Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

một số vấn đề về việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.98 KB, 38 trang )

Phần I: Lời mở đầu
Trong những năm qua, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế
theo cơ chế thị trờng định hớng Xã hội chủ nghĩa và đã đạt đợc những thành tựu to
lớn trên mọi phơng diện. Hòa chung với công cuộc đổi mới, lĩnh vực tài chính - tiền
tệ cũng đã có những cải tổ sâu sắc về tổ chức bộ máy cũng nh về nghiệp vụ để phù
hợp với cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trờng. Vì vậy chính sách tiền tệ đã đợc sử
dụng tối đa trong quá trình điều hành và phát triển kinh tế bởi lẽ chính sách tiền tệ
không những là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng của nhà nớc trong
nền kinh tế thị trờng mà nó còn ảnh hởng lớn đến các biến số vĩ mô nh: công ăn việc
làm, tốc độ tăng trởng, lạm phát Do vậy, để đạt đợc các mục tiêu của chính sách
tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản và quyết định.
Việt Nam, kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ; đặc biệt là các công cụ
của nó đang từng bớc hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh
tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử
dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thờng xuyên
phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh
tế trong nớc và quốc tế nh hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là
các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về
chính sách tiền tệ, em quyết định chọn đề tài: Một số vấn đề về việc Sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
Nội dung, đối tợng, phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ hệ thống hoá những vấn đề
có tính lý luận về chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trờng đồng thời qua việc
khảo sát quá trình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam (từ năm
1989 đến nay) nhằm đánh giá thực trạng sử dụng, điều hành các công cụ đó, trên cơ
sở đó đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Phơng pháp nghiên cứu: Lấy phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
làm phơng pháp luận cơ bản kết hợp với quan điểm tiếp cận hệ thống và sử dụng các
phơng pháp thống kê, phơng pháp so sánh, phơng pháp phân tích tổng hợp cùng các


phơng pháp nghiên cứu kinh tế khác.
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chơng đợc bố
cục nh sau:
Ch ơng 1 : Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ quốc gia
Ch ơng 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam hiện nay.
Ch ơng 3: Định hớng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ
ở Việt Nam.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thùy Dơng đã tận tình
giúp đỡ em hoàn thành đề án này.

Phần II: Nội dung
2
Chơng i: lý thuyết chung về chính sách tiền tệ quốc gia
1.1 Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ
1.1.1 Khái niệm: Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do
NHTƯ khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt
các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền; tạo công ăn việc làm; tăng trởng kinh tế.
Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng:
Chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, giảm thất nghiệp nhng lạm phát tăng - chính sách tiền tệ chống thất nghiệp)
hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu t vào sản
xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhng thất nghiệp tăng - chính sách tiền tệ
ổn định giá trị đồng tiền)
1.1.2 Vị trí: Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nớc thì
chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực
tiếp vào lĩnh vực lu thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác nh chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh
tế đối ngoại.
Đối với NHTƯ, việc hoạch định và thực thi các chính sách tiền tệ là hoạt

động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc
gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ (3 mục tiêu)
1.2.1 ổn định giá trị đồng tiền: NHTƯ thông qua CSTT có thể tác động
đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nớc mình. Giá trị đồng tiền ổn định đợc
xem xét trên 2 mặt: sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ
trong nớc) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với ngoại tệ). Tuy
vậy, CSTT hớng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng 0
3
vì nh vậy nền kinh tế không thể phát triển đợc, để có một tỷ lệ lạm phát giảm thích
hợp phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
1.2.2 Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hởng trực
tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh
và từ đó ảnh hởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp
giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
1.2.3 Tăng trởng kinh tế: Tăng trởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho
nhịp độ tăng trởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan
trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt đ-
ợc khi kết quả hai mục tiêu trên đạt đợc một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu: Chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ
nhau, không tách rời. Nhng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có
thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậyđể đạt đợc các mục tiêu trên
một cách hài hoà thì NHTƯ trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với
các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia
1.3.1 Dự trữ bắt buộc
Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các Ngân hàng phải giữ lại,
do NHTƯ qui định, gửi tại NHTƯ, không hởng lãi, không đợc dùng để đầu t, cho vay
và thông thờng đợc tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng

để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng trực tiếp đến
số nhân tiền tệ (m = 1+s/(s+ER+RR)) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.
Trong đó với: + m: số nhân tiền tệ.
+ s: tỷ lệ giữa tiền mạt trong lu thông so với tiền gửi.
+ ER: dự trữ vợt quá
+ RR: dự trữ bắt buộc
4
Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các
NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lợng cung
ứng tiền giảm (tăng).
Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nớc nên giúp
NHTƯ chủ động trong việc điều chỉnh lợng tiền cung ứng và tác động của nó cũng
rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lợng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hởng tới một l-
ợng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực
hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hởng không tốt tới hoạt động
kinh doanh của các NHTM.
1.3.2 Chính sách tái chiết khấu
Khái niệm: Đây là hoạt động mà NHTƯ thực hiện cho vay ngắn hạn đối
với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái
chiết khấu (đối với thơng phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết khấu (cửa sổ chiết
khấu).
Cơ chế tác động: Khi NHTƯ tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế
(khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTƯ làm cho khả năng cho vay của
các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).
Mặt khác khi NHTƯ muốn hạn chế các NHTM vay chiết khấu của mình thì thực
hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nớc có thị trờng cha phát triển (thơng phiếu cha phổ biến
để có thể làm công cụ tái chiết khấu) thì NHTƯ còn thực hiện nghiệp vụ này thông
qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.

Đặc điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTƯ thực hiện vai trò là ngời
cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán,
và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác
động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu t đối với nền kinh tế thông qua việc u đãi tín
dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, hiệu qủa của công cụ này còn phụ thuộc vào
hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm
méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trờng.
5
1.3.3 Nghiệp vụ thị trờng mở
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTƯ thực hiện
trên thị trờng mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lợng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động: Khi NHTƯ mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số
tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trờng mở chỉ gồm NHTƯ và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm
thay đổi lợng tiền dự trữ của các NHTM (R), nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ
làm thay đổi ngay lợng tiền mặt trong lu thông (C).
Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trờng nên đây đợc coi là một
công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lợng chứng khoán mua
(bán) tỷ lệ với qui mô lợng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ
đảo ngợc tình thế. Tuy vậy, vì đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn
phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trờng và mặt khác để công cụ này
hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lợng tiền cung ứng,
trong một nền kinh tế, nếu NHTƯ sử dụng có hiệu quả các công cụ này thì sẽ không
cần đến bất cứ một công cụ nào khác. Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các
quốc gia đang phát triển; các giai đoạn kinh tế quá nóng) thì để đạt đợc mục tiêu
của mình, NHTƯ có thể sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp sau.
1.3.4 Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm: là việc NHTƯ quy định tổng mức d nợ của các NHTM không
đợc vợt quá một lợng nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để thực hiện

vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn
nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trởng, lạm phát,
tiêu thụ ) sau đó NHTƯ sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay
vợt quá hạn mức do NHTƯ quy định.
Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lợng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lợng hạn mức tín dụng cho nền kinh
tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
6
Đặc điểm: Giúp NHTƯ điều chỉnh, kiểm soát đợc lợng tiền cung ứng khi
các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong
những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song
nhợc điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm
hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài
sự kiểm soát của NHTƯ và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc
phát triển kinh tế tăng lên.
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM
Khái niệm: NHTƯ đa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất
cho vay để hớng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hởng tới
qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt đợc quản lý mức cung tiền của
mình.
Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hớng tăng hay giảm sẽ
ảnh hởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lợng tiền
cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm: Giúp cho NHTƯ thực hiện quản lý lợng tiền cung ứng theo mục
tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi cha có điều kiện để phát
huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song nó dễ làm mất đi tính khách quan của
lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là giá cả của vốn do vậy nó phải đợc
hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay
đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt
động kinh doanh của mình.

Chơng II: Thực trạng việc sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiên chính sách tiền tệ
7
Kể khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì quá trình thực hiện
chính sách tiền tệ cũng đợc xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và
phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
- Cách xác định lợng tiền cung ứng: Nếu nh trong thời kỳ bao cấp chúng ta
chỉ quan niệm lợng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung
là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về
lợng tiền cung ứng đã thay đổi: bên cạnh lợng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo
tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lợng tiền cung ứng hàng
năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ớc tính, tốc độ tăng trởng kinh tế theo kế
hoạch, vòng quay tiền tệ
- Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Đợc sử dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông
cứng, đóng băng nh thời kì bao cấp (lãi suất cố định nhiều năm )
- Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thống ngân hàng đã đợc phân thành 2
cấp NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực
tiền tệ - tín dụng - ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ
động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1 Công cụ lãi suất
ở Việt Nam, lãi suất đợc sử dụng nh công cụ chính của chính sách tiền tệ,
nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
cơ chế thị trờng, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế
tự hạch toán kinh doanh.
Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất đợc thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết
kiệm cao hơn tốc độ trợt giá (lạm phát), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các tổ

chức kinh tế tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.
Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát(%).
8
Từ T3/81- T10/91
1. Lãi tiết kiệm 3/89 6/89 7/89 2/90 IV/90 7/91 10/91
12 9 7 7 4 3,5 3,5
- Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1
2. Lãi cho vay vốn lu động 6,8-
6,5
5,1-
5,5
3-4 3-4 1,8 1,8
2,1-
3,7
3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5
Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện đợc chủ trơng của Nhà n-
ớc là đẩy lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn cho các xí nghiệp quốc
doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên bình diện toàn
nền kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu t vì lãi suất cho vay quá cao,
vốn ngân hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực :
vay tiền chơi đề, hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của
các HTX tín dụng còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu
giúp của Nhà nớc.
Việc thi hành chính sách lãi suất thực dơng đã đợc thực hiện nhng lại cha
triệt để vì thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động:
Năm 1991 lãi suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trợt giá bình quân 43,4% năm
; lãi suất cho vay 40,2% năm.
Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu đợc sử dụng nh công cụ chính
của CSTT, lãi suất thực dơng bắt đầu đợc duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt
cùng với tỉ lệ lạm phát và bám sát thị trờng (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-

T8/1994 mức lãi suất đợc điều chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế sàn lãi suất tiền
gửi, trần lãi suất cho vay và có một bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận.
(T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%).
Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay
để khuyến khích đầu t phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã đợc
sử dụng:
9
- Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hớng tăng nhanh nguồn vốn
có lãi suất thấp (tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nớc ngoài, vốn ngân sách)
- Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ
theo hớng tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5%
lên 8,5% năm 1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ
theo biến động lãi mất thị trờng TCQT Singapore.
- Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho
NHNN tiến thêm một bớc trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất cho
vay ngắn hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng; lãi suất cho vay trung -
dài hạn đợc giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để các NHTM
tuân thủ chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là 0,35% tháng.
Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn đợc cải cách theo hớng nâng
lãi suất tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân c cùng kì hạn
để bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gỉ tiền vào ngân
hàng. Đồng thời thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn: Năm 1994 giữ nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho
vay trung hạn, dài hạn từ 1,2% lên 1,7% tháng.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM
trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín dụng
thị trờng, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH có lợi
cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu t theo
mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ 1996 - nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi

suất: trần theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay
và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35% (tháng); 4,2% (năm). Trong
phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều
chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung
cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối
10
1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất
cho vay trung - dài hạn giảm 21% năm xuống còn 16,2% năm. Trong phạm vi trần
lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều chỉnh linh hoạt
các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và
đặc điểm kinh doanh riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất
cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung -
dài hạn giảm 21% năm xuống còn 16,2% năm.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn d thừa từ thành thị về nông thôn
thì lãi suất cho vay ở nông thông đợc duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay
ở thành thị.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trởng kinh tế và phù hợp xu h-
ớng giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất
cho vay ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn
giảm từ 1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay
bình quân quy định là 0,35% tháng(4,2% năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hớng lên giá và lãi xuất tiền gửi bằng
USD ở mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tợng
ngời gửi tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân c găm giữ
USD gây khó khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy
cơ bất ổn cho thị trờng tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một
số NHTM cổ phần.
Trớc tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998/
QĐ - NHNN1 với nội dung chủ yếu là:

- Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1-
1,25% tháng; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và
11
nông thôn. Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích
trữ USD, tăng vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm nh tr-
ớc đây đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại
TCTD nhằm hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cờng
cho việc quản lí ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD đợc điều chỉnh giảm từ
8,5% xuống 7,5%/năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành;
đồng thời góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và
cho vay trong nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều
tăng lên điều đó cho thấy mối tơng quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi đợc coi là
tơng đối hợp lý. Từ đó, quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt
tín dụng bằng VND có tốc độ tăng cao hơn. Thị trờng ngoại tệ, tỉ giá VND/USD lại
trở về trạng thái tơng đối ổn định.
Bớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trởng chững lại, để phù
hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trờng tiền tệ và thực hiện
giải pháp kích cầu về đầu t của chính phủ, NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất
cho vay bằng VND theo xu hớng giảm: Từ 1,2%/tháng (ngắn hạn) và (1,25%/tháng -
trung dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0,85%/tháng (thành thị); 1%/tháng (nông
thôn); 1,15%/tháng (NHTMCP nông thôn - Quỹ TDND cơ sở); 0,7%/tháng (NH phục
vụ ngời nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn
biến của nền kinh tế, kích thích tăng trởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát
đang làm chậm lại tốc độ tăng trởng.

Năm 2000, lãi suất trong nớc có những diễn biến khá phức tạp. Thực hiện
chủ trơng kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục đợc điều
12
chỉnh theo xu hớng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống
0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trờng tài chính
quốc tế, trong năm 2000, lãi suất thị trờng quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ
trong nớc cũng phải tăng theo (từ 3,5% năm lên 4,5% năm), nhiều khi lãi suất VND
thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất:
chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản
đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trờng có quản lý đối với cho vay
bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất cơ bản
đợc công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75%/tháng, biên độ cho vay
ngắn hạn là 0,3%/tháng, biên độ cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng. Đối với lãi
suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất USD trên thị trờng liên NH
Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với
cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy
định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1%/năm , biên độ cho vay trung dài hạn
là 2,5%/năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động
tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Với nội dung điều hành lãi suất cơ bản nh trên cho thấy lãi suất cơ bản đợc
xác định trên cơ sở lãi suất thị trờng với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi
suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bớc tiến mới, bớc đi tiếp
theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất.
Ngày 30/5/2002 Ngân hàng nhà nớc Việt Nam đã ban hành quyết định về
việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thơng mại bằng
đồng VN của tổ chức tín dụng với khách hàng. Đây là một quyết định quan trọng, là
một trong những bớc khời đầu của việc tiến tới tự do hóa lãi suất.
Quyết định có hiệu lực từ ngày 1 - 6 - 2002. Theo đó, tổ chức tín dụng xác
định lãi suất cho vay bằng đồng VN trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trờng và mức độ

tín nhiệm với khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân Việt Nam, nớc ngoài hoạt
động tại Việt Nam.
13
Tiếp đó NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức
lãi suất cho vay thơng mại với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng để
làm tham khảo và định hớng lãi suất thị trờng. Theo Thống đốc NHNN Việt Nam: Lê
Đức Thúy thì đây là một bớc chuyển biến căn bản của Việt Nam trong việc điều hành
lãi suất, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lới để huy động, cho
vay vốn với mức lãi suất phù hợp với quan hệ cung cầu vốn thị trờng, đồng thời nâng
cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội
nhập với thị trờng tài chính tiền tệ quốc tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Với cơ
chế này, nhà nớc chính thức không can thiệp vào hoạt động điều hành lãi suất bằng
việc ấn hành lãi suất cho vay mà chỉ gián tiếp điều tiết lãi suất sao cho có lợi nhất với
nền kinh tế. Cơ chế này cũng giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng và giúp
các ngân hàng nới lỏng các biện pháp bảo đảm tiền vay (thế chấp) đối với khách
hàng.
Cũng trong ngày 30 - 05 NHNN đã có quyết định công bố lãi suất cơ bản
bằng đồng VN áp dụng từ ngày 1 - 6 - 2002 là 0.6%/tháng hay 7.2%/năm.
Việc sử dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận có những u điểm sau:
- Việc áp dụng lãi suất thỏa thuận có lợi với cả ngân hàng lẫn khách hàng.
Theo các ngân hàng khi áp dụng cơ chế này thì các ngân hàng có thể chủ động hơn
trong vấn đề kinh doanh và khi thỏa thuận đợc mức lãi suất từ đó ngân hàng sẽ mở
rộng diện cho vay, đó là điều kiện để xóa bỏ nạn tín dung đen.
- Việc áp dụng lãi suất thỏa thuận sẽ giúp cho các dòng chảy vốn thông
thoáng hơn. Trớc đây, lãi suất đầu ra của các NHTM bị khống chế bởi lãi suất trần do
NHNN qui định. Cụ thể lãi suất trần đợc tính bằng lãi suất cơ bản 0.6%/tháng cộng
với 0,3% (với loại vay ngắn hạn) và cộng với 0.5% (với loại vay dài hạn). Tại các đô
thị, do các nguồn vốn dồi dào, có các ngân hàng cạnh tranh nên lãi suất cho vay th-
ờng thấp, hiếm khi động đến lãi suất trần. Do vậy, quyết định 546 này của NHNN sẽ
tạo điều kiện giúp các NHTM chủ động hơn trong việc huy động và cho vay với lãi

suất thỏa thuận, làm cho các dòng chảy của vốn trở nên thông thoáng hơn.
14
- áp dụng lãi suất thỏa thuận sẽ làm cho việc cho vay ở nông thôn tăng lên.
Trớc đây, mặc dù mức cho vay đối với nông dân là rất thấp nhng các thủ tục cho vay
vẫn phải làm đầy đủ nh những khách hàng lớn nên chi phí hoạt động rất cao. Bởi vậy,
hầu hết các tổ chức tín dụng cha mặn mà trong việc cho vay đối với hộ nông dân. Sau
khi quyết định 546 có hiệu lực thì các NHTM ở nông thôn có thể tăng lãi suất cho
vay để tránh bị lỗ, đồng thời các NHTM này sẽ điều tiết vốn huy động từ các đô thị
về nông thôn, mở rộng việc cho vay với nông dân. Sự điều chỉnh này là diều kiện để
xóa bỏ nạn tín dụng đen.
Nh vậy, việc áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận là một bớc đi đúng đắn. Nó
sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc tự do hóa lãi suất sau này.
Nh vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ
giá VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá
trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và
lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất
trữ USD, từng bớc đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển ch-
a cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN
Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ hạn mức tín dụng
Đây là công cụ đợc coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của
thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát. Những
năm 1990-1991 do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6%/tháng ). Để khống chế lạm phát,
NHNN chủ trơng thi hành CSTT thắt chặt ngay từ đầu năm để giảm bớt lợng tiền
cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trởng kinh tế
(4,5%/năm); chỉ số lạm phát (30%/năm), NHNN đa ra hạn mức tín dụng đối với tất
cả hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng so với năm trớc). Bằng nhiều biện pháp kết
hợp, năm đó chúng ta đã đạt đợc kết quả thực tế rất khả quan: mức tăng trởng kinh tế
15

tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều
(17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.
ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD (NH
Ngoại thơng, NH Công thơng, NH Nông nghiệp, NH Đầu t phát triển) nhng sau vài
năm đổi mới, do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lợng các
NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu
hết các NHTM. Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nớc phải áp dụng hạn
mức tín dụng còn các NH nớc ngoài và NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng
đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nớc) nhng vẫn cha phải áp dụng hạn mức
tín dụng.
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiểm soát lạm phát từ đó đa ra tỉ lệ hạn mức tín
dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tợng phổ
biến là hầu hết các NHTM đều có xu hớng vợt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng đợc
giao.
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).
Năm
1995 1996 1997 Quỹ T D /1998
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện

KH
giao
Thực
hiện
Tăng so với
năm trớc
21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8%
Hiện tợng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
- Trong giai đoạn này tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng năm
của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37%/năm) vì vậy các NHTM tất yếu
phải thực hiện đầu t tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đờng để đầu t qua
thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn là khó khăn trong điều kiện nớc ta lúc bấy giờ.
- Do diễn biến lãi suất đang có xu hớng giảm trần lãi suất cho vay trong khi
đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm
lý ngời dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với
16
lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25%/tháng, thấp hơn so với trớc đây
0,3%-0,45%/tháng. Với chênh lệch nh vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù
đắp chi phí hoạt động thì buộc các NHTM phải tăng d nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tợng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995 -
1997 mặc dù lạm phát đợc kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9%/năm) nhng nền
kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trởng cao 9,28%/năm.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai
trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phơng tiện thanh toán vì lạm phát
có xu hớng giảm và thấp dần; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng
và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trởng kinh tế. Do đó từ quý
II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này nh một công cụ thờng xuyên để điều
hành chính sách tiền tệ (mặc dù có thể coi nó nh một giải pháp tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ đợc xoá bỏ hoàn toàn khi thị trờng tiền tệ ổn định, thị trờng
vốn phát triển và thị trờng mở đi vào hoạt động có hiệu quả.

2.2.3 Công cụ dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiền đợc sử dụng sớm nhất ở
Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ
10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt
Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy
định tỉ lệ DTBB là 10%; đợc áp dụng cho các NHTMQD, NHTM cổ phần, chi nhánh
NH nớc ngoài, NH liên doanh và các Công ty tài chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10% nhất
là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này, trong năm
1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức DTBB thống nhất đối
với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi khác nhau: tiền gửi, tiền tiết
kiệm không kì hạn: 13%; tiết kiện kì hạn 3,6 tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu:
17
8%); đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng quy chế phạt đối với các tổ chức tài chính
không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ đợc tính đối với loại tiền
gửi có kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% đợc áp dụng cho tất cả
các NHTM (trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ TDND tạm thời cha phải
thực hiện). Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên, lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong
cơ cấu tiền gửi DTBB; tiễn gửi DTBB đợc hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các
NHTM vào một tài khoản chung là tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền
gửi dự trữ vợt đợc trả lãi 0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn
cho việc điều chỉnh dự trữ của các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế
lãi suất thị trờng và khối lợng tín dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế
lạm phát.
Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng
hơn: Tiền gửi DTBB tại NHNN đợc tính bình quân trong cả kì duy trì, tỷ lệ DTBB
vẫn là 10%, tiền dự trữ vợt đợc hởng lãi suất 0,2% tháng (bằng VND) và 4,86% năm
(đối với USD). Đồng thời NHTM nào thiếu tiền gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt

theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích
các NHTM thực hiện đúng quy chế DTBB.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998), từ cuối 1998 và trong năm 1999,
quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tợng áp dụng đợc mở rộng thêm
(quỹ TDND, NH hợp tác); số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trớc đây: 70% gửi tại NHNN
và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính
phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB đợc điều
chỉnh nhiều lần theo xu hớng giảm nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thích đầu t, tiêu dùng.
Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
TCTD Tỉ lệ DTBB (%)
18
1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99
1. NHTMQD, NHTM của đô thị, chi nhánh NH nớc ngoài,
NH liên doanh & Công ty TC
10 7 6 5 5
- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp tác, Quỹ TDNDTW, khu
vực.
0 5 4 1 1
3. TCTD có số d tiền gửi phải tính DTBB dới 500trđ quỹ
TDND cơ sở, HTX tín dụng, NH phục vụ ngời nghèo.
0 0 0 0 0
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng
tín dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các
NHTM do lãi suất giảm.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND nh năm
1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn chế việc
các TCTD huy động tiền gửi USD (qua việc nâng lãi suất huy động) để gửi ra nớc

ngoài hởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nớc, ngày
1/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn dới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục
thực hiện chủ trơng trên, ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12%
áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2000.
Nh vậy, công cụ DTBB ngày càng đợc hoàn thiện và trở thành công cụ đắc
lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ cho vay tái chiết khấu
ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã đợc sử dụng nh là một công cụ của
CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì cha hội đủ những điều
kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế.
Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành công cụ đắc lực góp phần thực
hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
19
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu đợc thực hiện qua việc NHNN cho NHTM
vay ngắn hạn căn cứ vào khế ớc tín dụng (có chất lợng) do NHTM đem thế chấp tại
NHNN, lãi suất tái cấp vốn đợc xác định dựa theo lãi suất cho vay (cao nhất) của các
NHTM và đợc điều chỉnh linh hoạt theo mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ.
Năm 1994 với mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp
nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85%
-100% lãi suất cho vay các NHTM, riêng NH nông nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy
mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngng tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy mạnh
công tác thu hồi nợ và giảm cho vay tín dụng của các NHTM. Nhờ đó, đến cuối 1995
d nợ cho vay chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với 1994.
Năm 1996, để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các
NHTM, NHNN đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trờng
hợp tạm thời thiếu khả năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa
bàn), nhng áp dụng lãi suất tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm đ-
ợc sự ổn định của hệ thống ngân hàng, mặt khác hạn chế đợc khả năng cung ứng vợt
qúa về tín dụng của các NHTM đồng thời khuyến khích việc huy động vốn của các

NHTM, cũng hạn chế việc các NHTM vay tiền của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, d
nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng 3,5% so với 1995.
Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phơng thức tái cấp vốn có thế chấp
(bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời trong
thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn đợc điều chỉnh từ quy định 100% lãi
suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định mức lãi suất cụ thể (từ
tháng 3 - tháng 7 năm 1997). Mức lãi suất tái cấp vốn quy định là 1,1%/tháng, từ
T8/1997 là 0,9% ). Do trong năm 1997 các NHTM đã tích cực hơn trong việc trả nợ
NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên đến cuối 1997, d nợ tái cấp vốn của
NHNN giảm 11,9% so với 1996.
Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế sự gia
tăng lạm phát do ảnh hởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã tăng
20
lãi suất tái chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho vay ngắn
hạn là 0,1% tháng).
Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trởng kinh tế, khắc phục nguy
cơ giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức
1,1%/tháng đầu năm xuống 0,5%/tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chiết khấu,
tái chiết khấu đã đợc ban hành để phát triển một bớc hiệu quả công cụ này trong
chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng.
Các giấy tờ có giá ngắn hạn đợc chiết khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu
NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức
lãi suất tái chiết khấu đợc công bố là 0,45% tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng
của các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5%/tháng xuống
0,45%/tháng (31/3/2000) và xuống 0,4%/tháng (31/7/2000). Đồng thời NHNN cũng
giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45%/tháng xuống còn 0,4%/tháng (T3/2000) và
xuống 0,35%/tháng (T7/2000). Tuy vậy cho đến T9/2000 để hạn chế các TCTD bù
đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN và
khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trờng mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị

trờng này, đồng thời tạo tín hiệu cho các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày
2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 0,5%/tháng và tăng lãi
suất tái chiết khấu lên 0,45%/tháng.
Nh vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần đợc áp dụng theo đúng bản chất
của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị
trờng ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia
2.2.5 Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở
Luật NHNN Việt Nam quy định NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở
thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN các
loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trờng tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia.
21
Trớc khi thị trờng mở chính thức đợc đa vào vận hành ở Việt Nam, NHNN
đã từng bớc tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát hành các loại tín
phiếu, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nớc (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998
NHNN đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc. Năm
1996, KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó chủ yếu là
phát hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá trúng thầu năm
1997 là 2917,5 tỷ VND (37 đợt); năm 1998 là 4020,7 tỷ VND (46 đợt), năm 1999 là
3011.6 tỉ VND (46 đợt), năm 2000 là 4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tợng trúng
thầu chủ yếu là các NHTM Quốc doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo
hiểm. Song nếu theo quy định của luật NHNN thì các trái phiếu này không thể sử
dụng làm công cho thị trờng mở đợc.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến
thời điểm tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức đợc 6 đợt phát hành tín phiếu NHNN. Các
đợt này đều đợc tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phơng tiện thanh toán và lạm
phát có xu hớng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lu thông. Tổng mệnh giá đã phát
hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn các tín phiếu này đều có thời hạn 3
tháng.
Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trơng đa nghiệp vụ thị tr-

ờng mở vào hoạt động theo phơng hớng sử dụng nó nh là một công cụ điều tiết tiền
tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện đợc 17 phiên giao dịch thị trờng mở,
trong đó có 14 phiên mua đợc 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lợng chào mua với
lãi suất trong khoảng 4,20% - 5,58%/năm và 3 phiên bán đợc 550 tỷ đồng đạt 100%
khối lợng chào bán với lãi suất trong khoảng 4,0% - 4,6%/năm. Đến 31/12/2000;
NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trờng mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã
đến hạn thanh toán.
22
Từ 1/1/2001 - 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện đợc 3 phiên giao dịch mua đ-
ợc 160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lợng chào mua với mức lãi suất 3,5 - 4,6 %/năm. Đã
có 18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trờng (tuy vậy mỗi phiên giao
dịch chỉ có thờng xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham gia). Phơng thức giao dịch chủ
yếu là Mua - Bán có kì hạn (15 ngày - 4tháng ) hoặc mua hẳn - bán hẳn.
Nh vậy,ở Việt Nam thị trờng mở đã tìm đợc con đờng đi riêng cho mình và
tính u việt của nó đã đợc phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định (đã giúp cho các
NHTM đợc chủ động hơn trong việc điều chỉnh lợng vốn khả dụng của mình, qua đó
NHNN phần nào đã thực hiện đợc mục tiêu CSTT quốc gia). Tuy vậy, đây mới chỉ là
giai đoạn khởi đầu và mang tính chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải đợc tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện.
2.3 Đánh giá quá trình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những
năm qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng đ-
ợc ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ
khối lợng tiền cung ứng hàng năm và đó đợc xem nh một bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và
kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định,
đời sống ngời dân không ngừng đợc cải thiện.
Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phơng tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát
Năm

Chỉ tiêu
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng của
M2(%)
78 34 19,8 27,8 22,3 22,7 25,4 23,9 39,28 38
Tỷ lệ lạm phát
(%)
67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bớc đợc
điều chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với thông lệ
23
quốc tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc
đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Biểu 5: Tốc độ tăng trởng xuất nhập khẩu của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
- Xuất khẩu (%) 24 12 39 28 38 24 4
23,3
=11.540 tr USD
- Nhập khẩu (%) 9 53 48 24 54 -7 11 _
* Góp phần tăng trởng kinh tế: Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin
của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trờng đầu t lành mạnh, thu hút đợc nguồn vốn
đáng kể từ trong và ngoài nớc. Đặc biệt việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ
lệ dự trữ bắt buộc của NHNN ở các giai đoạn cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh h-
ởng tới việc huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các
TCTD. Cũng từ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế liên tục qua các năm.
Biểu 6:Tình hình tăng trởng kinh tế (GDP) của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu

91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000
6 DP (tỉ VND)
giá so sánh
1981-1994
33.99 36.74 39.98 195.57 213.83 231.26 244.68 256.27 273.44
Tăng trởng
6DP(%)
6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở
Việt Nam đã góp phần đạt đợc hai mục đích thờng mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy lùi
lạm phát vừa tăng trởng kinh tế. Có đợc kết qủa này còn phải kể đến vai trò của nhiều
CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta cha đạt đ-
ợc mức năng suất biên của sản lợng tiềm năng trong nền kinh tế.
24
Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công ăn việc
làm. Năm 1999 cả nớc giải quyết đợc việc làm cho 1,2 triệu lao động và thực hiện
chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn (năm 2000 tỉ lệ hộ
nghèo giảm còn 11%).
2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình sử dụng các công cụ của
CSTT những năm qua
Trong những năm qua, chúng ta cha quan tâm đúng mức đến việc kiểm soát
và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phơng pháp dự đoán không phù hợp,
phơng thức điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến đổi kinh tế, mới chỉ
quan tâm đến khối lợng tiền phát hành hàng năm cho 2 mục tiêu: cung ứng phơng
tiện thanh toán cho nền kinh tế thông qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua
ngoại tệ, cha đánh giá đúng khả năng tạo tiền của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều
tiết sự tăng, giảm khối lợng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian qua cũng bị
hạn chế ở nhiều mặt.

Nhóm các công cụ trực tiếp: Đợc sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết
cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi
kinh tế trong giai đoạn đầu nhng trong tơng lai sẽ không còn phù hợp nữa (rõ nhất là
công cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ đợc sử dụng thờng xuyên nhất trong điều hành CSTT ở
Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng nh tình trạng ở các nớc đang phát triển khác, ở
Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu t. Điều này đợc thể hiện rõ rệt trong
hai năm (1998, 1999) khi trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhng đầu t vẫn cha tăng
mạnh, giá cả và sản lợng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm (tuy điều
này còn liên quan đến các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát
từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa).
Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn
((từ 1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay)đã gây khó khăn cho các tổ chức
25

×