác nhau: Có dân "chính c", dân "ngụ c". Chỉ có dân chính
c mới đợc coi là dân của làng. Tùy theo đẳng cấp, phẩm hàm chức tớc, tài
sản, tuổi tác, dân chính c lại bị phân thành những cấp bậc khác nhau sau
khi đã làm "lễ khao vọng". Vị trí xã hội của mỗi ngời trong hệ thống đẳng
cấp cũng đợc xác định rõ trong lệ làng.

Nhìn chung, tục lệ của làng xã cổ truyền phản ánh "cấu trúc xã hội
chính trị" của làng và những "chuẩn mực" điều chỉnh quan hệ của các cá
nhân trong cộng đồng làng.
Nội dung thứ hai của hơng ớc là những quy ớc bảo vệ an ninh làng

ý thức bảo vệ đời sống cộng đồng đợc thể hiện ở việc giữ gìn trị an
thôn xóm và gắn liền với việc tổ chức vũ trang bảo vệ làng xã. Đây là vấn
đề sống còn và thờng xuyên của từng làng đợc quy định tỉ mỉ trong các bản
hơng ớc.
Có làng tổ chức an ninh còn đợc xây dựng chặt chẽ thành một hơng
ớc riêng (không chung với các quy định, các mặt của đời sống xã hội khác)
nh "Kiêu Trì tam phiên khoán" [44]. Điều quan trọng không chỉ thể hiện ở
tổ chức và lực lợng phòng vệ mà là ý thức phòng vệ của toàn dân đợc quy
định ở các bản hơng ớc. Tuy mỗi làng có những quy định riêng về tổ chức
vũ trang canh phòng, tuần tra nhng chúng ta có thể thấy ở những bản hơng
ớc có những nét chung.
24
Trớc hết, làng xã coi trọng việc lập các điếm canh, điếm tuần phòng
để phòng "thủy, hỏa, đạo, tặc" bảo vệ tính mạng, tài sản chung của cả làng.
Vì thế hết thảy các tráng đinh trong làng (thờng từ 18 đến 49 tuổi) đều phải
tham gia và đợc tổ chức thành các đội dân binh của các xóm ngõ gọi là
tuần phiên hay hàng phiên (nhng cũng có làng chỉ lấy những ngời vào
phiên từ 20 đến 40 tuổi). Hơng ớc làng Phú Xuyên (Ba Vì - Hà Tây) Điều
26 ghi: "Trong làng đặt ra các ngõ nh ngõ Trên, ngõ Hơng, ngõ Đình, ngõ
Đồng Phải cắt cử những tráng đinh trong ngõ từ 20 đến 40 tuổi, ngõ lớn
cử 12 ngời, ngõ nhỏ cử 8 ngời làm tuần phiên để tuần thú trong ngõ. Nếu
bất cẩn để nhà nào mất trộm vật gì đáng từ một đồng trở lên thì tuần phiên
phải đền" [41].
Chế độ tuần tra, canh gác của các đội tuần phiên tùy thuộc vào tập
tục của từng làng, nhằm bảo vệ an ninh trật tự, tài sản chung của cả làng cũng

nh mỗi thành viên của làng. Họ có trách nhiệm bảo vệ "nội hơng ấp, ngoại
đồng điền", nếu để mất mát căn cứ vào giá trị phải bồi thờng cho ngời bị
mất. Chẳng hạn làng Lộc Du (Thờng Tín, Hà Tây) quy định phiên tuần
canh gác không cẩn thận để kẻ gian vào ăn trộm mỗi con trâu bị mất phải
bồi thờng 30 quan, bò 20 quan. Làng Kiêu Trì quy định nếu ban đêm xảy ra
mất trộm tuần phải đền mỗi con trâu 10 quan, bò 6 quan ở ngoài đồng
mất từ 3 lợm lúa trở lên thì đền 3 lợm, mất 1 sào trở lên thì đền 3 gánh H-
ơng ớc các làng còn quy tội nặng hơn cho những tuần phiên lợi dụng việc
canh gác, tuần phòng để ăn trộm. ở làng Dơng Liễu (Hoài Đức - Hà Tây)
nếu phiên lợi dụng canh gác đi ăn trộm súc vật, hoa quả thì phạt 2 quan, hoặc
trong lúc tuần phòng cố ý thả kẻ trộm sẽ bị "luận tội" và phạt 3 quan. ở
làng Đồng L phiên tuần lợi dụng lúc làm nhiệm vụ để ăn trộm thì bị phạt
gấp đôi kẻ trộm bình thờng, nặng thì giải trình quan trên. Phiên mở cổng
25
làng cho kẻ gian vào làng phải đền những của cải bị mất phạt 10 quan
(tiềnn năm 1829) nhẹ đánh 30 roi và đuổi về, nặng thì trình quan xét xử.
Chế độ thù lao cho tuần phiên đợc trích từ quỹ công của làng, nhng
thờng đợc trực tiếp thu từ hoa màu gọi là "sơng túc" hay "lúa bờ". Hơng ớc
làng Phú Xuyên ghi cho lấy bờ các hoa màu 10 phần lấy một, ngoài bãi 20
phần lấy một. ở trong làng đợc thu theo ngõ xóm, mỗi nóc nhà một hào,
trâu hai hào, bò một hào, lợn 5 xu. Ngoài ra còn đợc hởng một số quyền lợi
khác mỗi khi làng có việc làng hay các gia đình thành viên của làng có
tang lễ, cới xin
Trách nhiệm bảo vệ an ninh làng xã không chỉ do các tuần phiên
đảm nhiệm mà còn là của cả làng. Hơng ớc làng Miêu Nha (Hải Phòng)
ghi rõ: hễ trong làng bất thần nghe thấy tù và, trống đánh cáo cấp thì tất cả
thợng hạ không cứ sang hèn giàu nghèo tuổi từ 18 đến 60 đều phải cầm lao,
gậy chạy đến nơi tiếp cứu. Tơng tự ở làng Quỳnh Đôi quy định: ai không
đến thì bị phạt một con trâu để nghiêm phép làng, ở làng Mộ Trạch (Hải D-
ơng) phạt một con lợn. ở làng La Nội và ỷ La (Hoài Đức - Hà Tây) quy

định: các tráng đinh không tham gia đuổi cớp bị phạt 1 quan tiền cổ. Nhiều
làng còn quy trách nhiệm liên đới cho tất cả các thành viên trong làng đối
với việc bảo vệ an ninh làng xã lúc bình thờng cũng nh khi có động. Ngoài
ra, để quản lý chặt chẽ hơn hơng ớc còn quy định các gia đình phải trình
báo khi có khách lạ trú ngụ qua đêm nếu không trình báo khi phát hiện,
chủ nhà sẽ bị phạt (Hơng ớc làng Kiêu Trì).
Chế độ khen thởng đối với ngời có công trong việc bảo vệ an ninh
làng xã cũng đợc đề cập trong các bản hơng ớc. Làng Yên Sở quy định: ai
bắt đợc một tên cớp đợc thởng 100 quan tiền, ai giết đợc một tên cớp đợc
thởng 60 quan, bắt một tên ăn cắp thởng 15 quan. Trong việc tham gia
chống trộm cớp hoặc cứu hỏa hoạn chẳng may bị thơng hoặc chết đợc làng
26
xã quan tâm. Làng Mộ Trạch (Hải Dơng): ai bị thơng cấp 50 quan, bị chết
cấp 100 quan (tiền 1728) và cho ngời con đợc miễn phu dịch cả đời. Làng
Phú Xuyên (Ba Vì - Hà Tây) "ngời đến cứu giúp hỏa hoạn mà bị bỏng hoặc
què thì hội đồng trích tiền quỹ chi cho uống thuốc, ngời tham gia bắt trộm
cớp nếu bắt đợc trộm cớp đợc thởng 10 đồng bạc, nếu ai bị cớp đánh lại bị
thơng đợc cho 10 đồng bạc uống thuốc, nếu bị chết đợc 30 đồng tống táng
và xin cho con cháu một chức khán thủ. Những biện pháp khen thởng thích
đáng đó một mặt phản ánh tính cộng đồng làng xã, mặt khác giúp cho các
làng xã chủ động trong việc bảo vệ trật tự trị an của mình.
Nội dung thứ ba của hơng ớc là những quy ớc liên quan đến sản
xuất và bảo vệ môi trờng.
Nh chúng ta đã biết, đối với một nền kinh tế tiểu nông, ngời nông
dân "kiếm t liệu sinh hoạt cho mình bằng cách trao đổi với thiên nhiên
nhiều hơn là giao tiếp với xã hội" [69, tr. 264]. Quy trình sản xuất diễn ra
một thời gian dài, kết quả của nó phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên.
Trong quá trình sản xuất ngời nông dân một mặt phải "trông trời, trông đất,
trông mây, trông ma, trông nắng, trông ngày, trông đêm" cầu cho "ma nắng
phải thì" mặt khác vừa phải tìm cách đối phó với thiên nhiên để tồn tại.

Với một nền nông nghiệp trồng lúa nớc, thủy lợi luôn đặt lên hàng
đầu. Không chỉ đối với nhà nớc phải có hẳn một bộ "công trình công cộng"
[70, tr. 172] mà thủy lợi đã trở thành một hoạt động cộng đồng mang tính
phổ biến ở hầu hết các làng xã Việt Nam. Đối với ngời nông dân trồng lúa
nớc thì nớc là yếu tố thứ nhất rồi mới đến đất, công việc thủy lợi phải đợc
thực hiện thờng xuyên. Việc đắp đê, hộ đê, sửa chữa bồi đắp chỗ sạt lở, đào
sông, đào kênh, khơi ngòi khơi lạch trở thành công việc mang tính truyền
thống của các làng xã. Hơng ớc nhiều làng quy định chặt chẽ việc sử dụng
nớc. Chẳng hạn, trong "Vĩnh Lại khoán lệ" quy định "Việc giữ nớc hoặc
mở nớc với nhà nông rất là quan hệ. Nếu ruộng nhà nào bị hạn, bị ngập ng-
27
ời chủ ruộng làm đơn trình cho thôn, xã trởng xem, nếu đúng sự thật chỉ sẽ
cho làm, nếu ngời nào tự ý giữ nớc lại hoặc mở nớc ra để đến nỗi có hại
cho việc nhà nông thì sẽ bị phạt lợn và ruộng trị giá một quan, 2 mạch tiền"
hoặc hơng ớc làng Phú Xuyên (Ba Vì - Hà Tây): Phiên tuần phải trông nom
việc giữ nớc, khi nào nên tháo nớc thời phải hỏi ý kiến hội đồng, không đợc
tự tiện làm ngay, ngời nào tháo nớc, chắn cá làm cho ruộng lúa mất nớc
phải bị phạt.
Ngoài việc bảo vệ nguồn nớc, hơng ớc các làng còn có những điều
khoản quy định việc bảo vệ hoa màu: không đợc tự ý thả trâu bò, gà vịt ra
đồng khi lúa đã cấy xong, không đợc lội vào ruộng lúa bắt cá tôm Với
nền nông nghiệp phong kiến kỹ thuật canh tác lạc hậu, công cụ thô sơ,
những công trình công cộng - đê điều và hệ thống thủy lợi cần có sự chăm
lo bảo vệ của cả cộng đồng. Ngời nông dân phải biết và dám hy sinh cả lợi
ích riêng, tài sản và sở hữu của chính mình để bảo vệ lợi ích cộng đồng một
khi lợi ích đó bị đe dọa. Nếu cộng đồng cần thì mỗi ngời nông dân phải tự
nguyện, tự giác hy sinh thời gian, sức lực, nhà cửa cây trái sắp đến ngày thu
hoạch để bảo vệ lợi ích chung. Cơ sở vật chất và tinh thần tự nguyện đó
chính là mối liên hệ tất yếu giữa lợi ích cá nhân gia đình với lợi ích cộng
đồng làng xã "nớc lụt thì lút cả làng". Nớc dâng đê vỡ cả làng ngập lụt thì

nhà cửa ruộng vờn của mỗi ngời không thể không bị ngập lụt. Cả làng mất
mùa thì mỗi nhà không thể không mất mùa. Thực tiễn của công cuộc trị
thủy - thủy lợi đã đặt lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ trong lợi ích cộng
đồng làng xã. ở mặt này nó còn góp phần thúc đẩy sự phát triển tinh thần,
ý thức cộng đồng ra ngoài khuôn khổ làng xã nhỏ sang cộng đồng tập thể
rộng lớn hơn.
Hơng ớc khuyến khích tất cả mọi ngời tận dụng đất đai, chăm chỉ
cày cấy. Nếu gia đình nào để đất hoang hoặc để gia súc, gia cầm phá hoại
mùa màng đều phải phạt nặng, nhẹ tùy mức độ vi phạm. Với mục đích bảo
28
đảm và phát triển sản xuất, các bản hơng ớc khuyên mọi ngời khai khẩn đất
hoang, phục hóa giữ gìn bảo vệ nguồn nớc, đồng thời trừng trị những ai cố
tình vi phạm những quy định của làng.
Lệ làng phản ánh ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trờng sống
của làng. Những công trình công cộng đợc chăm lo tu sửa. Nhất là những
công trình thể hiện bộ mặt của làng: đờng làng, giếng nớc, ngôi đình.
Đờng làng để cả làng đi lại, mọi ngời đều phải có ý thức giữ gìn tôn
tạo. Hơng ớc của nhiều làng quy định không đợc tự ý thả trâu bò, lợn để
phóng uế ra đờng, không xẻ rãnh, tháo nớc qua đờng. Hơng ớc quy định và
khuyến khích phát triển giao thông: trai gái xây dựng gia đình, những ngời
đỗ đạt, khao danh vọng phải nộp gạch để lát đờng đã góp phần tạo nên bộ
mặt làng xóm phong quang sạch đẹp.
Nội dung thứ t: Những quy ớc về văn hóa giáo dục, tín ngỡng và
phong tục tập quán của làng
Mỗi làng Việt là một cơ cấu kinh tế khép kín mang tính "nửa tự trị".
Nét khác biệt giữa các làng đợc đặc trng bởi những nét văn hóa riêng, các
tục hèm, lệ thờ thành hoàng: mỗi làng tôn một vị thần làm "thành hoàng"
đợc thờ ở đình, đình đợc xây dựng ở nơi tốt nhất về phong thủy. Thành
hoàng có thể là thiên thần, cũng có thể là nhân thần, cũng có thể là ngời có
công với làng, với nớc nhng cũng có thể là ngời mà dân làng cho là linh

thiêng luôn che chở cho làng [6]. Thần thành hoàng là vị thần bảo trợ cho
cả cộng đồng làng. Cuộc sống của cộng đồng và số phận mỗi thành viên
trong làng có yên ổn hay ly loạn, thịnh hay suy đều phụ thuộc vào sự "bảo
trợ" ấy.
Việc mỗi làng có riêng một vị thần của mình đợc cả cộng đồng tôn
kính thờ phụng phản ánh một thực tế là mỗi cộng đồng làng có quyền lợi
kinh tế, chính trị và những truyền thống văn hóa, lịch sử riêng, làm nên cái
riêng của mỗi làng - cái "ta làng". Cái riêng của mỗi làng trong quan hệ với
29

×