Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.36 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




HÀ THỊ BẮC




PHÁT HUY GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM THỜI KỲ
ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT
NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY 7
1.1. Gia đình và hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam 7
1.1.1. Khái quát về gia đình và gia đình truyền thống Việt Nam 7
1.1.2. Đạo đức và giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam 20
1.1.3. Hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam 22
1.2. Đổi mới và hội nhập quốc tế - sự tác động của nó đến giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống Việt Nam 29
1.2.1. Đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay 29
1.2.2. Tác động của đổi mới và hội nhập quốc tế đến giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống Việt Nam 36
Chƣơng 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN
THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN
NAY 48
2.1. Gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện
nay 48
2.1.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay 48
2.1.2. Yêu cầu khách quan của việc phát huy những giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện
nay 68
2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát huy những giá trị
đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế 73
2.2.1. Phương hướng 73
2.2.2. Những giải pháp 79
KẾT LUẬN 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chưa bao giờ vấn đề gia đình lại được nhiều người, nhiều giới, nhiều
quốc gia quan tâm như hiện nay. Ở nước ta, quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế đang tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với
việc xây dựng gia đình và phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền
thống Việt Nam.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển
cùng với những chuẩn mực giá trị của gia đình truyền thống Việt Nam nhưng
dưới tác động của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam
đang có những biến đổi một cách mạnh mẽ. Sự biến đổi ấy là một quá trình
thống nhất, liên tục vừa bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị tích cực
của gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và cải biến những
giá trị của gia đình hiện đại. Có thể nói, gia đình Việt Nam hiện nay chính là
sản phẩm của sự hiện đại hoá các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam
và truyền thống hoá những tinh hoa của gia đình hiện đại. Nhiều giá trị của
gia đình hiện đại được thế giới tạo ra trong quá trình xây dựng nền văn hoá
mới, gia đình mới cũng đã được các gia đình Việt Nam tiếp thu và đang góp
phần làm thay đổi diện mạo của đất nước, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội.
Trong quá trình diễn ra những biến đổi của gia đình, có những giá trị
của gia đình truyền thống sẽ bị mất đi; lại có những giá trị đang biến đổi dần
dần, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới và cũng có những giá trị quý
báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn được bảo tồn và phát huy như:
tình yêu lứa đôi trong sáng, lòng chung thuỷ, tình nghĩa vợ chồng; trách
nhiệm và sự hy sinh của cha mẹ với con cái; con cái hiếu thảo với cha mẹ,
ông bà, tổ tiên… đồng thời gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang tiếp nhận

nhiều giá trị của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng quan

2
niệm và sự lựa chọn của mỗi thành viên trong gia đình; tôn trọng lợi ích cá
nhân, bình đẳng nam nữ, vợ chồng…Điều đó cho thấy, gia đình Việt Nam
hiện nay đang được củng cố và xây dựng theo xu hướng hiện đại hoá: dân
chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ.
Cùng với những cơ hội đang thúc đẩy sự tiến bộ của gia đình Việt Nam
thì quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế cũng đang đặt gia đình Việt Nam
đứng trước rất nhiều thách thức, biến động và bất trắc, có nguy cơ xâm hại và
làm mai một những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống. Trên thực tế ở
nhiều nơi, nhất là những khu đô thị lớn, gia đình đang có những dấu hiệu của
sự khủng hoảng, những giá trị của gia đình truyền thống tốt đẹp đang bị lấn át
bởi sự thao túng của đồng tiền, lối sống lai căng, thiếu văn hoá, tình trạng ly
hôn có xu hướng tăng cao; sống chung không kết hôn; tình trạng trẻ em
nghiện hút; tệ nạn mại dâm; tình dục đồng giới; bạo lực gia đình; ngoại tình…
đang tấn công vào gia đình từ nhiều phương diện khác nhau. Có một thực tế
đang đặt ra, nhiều gia đình đang lúng túng trong việc nuôi dạy, giáo dục con
cái, hướng con cái vào những giá trị đạo đức cổ truyền thì xem ra lỗi thời,
không thích hợp; hướng con cái vào các giá trị hiện đại thì chưa được xác
định rõ ràng… nhiều gia đình chỉ biết dạy con theo kinh nghiệm của mình; bộ
phận khác lại hướng con cái theo suy nghĩ, lối sống hiện đại đang được du
nhập vào nước ta thông qua quá trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, không ít
gia đình lại phó thác việc giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội… dẫn
đến những hệ quả tiêu cực đối với việc xây dựng gia đình, giáo dục và định
hình nhân cách cho thế hệ trẻ đang lớn lên và đang hàng ngày, hàng giờ chịu
tác động bởi kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế. Tình hình đó đòi
hỏi chúng ta cần phải xác định rõ những tác động của quá trình đổi mới và hội
nhập quốc tế đến gia đình Việt Nam nói chung và các giá trị gia đình truyền
thống Việt Nam nói riêng để giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp ấy

trong xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay. Do đó, việc lựa chọn vấn đề

3
“Phát huy giá trị gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam
thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình
dưới nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận văn có
thể phân chia các công trình này thành các nhóm cơ bản sau:
- Nhóm vấn đề chung về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam có
một số công trình như : “Gia đình Việt Nam ngày nay” NXB. Khoa học xã
hội, 1996; “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê
Thi, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Suy nghĩ về việc xây dựng chiến
lược phát triển gia đình hiện nay” của Lê Thị Quý, Tạp chí Cộng sản, số 30 -
2003; “Cuộc sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay ”
của GS. Lê Thi, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Gia đình học” của
Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý, NXB. Chính trị - Hành chính, Hà Nội,
2009… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát một cách có hệ thống
về sự biến đổi quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình… trong công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
- Nhóm vấn đề quan hệ giới và sự bất bình đẳng, bạo lực gia đình, có
một số công như: “Một số vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay” của Lê Thị
Quý, Tạp chí Khoa học và Phụ nữ, số 4 - 1991; “Bất bình đẳng nam nữ nhìn
từ góc độ lịch sử” của Lê Thị Quý, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 32 - 1998;
“Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới Việt Nam”, NXB. Phụ nữ, Hà Nội,
1998; “Bạo lực gia đình - Bất bình đẳng trong quan hệ giới” của Lê Thị Quý,
Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 42 - 2000; “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch
giá trị”, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007… Qua các công trình này, các
tác giả đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, ảnh hưởng và hậu quả của sự bất


4
bình đẳng giữa các thành viên, nạn bạo lực gia đình đang diễn biến nghiêm
trọng, tác động xấu đến gia đình và xã hội ở nước ta hiện nay.
- Nhóm vấn đề tiếp cận và nghiên cứu gia đình dưới góc độ văn hoá,
đạo đức có một số công trình như: “Nho giáo và gia đình”, NXB. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1995; “Xây dựng gia đình văn hoá trong sự nghiệp đổi mới”,
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Văn hoá gia đình và xây dựng gia
đình văn hoá trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của Th.s Trần Thị Tuyết Mai,
Tạp chí Cộng sản, số 161 - 2008… Qua các công trình này, các tác giả đã
khái quát được những giá trị văn hoá của gia đình, chỉ ra sự cần thiết phải xây
dựng văn hoá gia đình và gia đình văn hoá ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài một số công trình nêu trên còn có các luận án, luận văn nghiên
cứu về gia đình, về đạo đức gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình như:
“Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay ” của
TS. Lê Ngọc Văn; “Sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đến đạo đức gia đình truyền thống ở Việt Nam” của ThS Nguyễn Thị
Thọ… Tuy nhiên, các công trình nêu trên chỉ đề cập một cách khái quát hoặc
một số khía cạnh của gia đình, cho đến nay còn rất thiếu những công trình
nghiên cứu cơ bản và hệ thống về việc phát huy những giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống để xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở xác định hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt
Nam, luận văn khẳng định sự cần thiết phải phát huy những giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống, đồng thời chỉ ra phương hướng, giải pháp để kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức ấy trong xây dựng gia đình Việt Nam
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.


5
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, xác định hệ giá trị của gia đình truyền thống Việt Nam và sự
tác động của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế đến hệ giá trị gia đình
truyền thống Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, làm rõ yêu cầu khách quan cần kế thừa, phát huy các giá trị
đạo đức tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt
Nam.
Thứ ba, nêu lên phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy những giá trị tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những giá trị gia đình
truyền thống Việt Nam và phát huy các giá trị tích cực của gia đình truyền
thống Việt Nam trong xây dựng gia đình hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu về những giá trị đạo
đức của gia đình truyền thống mà ngày nay vẫn có ý nghĩa tích cực trong xây
dựng gia đình thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta trong những năm
gần đây.
5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, chú ý tính
chính trị - xã hội của vấn đề nghiên cứu, trong đó có sự kết hợp với các
phương pháp như lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh…để làm sáng
tỏ vấn đề nghiên cứu.

6
6. Đóng góp của luận văn

* Đóng góp mới về mặt khoa học
Luận văn góp phần làm rõ hơn hệ giá trị đạo đức tích cực của gia đình
truyền thống Việt Nam, từ đó đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm
phát huy các giá trị tích cực của gia đình truyền thống trong xây dựng gia
đình Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ và sâu sắc hơn những giá trị gia đình truyền thống và
sự tác động của đổi mới, hội nhập quốc tế đối với hệ giá trị của gia đình
truyền thống trong xây dựng gia đình, từ đó đề xuất một số phương hướng và
giải pháp xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có
liên quan đến gia đình; là cơ sở giúp các gia đình ở Việt Nam hiện nay nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị của gia
đình truyền thống trong việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết.
Chƣơng 1. Giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay
Chƣơng 2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
giá trị đạo đức gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện
nay

7
Chƣơng 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

1.1. Gia đình và hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam

1.1.1. Khái quát về gia đình và gia đình truyền thống Việt Nam
* Khái quát về gia đình:
Trong cuộc đời mỗi người, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn,
là cái nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho mỗi người và xã
hội. Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy,
trong suốt tiến trình xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, bao giờ các Ông
cũng dựa vào những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện thực này thường
được các Ông sử dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu,
mổ xẻ các quá trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các
xu hướng vận động và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được
biểu hiện một cách cụ thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù
con người, phạm trù sở hữu, Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù
này đều có liên quan đến phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các
Ông, gia đình là tế bào của xã hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ
sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc
đào tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ
giải quyết vấn đề sở hữu. Và, ngược lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải
tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo dục và đào tạo, đều tác động trở lại
gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình thức và kết cấu của gia đình.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề gia đình như vậy, nên trong
các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã không ít đề cập tới vấn đề
gia đình. Các Ông đã xem xét gia đình với tư cách một xã hội thu nhỏ, các
hình thức lịch sử của gia đình, nhất là gia đình với sự xuất hiện của sở hữu tư

8
nhân về tư liệu sản xuất; nghiên cứu mối quan hệ giữa gia đình và nhà nước,
sự khác biệt giữa gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và gia đình dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa tương. Không những thế, các Ông còn nghiên cứu gia
đình trong quan hệ tính giao - vấn đề trong hôn nhân, và gia đình với tư cách
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội.

Có thể nói, vấn đề gia đình trong di sản lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ lại dừng ở khái niệm "gia đình" thuần túy, mà còn
khám phá nguồn gốc gia đình, tác động của gia đình tới xã hội và ảnh hưởng
của những biến đổi xã hội tới gia đình, đặc biệt là ảnh hưởng của sự biến đổi
kinh tế, của tiến trình công nghiệp hoá.
Trong Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ con người đã được
hình thành trong lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa con
người với tự nhiên, phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu tự
nhiên để tồn tại và cũng để nhằm thỏa mãn những nhu cầu không ngừng nảy
sinh của con người. Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất, phản ánh các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối
sản phẩm lao động. Quan hệ thứ ba là quan hệ gia đình. Cũng theo các Ông,
ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn tại bên nhau.
Nhờ những nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen về các hình thức gia đình,
chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn nội dung của lực lượng sản xuất (quan hệ thứ
nhất), nội dung của quan hệ sản xuất (quan hệ thứ hai) và ngược lại. Khi nhấn
mạnh vai trò của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng, thực ra, gia đình là “quan hệ
xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội. Nhờ quan hệ thứ ba này,
với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các
quan hệ xã hội khác. Theo ý nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình

9
sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội và khi xã
hội loài người được hình thành thì những hoạt động của nó thường xuyên tác
động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình thức, cấu trúc cũng như
vai trò của nó đối với xã hội. Chính vì vậy, các Ông luôn đòi hỏi nghiên cứu
gia đình, nghiên cứu lịch sử loài người phải gắn liền với lịch sử của công

nghiệp và của sự trao đổi sản phẩm.
Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con
người, C. Mác đã viết: “Hằng ngày khi tái tạo ra đời sống bản thân mình, con
người bắt đầu tái tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [25, tr.41]. Với quan
niệm này gia đình được nhìn nhận với một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã
hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì
đồng thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở ra con
người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái).
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) C.Mác và Ph.Ăngghen
đã cho rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện đại - nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất mới đã dần xóa bỏ toàn bộ hệ
thống công trường thủ công, đã thay đổi sự phân bố dân cư và kết cấu ngành
nghề của xã hội và do vậy, sự "yên ấm” của từng gia đình cũng bị phá vỡ theo
dòng xoáy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ thế, nó còn làm thay
đổi vị trí và điều kiện sinh sống của gia đình, thay đổi nhu cầu thưởng thức
những giá trị vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong gia đình. Nếu
trước đây, nhu cầu tiêu dùng được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong
nước, thì nay đã nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng

10
những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về và một khi “sản xuất
vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”, nó làm
cho những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản
chung của tất cả các dân tộc. Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo ra
một chế độ xã hội và chính trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở

hạ tầng mới. Nó xóa bỏ mọi phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo
dựng; nó "tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay
vẫn được trọng vọng và tôn sùng" [26, tr.600]; nó biến đổi cả quan hệ gia
đình vốn được xem là thiêng liêng nhất, "xé toang tấm màn tình cảm bao phủ
những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan
hệ tiền nong đơn thuần" [26, tr.600].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã
khẳng định, với sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thì không
chỉ các quan hệ xã hội, mà cả quan hệ gia đình cũng đã bị thay đổi.
Tiếp tục nghiên cứu về gia đình, trong một tác phẩm chuyên khảo đặc
biệt có giá trị Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884),
Ph. Ăngghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội,
Ông chỉ ra rằng: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử,
quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt:
thực phẩm, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những
thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống.
Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử
nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết
định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình
độ phát triển của gia đình” [27, tr.414]. Theo Ph. Ăngghen, quá trình sản xuất
và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố quyết định tiến trình phát triển
của lịch sử; cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát triển của

11
gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội, đồng thời đến lượt mình
trình độ phát triển của gia đình cũng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sản
xuất, của lao động và của xã hội.
Thực tế đã chứng minh rằng, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về hôn nhân và gia đình đã và đang được thực tiễn chứng minh

là hoàn toàn có cơ sở khoa học, có giá trị thực tiễn cao, nhất là những tư
tưởng về những biến đổi của gia đình phụ thuộc và gắn liền với sự biến đổi
của các điều kiện kinh tế - xã hội nhưng có tác động quan trọng đối với những
biến đổi kinh tế - xã hội ấy.
Trên thế giới, hiện tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với cấu trúc và
chức năng khác nhau, do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa chung và khoa
học về gia đình. Ở Việt Nam, từ xưa đến nay, gia đình, đặc biệt là gia đình
truyền thống không chỉ là cộng đồng mà còn cộng cảm, tính xã hội đặc biệt
của gia đình là ở đó. Căn cứ vào thực tiễn của hôn nhân và gia đình ở nước ta,
GS. Lê Thi đã đưa ra quan niệm về gia đình: “Khái niệm gia đình được sử
dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ
hàng nội ngoại) cùng chung sống. Đồng thời gia đình có thể bao gồm một số
người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành
viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm, quyền lợi (kinh tế, văn hoá,
tình cảm), giữa họ có những điều kiện ràng buộc có tính pháp lý, được nhà
nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hôn nhân và gia đình nước
ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép
và cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [39, tr.7].
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về gia đình, mỗi khái niệm đều nhằm
mục đích khái quát lên những yếu tố cơ bản, đặc thù. Sau đây là một số khái
niệm:

12
a. Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành một đơn vị
nhỏ nhất trong xã hội, họ gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng
máu, thường gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái.
b. Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà có
quan hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung.
c. Theo Levi strauss thì gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi

ba đặc điểm nổi bật là: bắt nguồn từ hôn nhân bao gồm vợ chồng, con cái phát
sinh từ sự hôn phối của đôi nam nữ, tuy nhiên trong gia đình có mặt của
những người họ hàng, bà con hoặc con nuôi, họ gắn bó với nhau bởi các
nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế và về sự cấm đoán tình dục giữa các
thành viên.
Hướng tới xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên
hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và thống nhất
khẳng định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của
xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần
được giữ gìn và phát huy. Trên tình thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa về
gia đình: Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng chung sống
và có ngân sách chung.
Trong thời đại ngày nay, trước yêu cầu của phát triển, đổi mới và hội
nhập quốc tế là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với mọi dân tộc, mọi quốc
gia dân tộc trong đó có Việt Nam. Trong quá trình này, không thể không xét
đến mối quan hệ của nó đối với vấn đề gia đình và do vậy, không thể không
vận dụng lý luận về gia đình trong kho tàng lý luận của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác. Nghiên cứu quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là mối quan hệ giữa gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen không những
giúp cho chúng ta thấy được tác động của quá trình cải tạo và phát triển kinh
tế - xã hội, thấy được những khuynh hướng biến đổi tất yếu của gia đình, mà

13
còn giúp chúng ta nhận thức được vai trò của gia đình đối với sự nghiệp đổi
mới và mở rộng hợp tác quốc tế của nước ta hiện nay. Đó là vai trò của gia
đình trong việc trang bị tri thức mới cho thế hệ lao động tương lai, trang bị
những hiểu biết căn bản về những giá trị và văn hóa đạo đức; nâng cao nhận
thức về sự cần thiết phải bảo vệ những ngành, nghề truyền thống trước những
tác động tiêu cực do mặt trái kinh tế thị trường gây ra.

Chúng ta đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hóa, đồng thời cũng có những thách thức nghiệt ngã cần phải vượt qua,
trong đó có thách thức về xây dựng gia đình Việt Nam, gìn giữ và phát huy
những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, đáp ứng những đòi hỏi ngày
càng cao của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập quốc tế.
Không thể phủ nhận được vai trò to lớn và rất quan trọng của gia đình
trong đời sống xã hội. Các tế bào cấu thành xã hội ấy vẫn còn và sẽ còn là
nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
Từ quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về gia đình trong mối quan
hệ với sự phát triển kinh tế -xã hội, có thể khẳng định chủ trương đó của Đảng
ta là định hướng chiến lược không chỉ đối với việc xây dựng gia đình Việt
Nam mới, mà còn đối với việc phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
* Gia đình truyền thống Việt nam:
- Khái niệm gia đình truyền thống: Nếu khái niệm gia đình khó xác
định trên diện rộng và rất đa dạng thì khái niệm “gia đình truyền thống” cũng
là một khái niệm khó xác định không kém, hơn nữa nó còn được ít người
nghiên cứu.
Gia đình truyền thống là một khái niệm mà các nhà nghiên cứu dùng để
chỉ loại gia đình đã hình thành và tồn tại trong quá khứ mà trong đó chứa
đựng nhiều yếu tố bền vững, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,

14
những yếu tố đó phản ánh nền văn hoá bản địa và tạo nên nét đặc sắc của văn
hoá dân tộc. Ở Việt Nam, gia đình truyền thống là một khái niệm mang nhiều
hàm nghĩa khác nhau. Trên thực tế, khái niệm này thường được hiểu chỉ là
một phần trong các ý nghĩa đó, chẳng hạn người ta có thể hiểu gia đình truyền
thống là gia đình Nho giáo hoặc gia đình phong kiến. Một số khác muốn nhấn
mạnh tinh thần dân tộc, muốn gạt yếu tố “Nho giáo” hoặc “phong kiến” ra

khỏi khái niệm gia đình truyền thống để đồng nhất gia đình truyền thống với
hình thái gia đình Việt Nam cổ, trước khi Nho giáo xâm nhập. Khi ấy gia đình
được coi là tổ ấm của mỗi người, trong đó sự thuỷ chung, lòng thương yêu và
ý thức trách nhiệm là những giá trị cơ bản. Khi nghiên cứu về gia đình truyền
thống, GS. Đỗ Thái Đồng đã đưa ra cách hiểu về gia đình truyền thống như
sau: “Gia đình truyền thống chắc hẳn là hình thái gia đình ở nông thôn, là gia
đình ở những xã hội nông nghiệp Á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất
biến trên nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là
một định chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền, sự nhất trí về khái niệm
gia đình truyền thống có lẽ chỉ giới hạn đến đó” [8, tr.72].
Như vậy, gia đình truyền thống có thể được hiểu là loại hình gia đình
gắn với nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông với đặc trưng sản xuất lúa nước, ít
biến đổi qua những thay đổi của lịch sử, tồn tại cho đến thế kỷ XIX (trước khi
tiếp xúc với phương Tây), đó là loại gia đình hạt nhân và nửa hạt nhân hoá
(gia đình mở rộng ba thế hệ), gia đình này gắn chặt với nền văn hoá cộng
đồng làng xã, với chế độ ruộng công phân chia định kỳ, là một đơn vị tổ chức
sản xuất nông nghiệp kết hợp với sản xuất thủ công và tiểu thương nghiệp, tự
thoả mãn các nhu cầu sống của các thành viên. Đó là gia đình phụ hệ, coi
trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và chịu ảnh hưởng rất lớn của Nho giáo, tuy
nhiên trong gia đình truyền thống Việt Nam, người phụ nữ vẫn được tôn
trọng, đây là sự chi phối của văn hoá bản địa và chịu sự tác động lớn của Phật

15
giáo… những tác động này đã làm mềm hoá các nguyên tắc cứng nhắc trong
Nho giáo cho phù hợp với tâm lý, lối sống của con người Việt Nam.
- Đặc điểm của gia đình truyền thống Việt Nam:
Đạo đức truyền thống của gia đình được hình thành và chịu sự quy định
trực tiếp từ những đặc điểm của gia đình truyền thống, đó là đặc điểm về kinh
tế xã hội, văn hoá gia đình và bản sắc văn hoá gia đình truyền thống.
Thứ nhất, đặc điểm kinh tế xã hội của gia đình : Gia đình truyền thống

là một đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp. Các hộ gia đình tự sản
xuất những sản phẩm tiêu dùng cho gia đình mình. Có thể nói, gia đình truyền
thống là một hộ nông - công - thương kết hợp trong đó nông nghiệp giữ vai
trò chủ đạo. Ngoài công việc cày cấy ra mỗi gia đình làm thêm một số nghề
thủ công như đan lát, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải để tạo ra sản phẩm tiêu
dùng cho cả gia đình.
Trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện sản xuất lạc hậu, công cụ thô sơ,
theo chế độ ruộng công phân chia định kỳ. Với đặc thù sản xuất lúa nước, có
sự phân công lao động cụ thể giữa đàn ông và đàn bà, thể hiện qua câu ca dao
sau:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa”.
Công lao đóng góp của cả đàn ông và đàn bà là như nhau trong việc tạo
ra sản phẩm nuôi sống cả gia đình. Trong gia đình thường quan niệm “của
chồng công vợ” do đó, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong quản lý các
sản phẩm và chi tiêu trong gia đình. Người đàn ông trong chế độ phụ hệ - Gia
trưởng là người chủ gia đình về hình thức nhưng lại không am hiểu tình hình
kinh tế của gia đình bằng người vợ. Vì thế, người đàn bà (người mẹ, người
vợ) là người quyết định mọi thứ chi tiêu và quản lí tiền bạc, tài sản trong nhà.
Trong gia đình truyền thống, người phụ nữ bị cột chặt vào lễ giáo phong kiến

16
nhưng mặt khác đã có những yếu tố dân chủ, bình đẳng như: tề gia nội trợ,
"tay hòm chìa khoá" hay "lệnh ông không bằng còng bà"…
Thứ hai, phong tục thờ cúng tổ tiên của gia đình truyền thống. Việc thờ
cúng tổ tiên chủ yếu được thực hiện ở nhà người con trai cả và nhằm vào tổ
tiên trực tiếp về phía cha (nội) trong phạm vi năm đời trở lại, những người
con thứ cũng thờ cúng ông bà nhưng đơn giản theo kiểu “thờ vong”, thờ từ
xa. Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt rất quan trọng, một số nhà
nghiên cứu đã cho rằng việc thờ cúng tổ tiên là một chức năng của gia đình

truyền thống. Để làm tốt nhiệm vụ này dẫn đến một yêu cầu tất yếu là việc nối
dõi tông đường. Điều đó có nghĩa là, việc thờ cúng tổ tiên chỉ thực hiện được
khi có con trai nên trong nội bộ gia đình, con trai được quý hơn con gái.
Người cha, người con trai cả, cháu đích tôn, giữ vị trí quan trọng hơn các
thành viên khác, con gái sẽ về nhà chồng nên coi là “ngoại tộc”, nếu như họ
ngoại có giúp đỡ và quan hệ mật thiết hơn thì kết quả vẫn là “ăn bên ngoại,
vái bên nội”. Con dâu, đặc biệt là người dâu trưởng có vị trí cao, nhưng địa vị
này chỉ được xác định khi đã sinh được con trai nối dõi. Phong tục thờ cúng
tổ tiên có tác động rất lớn đến đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Nó là sợi
dây nối kết các thành viên trong gia đình qua các thế hệ khác nhau với ý nghĩa
là nhớ ơn sinh thành của tổ tiên, lưu truyền nòi giống và mong cho tổ tiên phù
hộ cho con cháu.
Thứ ba, chi phối trực tiếp đến đạo đức truyền thống của gia đình là văn
hoá gia đình. Văn hoá gia đình truyền thống được thể hiện qua các hình thức sau:
Gia giáo là giáo dục gia đình. Đây là hình thức giáo dục, của gia đình
đối với các thành viên. Nội dung chủ yếu là giáo dục đạo đức, phẩm hạnh của
con người trong quan hệ với gia đình, xã hội. Đối với nam giới, gia giáo đặc
biệt chú ý đến giáo dục đạo lý luân thường. Luân có ngũ luân, đó là năm mối
quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè và trong đó, nhấn mạnh
tam cương là vua tôi, cha con, chồng vợ. Thường nghĩa là ngũ thường, là năm

17
đức tính cơ bản của con người gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đối với nữ giới,
thì gia giáo giáo dục đạo lý tam tòng, tứ đức. Tam tòng, đòi hỏi sự ngoan
ngoãn phục tùng từ lúc mới sinh ra cho tới lúc chết “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử”. Còn tứ đức là bốn phẩm chất cần có của phụ nữ,
công, dung, ngôn, hạnh.
Nhìn chung, gia giáo có nhiệm vụ giáo dục cá nhân ngay từ trong gia
đình để hình thành con người phù hợp với xã hội truyền thống trong đó đạo
đức là yếu tố đặc biệt được nhấn mạnh. Đạo đức được coi là cái gốc của con

người, là biểu thị giá trị xã hội của con người.
Gia lễ là lễ nghi gia đình. Gia lễ là sự quy định cách thức, nề nếp để
đảm bảo cho gia đình sinh hoạt theo đúng phép tắc, có lễ nghĩa phân minh
trên dưới rõ ràng. Lễ thường được diễn ra ở các hình thức sau: quan, hôn,
tang, tế. Quan là, lễ để trân trọng sự ra đời và trưởng thành của con người.
Hôn lễ là sự cưới vợ gả chồng. Tang là việc ma chay. Tế là việc cúng bái, thờ
phụng. Gia lễ không chỉ là nghi thức theo thói quen, phong tục mà gia lễ còn
được ghi chép thành sách để mọi người cùng xem và thực hiện.
Gia pháp là phép tắc (mang tính luật lệ) trong gia đình. Gia pháp là
những qui định nhằm ngăn ngừa, uốn nắn, trừng phạt những hành vi sai trái
của các thành viên trong gia đình. Đồng thời gia pháp cũng nhằm mục đích
bảo vệ và đề cao uy thế của gia trưởng, gìn giữ sự đoàn kết nhất trí trong nội
bộ gia đình hoặc để giữ những bí mật gia truyền. Gia pháp khẳng định sự
nghiêm khắc của cha đối với con, của anh đối với em. Gia pháp luôn được giữ
nghiêm, nếu không sẽ bị thiên hạ chê cười, phê phán. Gia pháp là một thứ luật
lệ bất thành văn, ai cũng phải biết, tôn trọng và tự giác tuân theo.
Gia phong là phong cách gia đình. Đây là nề nếp, lề thói mà người
trong gia đình đều phải noi theo trong lời ăn, tiếng nói, hành vi ứng xử trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia phong thể hiện bản sắc văn hoá của từng
gia đình và do gia giáo chi phối, nói đến gia phong là nói đến trật tự, kỷ

18
cương của gia đình, nói đến những tính chất đặc biệt của quan hệ gia đình với
nhiều thói quen, tập tục sinh hoạt. Một gia đình có gia phong lành mạnh là
con cháu phải giữ gìn được nề nếp của cha ông “giấy rách phải giữ lấy lề”
hoặc giữ tư cách gia đình “đói cho sạch, rách cho thơm” hoặc “trai thì trung
hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình”. Làm nhục gia phong là
phạm vào gia pháp và có thể bị trừng phạt nặng nề. Gia phong là nếp sống, là
niềm tự hào và lẽ sống của con người trong gia đình truyền thống.
Thứ tư, gia đình truyền thống Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa, tôn

trọng phụ nữ, truyền thống đề cao tính cộng đồng là những nét đặc sắc trong
truyền thống văn hoá gia đình Việt Nam.
Trọng tình nghĩa được thể hiện ở cách ứng xử đặt tình cảm lên trên
trong ứng xử ở gia đình cũng như ngoài xã hội. Đối với người Việt, gia đình
không phải là nơi của công bằng và sòng phẳng. Cha có thể ghét con, đối xử
không công bằng với con nhưng con không vì thế mà không yêu kính cha mẹ,
đạo làm con là phải tôn thờ cha mẹ, không dùng lẽ phải để phán xét các bậc
sinh thành, dưỡng dục mình. Trong quan hệ anh chị em phải thương yêu đùm
bọc lẫn nhau và không chỉ có sự tính toán thiệt hơn. Tình nghĩa là đặc điểm
bao trùm lên gia đình người Việt. Mặc dù gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng
rất lớn của nho giáo, nhưng trong gia đình, người phụ nữ vẫn có một vị trí
đáng kể. Người Việt vốn có truyền thống tôn trọng phụ nữ từ trong nhà ra đến
ngoài ngõ. Trong cuộc sống đời thường (trong nhà đàn bà được coi là nội
tướng), đến đời sống tâm linh (quan niệm “phúc đức tại mẫu”) và tín ngưỡng
tôn giáo thờ mẫu.
Tôn trọng phụ nữ không phải là quan niệm tự thân mà xuất phát từ đời
sống cộng đồng của người Việt, từ điều kiện sản xuất nông nghiệp trồng lúa
nước đòi hỏi sự phân công lao động giữa vợ và chồng đến vai trò “tề gia nội
trợ” của người phụ nữ và cả do hoàn cảnh thường xuyên xảy ra chiến tranh
đàn ông ra trận, đàn bà lo toan việc nhà. Chính vai trò của người phụ nữ trong

19
gia đình đã làm cho gia đình Việt Nam chính thống khác với gia đình nho
giáo chính thống. Gia đình nho giáo khẳng định quyền uy của người chồng,
người cha. Người đàn ông gia trưởng là người chủ duy nhất trong nhà đồng
thời cũng là người đại diện cho gia đình trong quan hệ với xã hội. Còn gia
đình truyền thống Việt Nam, đặt địa vị chủ gia đình vào người chồng, người
cha nhưng chủ yếu trong quan hệ với dòng họ, làng xã, ở nhà người phụ nữ là
người quán xuyến, quyết định mọi việc. Người chồng chỉ là người quyết định
cuối cùng để giữ thể thống, nề nếp trong gia đình mà thôi: Điều này đã nâng

địa vị người phụ nữ trong gia đình cao hơn một bậc so với quan niệm của nho
giáo. Có thể hình dung sự khác biệt ấy như sau: nho giáo trọng chồng, trọng
cha còn người Việt cũng trọng chồng, trọng cha nhưng cũng trọng vợ, trọng
mẹ. Địa vị của người phụ nữ đã làm nên một bản sắc độc đáo của gia đình
truyền thống Việt Nam.
Tinh thần cộng đồng thể hiện ở sự hoà tan của các cá nhân vào trong
gia đình, địa vị, uy tín cá nhân được quy định bởi địa vị, uy tín gia đình, do đó
trong xã hội không có con người cá nhân với nhân cách độc lập và càng
không thể có cá nhân đứng ngoài gia đình. Những cá nhân đứng ngoài gia
đình thường chỉ là những đứa con bất hiếu, bất trung hoặc làm những điều tổn
hại cho danh dự, gia phong và bị gia đình ruồng bỏ.
Cơ sở xuất phát của tính cộng đồng trong gia đình người Việt chính là
từ hôn nhân và từ tính cộng đồng làng xã mà nguồn gốc của nó là do tục thờ
thành hoàng (vị thần phù hộ cho cả làng, là biểu tượng sự thống nhất vận
mệnh cộng đồng) cùng với lợi ích kinh tế, tinh thần do làng xã mang lại (sự
phân chia ruộng công theo định kỳ, các nghĩa vụ cho làng nước, sự tương trợ
khi gặp khó khăn hoạn nạn).
Đối với người Việt, nói đến gia đình là nói ngay đến cộng đồng, và cái
cộng đồng ấy không chỉ bao gồm những người đang sống mà còn cả những

20
người đã chết và những người sẽ sinh ra. Chính vì lẽ đó, gia đình truyền thống
rất coi trọng thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đường.
Tính cộng đồng trong gia đình không chỉ là điều kiện để gia đình tồn tại
mà còn là phong cách sống của người Việt. Người Việt thích sống trong gia
đình và có gia đình, rất sợ sống xa gia đình, sợ sự chia ly. Sống xa nhà, xa quê
hương, bơ vơ đất khách quê người là một bất hạnh lớn. “Sẩy nhà ra thất
nghiệp” là quan niệm nẩy sinh từ tính cộng đồng đó.
Trên đây là một vài đặc điểm thể hiện bản sắc dân tộc đậm đà của gia
đình truyền thống. Bản sắc đó được hình thành từ rất sớm và được củng cố,

ổn định, bền vững cùng với sự phát triển của dân tộc Việt Nam.
1.1.2. Đạo đức và giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh những quan hệ xã hội hiện
thực, hình thành từ trong cuộc sống nhằm điều chỉnh hành vi của con người,
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng
đồng xã hội sao cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Đạo đức là một
phạm trù thuộc về đời sống tinh thần. Trong triết học, đạo đức được coi là
một trong những hình thái ý thức xã hội.
Trong hiện thực, hành vi đạo đức của con người chỉ có thể diễn ra trong
các mối quan hệ cụ thể khi các chủ thể đạo đức ý thức một cách đầy đủ về
mối quan hệ ấy và tự nguyện hành động vì lợi ích và hạnh phúc chân chính
của con người vì yêu cầu của tiến bộ xã hội. G.Bandzeladze - một nhà đạo
đức học Xô viết trước đây cho rằng: “Đạo đức là một hệ thống những chuẩn
mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của những con người trong
quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung. Bản chất của đạo
đức là sự quan tâm tự giác của những con người đến lợi ích của nhau, đến lợi
ích của xã hội”.
Hiện nay, khái niệm đạo đức thường được sử dụng là khái niệm của
nhà nghiên cứu đạo đức học Trần Văn Kiên đưa ra: “Đạo đức là một hình thái

21
ý thức xã hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm,
những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và
sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
cá nhân với xã hội” [15, tr.6].
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, phản
ánh các quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp nhất định. Vì vậy, mỗi giai đoạn lịch
sử, mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ tương ứng với một nền đạo đức
khác nhau. Tuy nhiên, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức

không chỉ mang tính lịch sử, tính giai cấp mà còn mang tính kế thừa trong sự
phát triển của ý thức xã hội. Tức là, bên cạnh bộ phận đạo đức đặc trưng của
mỗi thời đại, phản ánh quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đương thời còn một bộ
phận đạo đức truyền thống của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần làm nên bản sắc độc đáo của mỗi dân
tộc trong quá trình phát triển.
Khi bàn về giá trị truyền thống, giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng “Giá
trị truyền thống của một dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn mà con
người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để
phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng, nhằm xây dựng độc lập, tự do và
tiến bộ của dân tộc đó… Những giá trị truyền thống không có sẵn, không nhất
thành bất biến, nó do con người sáng tạo, xây dựng lên và đến lượt nó trở lại
điều chỉnh, định hướng những suy nghĩ, hành vi, sự hoạt động của con người”
[9, tr.50-51].
Theo giáo sư Nguyễn Tài Thư, “nói đến giá trị là nói đến cái có ích, có
lợi cho nhân dân, cho dân tộc, cho sự phát triển của xã hội, nói đến những gì
có thể thỏa mãn được nhu cầu và lợi ích của con người trong lịch sử. Giá trị
văn hóa tinh thần của dân tộc là những tư tưởng, những quan niệm, những ý

22
niệm, những thành tựu văn hóa đã có tác dụng thúc đẩy sự đi lên của lịch sử
và phục vụ cho lợi ích và nhu cầu của nhân dân, đất nước” [50, tr.136].
Đạo đức truyền thống được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, môi trường
khác nhau trong đó đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam có nhiều nét
đặc sắc mà ngày nay cần phải có thái độ trân trọng và kế thừa. Đạo đức truyền
thống của gia đình là hệ thống những quan niệm, chuẩn mực đạo đức về hôn
nhân và gia đình được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó có thể
còn phù hợp hoặc không phù hợp với xã hội mới. Do đó, khi sử dụng khái
niệm giá trị đạo đức truyền thống của gia đình là nói đến quan niệm, qui tắc,
chuẩn mực đạo đức truyền thống của gia đình vẫn còn phù hợp với ngày nay

và là các giá trị đạo đức cần phải kế thừa, phát huy.
1.1.3. Hệ giá trị đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là một vấn đề lớn,
một hệ giá trị gồm nhiều giá trị trong những lĩnh vực khác nhau. Trong đó,
giá trị đạo đức gia đình truyền thống là một bộ phận trong giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc ta. Nó bao gồm một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Giá trị đạo đức trong quan hệ vợ chồng
Trong xã hội truyền thống, quan hệ vợ chồng được bắt đầu từ hôn nhân,
hôn nhân là việc hệ trọng, là công việc của cả gia đình mà trước tiên là cha
mẹ. Hôn nhân được tiến hành theo quy tắc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, do
đó, hôn nhân trước hết là sự thể hiện trách nhiệm của cá nhân đối với gia
đình, dòng họ, tổ tiên. Theo quan niệm đó, trong xã hội truyền thống tình yêu
dường như không có chỗ đứng, nam nữ đến với nhau không phải xuất phát từ
sự rung động của con tim. Tình yêu không phải là cơ sở của hôn nhân thì
trong quan hệ vợ chồng của gia đình truyền thống tình nghĩa lại bù đắp cho sự
thiếu hụt đó, nó thể hiện ở nghĩa vợ chồng trước hết xuất phát từ tinh thần
trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, với gia đình, dòng họ, tình nghĩa vợ
chồng được hình thành rất tự nhiên, bắt nguồn từ sự chung lưng đấu cật trong

23
cuộc sống vất vả hàng ngày. Bởi vậy trong dân gian đã đúc kết nhiều câu tục
ngữ, ca dao ca ngợi nghĩa vợ chồng:
“Đôi ta là nghĩa tao khang
Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau”
Nghĩa vợ chồng đã gắn kết họ lại với nhau, dù có nghèo khổ, đói rách
nhưng vẫn vui vầy, hạnh phúc:
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Hoặc:
“Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người”.
Hay:
“Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam”
Có thể nói, giá trị nổi bật của gia đình truyền thống trong quan hệ vợ
chồng đó là lòng chung thuỷ, nó được coi là nền tảng để xây dựng gia đình
êm ấm, hạnh phúc. Tuy nhiên lòng chung thuỷ được đề cập trong quan hệ vợ
chồng chủ yếu chỉ đặt ra với người vợ. Người chồng có thể nhiều thê thiếp
nhưng người vợ chính chuyên chỉ có một chồng. Phụ nữ nói chung, người vợ
nói riêng, trinh tiết và đức hạnh là những tiêu chuẩn đầu tiên, những phụ nữ
một lòng một dạ với chồng, chẳng may chồng chết phải ở vậy nuôi con, thờ
chồng thì được coi là người có đức hạnh, nhà vua sẽ ban “Tiết hạnh khả
phong” cho những phụ nữ ấy để làm gương cho mọi người noi theo, ngược lại
nếu không chồng mà chửa hoang hoặc ngoại tình thì bị khinh rẻ, xa lánh, kỳ
thị thậm chí còn phải gánh chịu những hình phạt nặng nề.
Trong gia đình truyền thống về nguyên tắc quan hệ vợ chồng là bất
bình đẳng trong đó đề cao địa vị độc tôn của người đàn ông, tư tưởng phụ

×