TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC - LÊNIN
NGUYỄN NGỌC ÁNH
LỚP DH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ.
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN
CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY.
Giảng viên hướng dẫn:
Th.s. Nguyễn Thị Vân
Long Xuyên, 5/2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp, em đã
nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ của:
- Quý thầy cô trường Đại học An Giang. Đặc biệt là quý
thầy cô trong khoa Mác – Lênin đã vun đắp thêm kiến thức và
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em nghiên cứu khóa luận này.
- Cô Nguyễn Thị Vân, người đã tận tình quan tâm, giúp
đỡ, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
- Quý cô, chú đang công tác ở Ủy ban nhân dân huyện Chợ
Mới; Phòng Nội Vụ Lao động Thương binh – Xã hội; Phòng
Thống kê huyện Chợ Mới đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt
quá trình thu thập nguồn tài liệu phục vụ tốt cho khóa luận.
Sinh viên
Nguyễn Ngọc Ánh
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu 2
4. Dự kiến đóng góp của khóa luận 2
5. Phương pháp nghiên cứu 2
6. Kết cấu của khóa luận 3
PHẦN NỘI DUNG 5
Chương 1: Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam và chính sách xóa đói,
giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta 5
1.1 Cơ sở lí luận về xóa đói, giảm nghèo 5
1.1.1 Đói nghèo – cách tiếp cận 5
1.1.2 Tiêu chí đánh giá và chuẩn đói nghèo ở Việt Nam 9
1.1.2.1 Tiêu chí đánh giá đói nghèo ở Việt Nam 9
1.1.2.2 Chuẩn đói nghèo ở Việt Nam 9
1.1.3 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo 11
1.2 Khái quát tình hình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của
Đảng và Nhà nước ta 14
1.2.1 Quan điểm chỉ đạo và chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng
và Nhà nước ta 14
1.2.2 Khái quát tình hình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở
Việt Nam 18
1.2.2.1 Thành tưụ 18
1.2.2.2 Hạn chế 21
Chương 2: Thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới , tỉnh An
Giang từ năm 2001 đến nay 24
2.1 Sơ lược về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang hiện nay 24
2.1.1 Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên 24
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang 24
2.2 Những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay 26
2.2.1 Khái quát tình hình hộ nghèo ở huyện Chợ Mới 26
2.2.2 Một số chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng,
Nhà nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
27
2.2.2.1 Một số chủ trương xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh
An Giang 27
2.2.2.2 Các chính sách hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang 31
2.2.3 Những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách xóa
đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến
nay 32
2.2.3.1 Thành tựu 32
2.2.3.2 Hạn chế 37
2.3 Một số giải pháp góp phần vào việc thực hiện tốt chính sách xóa đói,
giảm nghèo của Đảng, Nhà nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang 38
2.3.1 Phương hướng, mục tiêu và giải pháp thực hiện chính sách xóa
đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang 38
2.3.1.1 Phương hướng 38
2.3.1.2 Mục tiêu giảm nghèo 39
2.3.1.3 Các chỉ tiêu cần đạt được đến năm 2010 39
2.3.1.4 Các giải pháp để thực hiện Chương trình giảm nghèo 39
2.3.2 Một số giải pháp nhằm góp phần vào việc thực hiện tốt chính
sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong
thời gian sắp tới 41
2.3.2.1 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần đẩy mạnh việc
tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp để góp phần làm tăng nguồn
thu nhập ổn định cho hộ nghèo đói 41
2.3.2.2 Cung cấp vốn cho những hộ nghèo đói để họ có điều kiện tham
gia vào các hoạt động sản xuất 42
2.3.2.3 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần phát huy vai
trò kinh tế của phụ nữ ở nông thôn 43
PHẦN KẾT LUẬN 45
Tài liệu tham khảo 47
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đói nghèo là một hiện tượng xã hội tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới.
Nghèo khổ không chỉ là nỗi đau của toàn nhân loại mà còn hủy hoại tiềm năng
con người, loại con người ra khỏi quá trình phát triển và kết cục là cảnh nghèo
trở nên dai dẳng hơn. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, trên thế giới hiện có
khoảng trên 2 tỷ người đang chịu sống trong cảnh nghèo đói, trong đó có
khoảng ½ tỷ người trong độ tuổi từ 15 - 24 đang phải sống ít hơn 2 USD mỗi
ngày, thậm chí phải sống với mức chi tiêu dưới 1USD mỗi ngày. Việt Nam
cũng không là một ngoại lệ, nhiều thập kỷ bị xâm lược buộc chúng ta phải
chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Chiến tranh tàn phá, nền kinh tế bị đổ nát,
một đất nước nghèo đói sau chiến tranh lại bị bao vây cấm vận bởi các thế lực
thù địch. Bằng sự nỗ lực của cả nước, đứng đầu là sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước ta, ý chí quật cường của cả dân tộc và hỗ trợ của bạn bè quốc tế, hơn
20 năm qua nước ta đã làm giảm số hộ nghèo đói (theo tiêu chí quốc tế) từ gần
60% xuống còn 19% năm 2006 [22]. Theo đánh giá của Liên Hiệp Quốc, Việt
Nam đã về đích trước 10 năm so với mục tiêu xóa đói nghèo trong thực hiện
mục tiêu thiên niên kỷ.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng công tác xóa đói, giảm nghèo chưa
thật sự vững chắc. Theo nhận định của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thì: “Số hộ nghèo và tái nghèo ở một
số vùng còn lớn, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân
vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; nhiều vùng
dân tộc thiểu số có tỉ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân cả nước. Một số
chính sách trợ giúp người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo chưa tổ chức thực
hiện tốt”.[9; 173]
Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách xóa
đói, giảm nghèo. Đó là một trong những mục tiêu chiến lược của phát triển
bền vững đất nước. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Đảng ta đã khẳng định: xóa đói, giảm nghèo là một trong những giải pháp cơ
bản để kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Đồng thời đẩy
mạnh việc thực hiện xóa đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chủ yếu
để phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nêu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Trang 1
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Do đó, để thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX và X, tỉnh An Giang nói chung và huyện Chợ Mới nói riêng
đã ra sức đẩy mạnh thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và đạt được
nhiều thành tựu đáng kể: năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo ở huyện là 8,66% đến năm
2007 giảm xuống còn 6,95% ( tính theo chuẩn mới), Chợ Mới là một trong
bốn huyện của tỉnh An Giang công bố là đã hoàn thành xong việc cấp nhà đại
đoàn kết và xóa xong “nhà tre lá dột nát, nhà tạm bợ cho người nghèo”. Tuy
nhiên, việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo tại huyện chưa đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và xu thế toàn
cầu hóa nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO đó là tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn
khá cao. Vì vậy, mục tiêu phấn đấu của huyện là đến năm 2010 sẽ giảm tỉ lệ
hộ nghèo xuống còn 3%. Để hoàn thành mục tiêu này và đồng thời đáp ứng
được yêu cầu đổi mới của đất nước, đòi hỏi các cấp lãnh đạo ở huyện nhà Chợ
Mới có những biện pháp cụ thể để khắc phục những mặt hạn chế và thực hiện
có hiệu quả nhất chính sách xóa đói, giảm nghèo tại địa phương.
Từ những lí do trên nên tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu thực trạng xóa đói,
giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.” để làm
khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Giáo dục Chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam và chính sách xóa
đói, giảm nghèo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng và một số chủ trương, chính sách xóa đói, giảm
nghèo của Đảng, Nhà nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
- Đề ra một số giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm
nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: thực trạng xóa đói, giảm nghèo.
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại địa phương
huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
4. Dự kiến đóng góp của khóa luận:
- Khóa luận góp phần hệ thống hóa quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng
ta về xóa đói, giảm nghèo ở Việt nam và chính sách xóa đói, giảm nghèo của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của khóa luận là nguồn tư liệu để các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương có thể tham khảo trong quá trình lãnh đạo, giải quyết
Trang 2
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
các vấn đề liên quan đến xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang.
- Có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy, học tập, nghiên
cứu về chính sách xã hội hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan
điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về xóa đói, giảm nghèo, kết hợp với
phương pháp lịch sử và logic, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, nghiên cứu thực
tiễn.
6. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khóa luận
gồm hai chương:
Chương 1: VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM VÀ
CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA.
1.1 Cơ sở lý luận về xóa đói, giảm nghèo.
1.1.1 Đói nghèo – cách tiếp cận.
1.1.2 Tiêu chí đánh giá và chuẩn đói nghèo ở Việt Nam.
1.1.3 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo.
1.2 Khái quát tình hình thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam và
chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.1 Quan điểm chỉ đạo và chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước ta.
1.2.2 Khái quát tình hình thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam.
Chương 2: THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN
CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY.
2.1 Sơ lược về vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội tại huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang .
2.1.1 Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên .
2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang hiện
nay.
2.2 Những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
2.2.1 Khái quát tình hình hộ nghèo ở huyện Chợ Mới
2.2.2 Một số chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng, Nhà
nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay.
Trang 3
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
2.2.3 Những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
2.3 Một số giải pháp góp phần vào việc thực hiện tốt chính sách xóa đói,
giảm nghèo của Đảng, Nhà nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong
thời gian sắp tới.
2.3.1 Phương hướng, nhiệm vụ về chính sách xóa đói, giảm nghèo của
Đảng, Nhà nước tại huyện Chợ Mới.
2.3.2 Một số giải pháp nhằm góp phần vào việc thực hiện tốt chính sách
xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong thời gian sắp
tới.
2.3.2.1 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần đẩy mạnh việc
tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp để góp phần làm tăng nguồn
thu nhập ổn định cho hộ nghèo đói.
2.3.2.2 Cung cấp vốn cho những hộ nghèo đói để họ có điều kiện tham
gia vào các hoạt động sản xuất.
2.3.2.3 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần phát huy vai
trò kinh tế của phụ nữ ở nông thôn.
Trang 4
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM VÀ
CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA.
1.1 Cơ sở lí luận về xóa đói, giảm nghèo.
1.1.1 Đói nghèo – cách tiếp cận.
Đói nghèo tuy được đề cập như một phạm trù, nhưng về thực chất đó là
hai phạm trù khác nhau: đói và nghèo. Cũng có những khái niệm về đói nghèo
phản ánh sự khác biệt giữa đói và nghèo. Tìm hiểu nội hàm của tổng phạm trù
đói và nghèo là việc làm cần thiết, bởi vì nó vừa là cơ sở để hiểu thuật ngữ
“xóa đói, giảm nghèo” mà các văn bản, chính sách của Đảng và Nhà nước và
các nhà nghiên cứu thường đề cập, vừa là cơ sở để đề ra các giải pháp cho vấn
đề xóa đói, giảm nghèo.
Hiện nay chưa có một khái niệm hay định nghĩa duy nhất về đói nghèo
và do đó cũng không có một phương pháp hoàn hảo để đo được nó.
Tại Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Kốc - Thái Lan ( 9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung
như sau: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập
quán của địa phương và phong tục ấy được xã hội thừa nhận. Định nghĩa này
hiện nay đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam.
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về
nghèo đói như sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới
1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những
sản phẩm thiết yếu để tồn tại.
Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith quan niệm về đói nghèo như sau:
Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ rơi xuống rõ rệt dưới
mức thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong
cộng đồng coi như cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức.
Trang 5
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Liên Hiệp Quốc đã phân chia đói nghèo thành hai loại: đói nghèo tuyệt
đối và đói nghèo tương đối.
Đói nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu cơ bản cho cuộc sống như ăn mặc,
ở, đi lại, y tế, giáo dục…
Đói nghèo tương đối: đó là sự thiếu hụt so với mức sống hiện thời. Nói
cách khác, đói nghèo tương đối là mức thu nhập của một người hoặc hộ gia
đình thấp hơn so với mức thu nhập của một nước nơi người đó hoặc hộ đó
sinh sống. Đói nghèo tương đối được coi là tiêu chuẩn đánh giá sự công bằng
của Chính phủ với một bộ phận dân cư có thu nhập thấp.
Như vậy, đói nghèo tuyệt đối là hệ quả của thu nhập thấp, còn đói
nghèo tương đối là kết quả của việc so sánh mức thu nhập giữa các nhóm dân
cư trong một cộng đồng dân cư xác định. Cùng với quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế, cải tiến phương thức phân phối thu nhập thì tình trạng đói
nghèo tuyệt đối sẽ giảm dần, song tình trạng đói nghèo tương đối sẽ tồn tại lâu
dài do tương quan về thu nhập giữa các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội.
Vậy: đói nghèo được hiểu là tình trạng thu nhập của một bộ phận dân
cư thấp hơn mức tối thiểu để duy trì cuộc sống ở một khu vực tại một thời
điểm nhất định.
Trong “Báo cáo về phát triển con người” năm 1997, Liên Hiệp Quốc đã
đưa ra khái niệm sự nghèo khổ của con người. Nghèo khổ của con người là
khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của con người – là sự thiệt thòi
(khốn cùng) theo ba khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người:
- Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh,
được xác định bởi tỉ lệ người dự kiến không thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không
tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng.
Để đánh giá nghèo khổ con người, Liên Hiệp Quốc đã sử dụng chỉ số
nghèo khổ của con người – HPI (Human Poor Index) hay còn gọi là chỉ số
nghèo khổ tổng hợp. Ở Việt Nam HPI năm 1999 là 29,1% và xếp hạng theo
HPI nước ta đứng thứ 45 trên 90 quốc gia được Liên Hiệp Quốc nghiên cứu.
Ở Việt Nam, nghèo đói được quan niệm đơn giản hơn, trực diện hơn
bởi đây là những quan niệm của chính người nghèo. Người dân miền núi, họ
nói rằng: nghèo đói là gì ư? Là hôm nay con tôi ăn khoai, ngày mai không biết
con tôi ăn gì? Bạn nhìn nhà ở của tôi thì biết, trong nhà nhìn thấy mặt trời, khi
Trang 6
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
mưa trong nhà cũng như ngoài sân. Một số người Hà Tĩnh thì trả lời: nghèo
đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát;
không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có tivi, con cái thất học,
ốm đau không có tiền đi khám chữa bệnh…Như vậy, quan niệm về nghèo đói
hay nhận dạng về nghèo đói từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không
có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói là những
nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và
giao tiếp xã hội không được thỏa mãn. Sự khác nhau chung nhất là thỏa mãn ở
mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế -
xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng.
Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 – Nghèo thì đói nghèo được
hiểu và nhìn nhận ở những khía cạnh sau:
Đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện:
- Thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập.
- Thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng trong những lúc khó khăn.
- Dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi.
- Ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có
khả năng giải quyết.
- Ít được tham gia vào quá trình ra quyết định.
- Cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng v.v…
Như vậy, đói nghèo được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Việc đo lường được từng khía cạnh đó một cách nhất quán là điều rất khó, còn
gộp tất cả những khía cạnh đó vào một chỉ số nghèo đói hay thước đo nghèo
đói duy nhất là không thể.
Ở Việt Nam, đói nghèo là kết quả của nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên,
để dễ dàng hơn trong việc đưa ra các biện pháp đúng đắn và phù hợp nhằm
khắc phục các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, người ta thường phân nguyên
nhân dẫn đến đói nghèo thành nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan.
Nguyên nhân khách quan: Do Việt Nam xuất phát điểm là một nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nguồn lực của
Nhà nước chưa đáp ứng ngay được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các
địa phương; do điều kiện tự nhiên không thuận lợi ở một số vùng; do tác động
của chính sách chi tiêu cho y tế, giáo dục và chính sách đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội của Nhà nước chưa cân đối giữa các cấp hành chính, giữa các vùng
miền, giữa các ngành kinh tế; do gặp những điều kiện bất thường trong cuộc
sống như: thiên tai, ốm đau, bệnh tật, tai nạn…
Trang 7
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Nguyên nhân chủ quan: Do bản thân người nghèo có trình độ văn hóa thấp,
không có kinh nghiệm và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh; do gia đình đông
con, bố mẹ không đủ điều kiện làm kinh tế, nhiều tập tục lạc hậu; chi tiêu không
có kế hoạch…Các nguyên nhân này, một mặt làm cho họ có thu nhập thấp, không
đủ chi tiêu; Mặt khác làm cho họ phải chi tiêu nhiều dẫn đến vay mượn, cầm cố,
thế chấp tài sản và họ trở thành người trong diện đói nghèo. Theo số liệu điều tra
hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động Thương binh – Xã hội, nguyên nhân đói
nghèo là do: Thiếu vốn sản xuất: 79%; Thiếu kiến thức sản xuất: 70%; Thiếu
thông tin về thị trường: 35%; Ốm đau, bệnh tật: 32%; Không có đất sản xuất: 29%;
Đông con: 24%; Không tìm được việc làm: 24%; Rủi ro, bất thường trong cuộc
sống: 5,9%; Gia đình có người mắc tệ nạn xã hội: 1%. [23]
Về ngưỡng cửa nghèo: Việc nhận diện ai là người nằm ở ngưỡng cửa nghèo
luôn là vấn đề khó khăn. Vậy ngưỡng nghèo được xác định như thế nào? Về
phương pháp luận tiếp cận, người ta có thể xác định ngưỡng nghèo theo thu nhập
hay theo chi tiêu. Tuy nhiên phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận theo
chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc lợi hơn là
thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính xác, đặc biệt ở các nước
đang phát triển (vì có một bộ phận những người lao động là tự hành nghề).
Phương pháp của Ngân hàng thế giới (WB) trong việc tiếp cận ngưỡng cửa
nghèo đói:
Phương pháp mà Ngân hàng thế giới đã sử dụng ở nhiều nước đang phát
triển là dựa vào ngưỡng chi tiêu tính bằng đô la mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường
dùng hiện nay là 1 đô la và 2 đô la/ngày. Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo
mức cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2.100
calo/người/ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm
(nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức chuẩn về cung cấp
năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hóa phi lương thực. Những
người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2.100 calo/người/ngày
gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm.
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ngưỡng nghèo như sau:
- Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương
pháp của Tổng cục Thống kê). Phương pháp này đã xác định hai ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo thứ nhất: là số tiền cần thiết để mua được một số lương
thực hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng.
Ngưỡng nghèo thứ hai: thường được gọi là ngưỡng nghèo chung, ngưỡng
này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực.
Trang 8
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
- Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (phương pháp của Bộ Lao
động Thương binh - Xã hội). Phương pháp này hiện đang được sử dụng để xác
định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói, giảm nghèo quốc gia.
1.1.2 Tiêu chí đánh giá và chuẩn đói nghèo ở Việt Nam.
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử gắn với điều kiện cụ thể và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, khó
có thể đưa ra được những tiêu chí và chuẩn mực chung xác định để đánh giá đói
nghèo cho mọi quốc gia. Tuy nhiên, để có thể hoạch định được một chính sách xóa
đói, giảm nghèo phù hợp trên phạm vi thế giới và từng quốc gia, cần phải xác định
được các tiêu chí đánh giá và chuẩn đói nghèo cụ thể.
1.1.2.1 Tiêu chí đánh giá đói nghèo ở Việt Nam.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc sử dụng các tiêu chí sau để đánh giá đói nghèo:
Thứ nhất, tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong một năm
(GNP/người/năm) hay tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người trong một
năm (GDP/người/năm).
Thứ hai, chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI).
Do chỉ số GDP/người (GNP/người) chỉ phản ánh thuần túy về mặt giá trị
chứ chưa phản ánh được đầy đủ chất lượng cuộc sống của dân cư nên từ năm
1990, Liên Hiệp Quốc đã sử dụng chỉ số HDI để bổ sung cho chỉ số GDP/người
(GNP/người) trong việc đánh giá trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Chỉ số HDI
là tiêu chí phản ánh tổng hợp trình độ phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới theo
một mặt bằng thống nhất, nó phản ánh thành tựu phát triển của một quốc gia trên
ba phương diện: mức sống, trình độ giáo dục và tuổi thọ trung bình của con người.
Ở Việt Nam, tiêu chí đánh giá đói nghèo được xác định dựa trên cơ sở:
Thứ nhất, thu nhập bình quân đầu người trong một tháng hoặc một năm
được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi (thường lấy gạo để đánh giá).
Tiêu chí này được xem là yếu tố cơ bản nhất để xác định tình trạng đói nghèo ở
nước ta trong những năm qua.
Thứ hai, điều kiện dinh dưỡng, y tế, giáo dục… là các tiêu chí bổ sung để
đánh giá tình trạng đói nghèo.
1.1.2.2 Chuẩn đói nghèo ở Việt Nam.
Chuẩn đói nghèo là công cụ để xác định các hộ đói nghèo và tỷ lệ đói
nghèo ở một vùng, một địa phương hay một quốc gia trong những thời điểm nhất
định. Nhiều nước trong đó có nước ta đã lấy mức thu nhập trên tháng làm tiêu
chuẩn đánh giá đói nghèo. Tuy nhiên, theo thời gian, mức đáp ứng nhu cầu có sự
thay đổi do sự biến động của nền kinh tế. Do vậy, chuẩn đói nghèo của mỗi quốc
gia luôn có sự thay đổi trong đó có Việt Nam.
Trang 9
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp xác định chuẩn đói nghèo:
Phương pháp thứ nhất, chuẩn đói nghèo được xác định dựa trên mức thu
nhập bình quân đầu người trong ngày, trong tháng hoặc trong năm. Chẳng hạn:
Chuẩn đói nghèo được Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) áp
dụng đối với các nước đang phát triển là 1USD/người/ngày.
Phương pháp thứ hai, chuẩn đói nghèo được xác định dựa trên lượng
kcalo bình quân đầu người trong ngày. Chẳng hạn: chuẩn đói nghèo ở Băngladet là
1.650 kcalo/người/ngày.
Ở Việt Nam, việc xây dựng chuẩn đói nghèo mới thực sự quan tâm gần
đây. Từ 1993, chuẩn đói nghèo mới được xây dựng lần đầu và được điều chỉnh
nhiều lần trong các năm tiếp theo do sự biến động của nền kinh tế. Có nhiều cơ
quan quốc tế và trong nước cùng tham gia vào xác định chuẩn nghèo đói. Các cơ
quan có vai trò to lớn trong nghiên cứu và xây dựng chuẩn nghèo ở Việt Nam là
Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổng cục thống kê,
Bộ Lao động Thương binh - Xã hội.
Chuẩn đói nghèo do Bộ Lao động Thương binh - Xã hội đưa ra cũng đã
được thay đổi nhiều lần vào các năm 1993, 1995, 1997 dựa trên thu nhập bình
quân đầu người trong hộ gia đình.
Giai đoạn 1993 – 1995:
Hộ đói: bình quân thu nhập đầu người 13kg gạo/tháng đối với khu vực
thành thị và dưới 8kg gạo/1 tháng đối với khu vực nông thôn.
Hộ nghèo: bình quân thu nhập đầu người 20kg gạo/1 tháng đối với khu vực
thành thị và dưới 15kg gạo/1 tháng đối với khu vực nông thôn.
Giai đoạn 1995 – 1997: Năm 1995, chuẩn đói nghèo được thay đổi với các mức
như sau:
Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân một người/tháng quy ra gạo dưới
13kg tính cho mọi vùng
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tùy theo các vùng: Vùng nông thôn miền núi,
hải đảo: dưới 15kg/người/tháng; Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới
20kg/người/tháng; Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng.
Giai đoạn 1997 – 2000: Năm 1997, theo Công văn số 1751/LĐTB - XH đã quy
định việc tiếp tục thay đổi chuẩn nghèo, với các mức:
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập/người trong một tháng quy ra gạo dưới 13
kg, tương đương 45 ngàn đồng (giá năm 1997) tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: là hộ có thu nhập với những mức tương ứng như sau: Vùng nông
thôn miền núi hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương đương 35 ngàn đồng). Vùng
Trang 10
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương đương 70 ngàn
đồng). Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 ngàn đồng).
Giai đoạn 2001 – 2005: Năm 2000, Quyết định số 1143/2000/QĐ-L ĐTBXH đã
ban hành chuẩn nghèo mới. Khi đó, một mặt nền kinh tế đã có những chuyển biến
theo hướng nâng cao thu nhập, đồng thời lạm phát đã được kìm chế một cách vững
chắc, tiêu chí về thu nhập đã được nâng lên về mặt lượng. Hơn nữa, tỷ lệ đói đã
giảm mạnh, nhiều nơi không còn hộ đói, vì vậy chuẩn nghèo được tính chung
không phân biệt đói và nghèo. Chuẩn nghèo mới được xác định với mức thu nhập:
Nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng; Nông thôn đồng bằng:
100.000 đồng/người/tháng; Thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày
8/7/2005 ban hành tiêu chí chuẩn nghèo như sau:
Đối với khu vực nông thôn, những hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng từ 200.000 đồng trở xuống.
Đối với khu vực thành thị, những hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng từ 260.000 đồng trở xống.
Tổng cục thống kê lại xác định chuẩn đói nghèo dựa vào các tiêu chí về chi
tiêu (tiêu dùng) của hộ gia đình và xác định mức nghèo ở hai cấp độ: nghèo nói
chung và nghèo về lương thực – thực phẩm
Nghèo nói chung là những hộ nghèo lương thực – thực phẩm, đồng thời
thiếu các chi tiêu tối thiểu cho các mặt hàng phi lương thực – thực phẩm và các
nhu cầu cơ bản khác (nhà ở, đồ dùng, chi phí cho giáo dục, y tế, chăm sóc sức
khỏe…)
Nghèo về lương thực – thực phẩm là những hộ có mức chi tiêu cho một giỏ
tiêu dùng gồm lương thực và thực phẩm không đảm bảo được 2.100 Kcalo cho
một người trong một ngày.
Việc thay đổi chuẩn nghèo qua các giai đoạn là cần thiết. Tuy nhiên, việc
thay đổi chuẩn nghèo sẽ tạo ra những đột biến về tỷ lệ hộ nghèo ở thời điểm tính
theo chuẩn nghèo mới. Vì vậy, việc đánh giá thành tựu xóa đói, giảm nghèo sẽ gặp
những khó khăn.
1.1.3 Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh giữa những giá trị truyền thống của dân
tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin
cùng với thực tiễn cách mạng của dân tộc và thời đại. Trong cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ, tư tưởng của Người chính là ngọn đuốc sáng soi rọi đường lối cách
mạng Việt Nam và đã đưa cách mạng Việt Nam đi đến bờ bến vinh quang. Ngày
nay, trong công cuộc xây dựng đất nước từ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thì tư
Trang 11
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
tưởng của Người vẫn tiếp tục soi sáng để định hướng con đường đi cho nhân dân
ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hệ thống tư tưởng của Người được được đại tướng Võ Nguyên Giáp khái
quát: “Tư tưởng Hồ Chí minh là hệ thống lí luận về đường lối chiến lược, sách
lược của cách mạng Việt Nam…Đó là tư tưởng cách mạng không ngừng, từ cách
mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nội dung cốt lõi là giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Nói ngắn gọn là độc lập
dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội; hay nói gọn hơn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội” [10;98].
Trong hệ thống tư tưởng của Người, vấn đề xóa đói, giảm nghèo không
được người trình bày một cách trực tiếp nhưng thông qua tư tưởng của Người về
chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội; qua các bài báo, bài
nói chuyện, thư gửi cho đồng bào thì vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã được thể hiện
một cách cụ thể. Người từng nói: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?. Nói một
cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [12; 161]. Có khi Người còn cụ thể
hóa mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể như làm cho nhân dân đủ ăn,
đủ mặc, ngày càng sung sướng…Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học,
ốm đau có thuốc, già không lao động được nghỉ…Tóm lại, xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. [14;591]
Ngày 28/9/1945, trên báo Cứu Quốc ra số 53, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
bài “Sẻ cơm nhường áo”, trong đó có đoạn viết “…lúc chúng ta nâng bát cơm mà
ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng” và trong bài phát biểu tại
cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch Kiến quốc ngày 10/10/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “chúng ta phải thực hiện ngay: một là làm cho
dân có ăn; hai là làm cho dân có mặc; ba là làm cho dân có chỗ ở; bốn là làm cho
dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó”.
Năm 1945, trước 2 triệu người chết đói; kế đó lại bị nước lụt, nạn đói càng
tăng thêm, nhân dân càng khốn khổ thì Người kêu gọi đồng bào cả nước : “Cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó để cứu dân nghèo”[12;
31] và Hồ Chí Minh chính là người đầu tiên thực hiện lời kêu gọi này. Bên cạnh
đó, Người còn viết thư gửi đồng bào toàn quốc ra sức cứu đói, hô hào nhân dân
chống nạn đói, coi cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm. Trong thư
gửi Nông gia Việt Nam, Bác khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất, tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững
quyền tự do, độc lập”. [12;116]
Trang 12
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Tư tưởng xóa đói, giảm nghèo của Người còn được thể hiện qua bài
“Thanh Hóa kiểu mẫu”. Trong bài viết này, Người đã nêu lên mục đích và cách
làm cụ thể để xóa đói, giảm nghèo.
“Mục đích:
Làm cho nghèo thì đủ ăn
Người đủ ăn thì khá giàu
Người khá giàu thì giàu thêm
Người nào cũng biết chữ
Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước.
Cách làm:
Đem tài dân sức dân, của dân làm lợi cho dân. Không phải Chính phủ xuất
tiền ra làm. Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động. Vì vậy, những kế hoạch địa
phương có thể tự thực hành được, cứ giúp cho đồng bào làm dần dần, như hợp tác
xã, v.v…
Việc gì cũng phải từ việc dễ đến việc khó, từ việc gấp đến việc hoãn, từ
việc ít tốn tiền đến việc tốn nhiều tiền. Nói tóm lại: kế hoạch phải thiết thực, phải
làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện
được”. [12; 288 - 289]
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Người nói: “…,chính
sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì
vậy, cán bộ đảng và chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến
đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất
và tiết kiệm. Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa
ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được”. [13; 572].
Người còn khẳng định: “Phải biết giáo dục, lãnh đạo, giúp đỡ nhân dân tăng
gia sản xuất và tiết kiệm. Phải biết tiết kiệm là vì nếu được bữa nào xào bữa ấy thì
sẽ thiếu thốn. Nếu cán bộ khéo lãnh đạo và thiết thực giúp đỡ đồng bào và đồng
bào tập trung tăng gia sản xuất và tiết kiệm thì dân sẽ no ấm, mọi việc trôi chảy,
thuế khóa dễ thu, tài chính dồi dào, dân no thì nước giàu, vì nước ta là nước nông
nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp. Nếu cán bộ không biết lãnh đạo và
thiết thực giúp đỡ dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm, nếu đảng viên không xung
phong gương mẫu thì việc gì cũng sẽ khó làm. Cho nên, chính sách tăng gia sản
xuất và tiết kiệm là chính sách căn bản của chúng ta. Tăng gia sản xuất và tiết
Trang 13
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
kiệm để nâng cao đời sống của nhân dân, khôi phục kinh tế, mở mang văn hóa và
đề phòng đói, chống nghèo” [13; 572].
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh thì xóa đói, giảm nghèo là sự nghiệp mang
tính lâu dài, là sự nghiệp chung của toàn xã hội. Trong đó, Đảng và Nhà nước giữ
vai trò quan trọng trong việc đề ra những chủ trương, chính sách chăm lo đời sống
cho nhân dân và phải bảo đảm thực hiện; Đảng và Nhà nước phải hướng dẫn, giúp
đỡ nhân dân biết cách sản xuất và thực hành tiết kiệm; Đảng và Chính phủ phải
biết: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”, có như vậy thì công cuộc
xóa đói, giảm nghèo của chúng ta mới có hiệu quả .
Thực hiện lời Bác dạy, ngày 17 tháng 10 năm 2000 Chủ tịch Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra lời kêu gọi và phát động trong toàn dân
cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” và lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là
“Ngày vì người nghèo”. Từ đó đến nay, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” đã
được triển khai trên địa bàn cả nước và từ ngày 17 tháng 10 đến 18 tháng 11 hàng
năm được coi là tháng cao điểm vì người nghèo.
1.2 Khái quát tình hình thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam và chính
sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.1 Quan điểm chỉ đạo và chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước ta.
Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề sớm được Đảng và Nhà nước ta quan tâm,
ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập (2/9/1945), Đảng và Nhà nước ta đã
xác định việc diệt “giặc đói” là một trong những nhiệm vụ cấp bách cần được thực
hiện ngay để đưa nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng. Trong từng thời kỳ cách
mạng Đảng và Nhà nước ta có những quan điểm, chủ trương, chính sách xóa đói,
giảm nghèo thích hợp, đặc biệt rõ nét nhất trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay.
Thứ nhất, xóa đói, giảm nghèo được coi là chương trình cấp bách nhất, cần
giải quyết trước hết so với các mục tiêu phúc lợi xã hội khác. Xóa đói giảm nghèo
được giải quyết là một tín hiệu, đồng thời cũng là một bước thiết thực nhất nhằm
thực hiện vấn đề công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, xóa đói, giảm nghèo là một trong những chính sách ưu tiên trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đều
phải có mục tiêu hướng vào người nghèo, tạo động lực và tiền đề cho xóa đói,
giảm nghèo.
Thứ ba, xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế -
xã hội bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo đảm bảo
công bằng và tiến bộ xã hội, hạn chế tốc độ gia tăng tốc độ khoảng cách giàu
nghèo.
Trang 14
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Thứ tư, xã hội hóa công tác giảm nghèo. Nhà nước tạo cơ chế, chính sách
hỗ trợ, cộng đồng chia sẻ góp sức và nhất là bản thân người nghèo phải tự lực
vươn lên thoát nghèo, phấn đấu trở thành khá giả, không trông chờ ỷ lại vào Nhà
nước và xã hội.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1/1994)
đã chỉ rõ: “ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước phát triển khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo. Coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng
thời có chính sách ưu đãi hợp lí về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo
điều kiên cho người nghèo có thể tự mình vươn lên làm đủ sống và phấn đấu trở
thành khá giả”. [7; 47]
Thứ năm, thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo phải thông qua
những biện pháp cụ thể, sát với tình hình địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn
hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010), Đảng
ta chủ trương: “Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin,
chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm… đối với những vùng nghèo,
xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có
đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng có tiềm năng. Nhà
nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu
chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với người có
hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng.
Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên củng cố
thành quả xóa đói, giảm nghèo.” [8; 211 – 212]
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006), Đảng ta chủ trương: “Đa
dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo hướng
phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế.
Nhà nước tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và trợ giúp về điều
kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn
lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững.” [9; 217]
Thứ sáu, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số là
một trong những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách về công tác dân tộc trong thời kỳ
mới: “Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào
dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Trong
những năm trước mắt tập trung giúp đồng bào nghèo, các dân tộc đặc biệt khó
khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình trạng thiếu lương thực, thiếu
Trang 15
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối
thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn…”. [ 1; 48]
Mục tiêu đặt ra của chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước
là xóa bỏ đói nghèo đồng thời khuyến khích làm giàu hợp pháp; xóa đói, giảm
nghèo bền vững và gắn với phát triển; tăng trưởng vì người nghèo, làm cho người
nghèo hưởng lợi càng nhiều từ kết quả tăng trưởng. Chủ trương, chính sách ấy
được cụ thể hóa bằng các Quyết định của Chính phủ về phê chuẩn các chương
trình, mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, trợ giúp người nghèo như:
Chương trình 327 về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc (Quyết định của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng số 327 – CT ngày 15/9/1992), sau này phát triển lên và
được thay thế bằng dự án trồng năm triệu ha rừng.
Tháng 7 năm 1998 Chính phủ đã phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia
xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1998–2000 Quyết định số 133/198/QĐ – TTg, ngày
23/07/1998) với 9 nội dung:
- Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo
- Hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn
- Định canh, định cư, di dân kinh tế mới
- Hướng dẫn người nghèo cách làm ăn
- Hỗ trợ tín dụng
- Y tế cho người nghèo
- Giáo dục cho người nghèo
- Hỗ trợ phát triển sản xuất, ngành nghề
- Đào tạo cán bộ làm xóa đói, giảm nghèo, cán bộ chính quyền các xã
nghèo.
Ngày 31 tháng 07 năm 1998 Chính phủ đã phê duyệt chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa (Quyết
định số 135/1998/QĐ – TTg, ngày 31/07/1998), theo đó Chính phủ sẽ tập trung
đầu tư cho 1.715 xã đặc biệt khó khăn (gồm 1658 xã miền núi, 147 xã vùng đồng
bằng sông Cửu Long, thuộc 267 huyện của 46/61 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Có 2 mục tiêu lớn là đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư phát triển sản xuất.
Ngày 26 tháng 03 năm 2001 Thủ tướng Chính phủ lại có Quyết định số
42/2001/QĐ – TTg về việc bổ sung các xã đặc biệt khó khăn của chương trình
135. Theo Quyết định này, cả nước bổ sung thêm 447 xã thuộc 192 huyện của 33
tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương vào diện xã đặc biệt khó khăn và được
hưởng các chính sách dành cho chương trình từ kế hoạch năm 2001, đưa tổng số
xã đặc biệt khó khăn của cả nước lên 2.162 xã.
Trang 16
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Ngày 18 tháng 11 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình
ghi nợ lệ phí trước bạ nhà ở, đất ở đối với hộ gia đình cá nhân ở các xã thuộc
chương trình 135 và hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
(QĐ số 245/2003/QĐ – TTg).
Ngày 20 tháng 07 năm 2004 Chính phủ đã phê duyệt một số chính sách hỗ
trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo, đời sống khó khăn (Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 134/2004/QĐ
– TTg).
Ngày 15 tháng 06 năm 2005 Chính phủ đã ra quyết định thu hồi đất sản
xuất của các nông trường, lâm trường để giao cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo (Quyết định số 146/2005/QĐ – TTg).
Để tiếp tục giảm đói nghèo, ngày 05 tháng 02 năm 2007 Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 –
2010 (Quyết định số 20/2007/QĐ – TTg), mục tiêu tổng quát là: đẩy mạnh tốc độ
giảm nghèo, hạn chế tái nghèo, củng cố thành quả giảm nghèo, tạo cơ hội cho hộ
đã thoát nghèo vươn lên khá giả, cải thiện một bước điều kiện sống và sản xuất ở
các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhóm hộ
nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống
giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và
nhóm hộ nghèo. Mục tiêu cụ thể của chương trình này đến năm 2010 là:
a) Phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10 – 11%
năm 2010 (trong 5 năm giảm 50% số hộ nghèo).
b) Thu nhập của nhóm hộ nghèo tăng 1,45 lần so với năm 2005.
c) Phấn đấu 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải
đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Điểm mới trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn
2006 – 2010 là:
Chương trình đã đề ra 9 chỉ tiêu cụ thể cần đạt được đến năm 2010, bổ
sung thêm một số chính sách, dự án và hoạt động mới như: dự án dạy nghề cho
người nghèo, dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, chính
sách trợ giúp pháp lý, hoạt động truyền thông và giám sát đánh giá.
Về nguồn vốn: Ngoài nguồn kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Trung ương bố trí
khoảng 12.472 tỷ đồng thì trong Quyết định còn ghi rõ: ngân sách địa phương phải
bố trí tối thiểu 1% chi ngân sách hàng năm của địa phương để thực hiện chương
trình.
Về cơ chế hỗ trợ người nghèo trong giai đoạn này, Nhà nước hỗ trợ trực
tiếp người nghèo các chi phí giáo dục, dạy nghề (miễn giảm học phí, cấp trực tiếp
Trang 17
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
cho người nghèo hoặc cơ sở), chi phí y tế (cấp thẻ bảo hiểm y tế) và tiếp tục
nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích hộ, xã vượt
nghèo.
Tạo điều kiện để người dân tham gia quá trình xây dựng, triển khai thực
hiện chương trình bảo đảm tính dân chủ, công khai và minh bạch. Tiếp tục phân
cấp quản lý cho địa phương, đặc biệt là cấp xã trong việc công nhận, quản lý hộ
nghèo và triển khai thực hiện chương trình.
Thực hiện giám sát và đánh giá trên cơ sở thiết lập hệ thống chỉ tiêu phù
hợp ở các cấp với nhiều hình thức khác nhau.
Về tổ chức chỉ đạo thực hiện: Thành lập Ban chỉ đạo chung của Chính phủ
để chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006
-2010 và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn với sự
tham gia của các bộ ngành, các tổ chức đoàn thể có liên quan. Thành lập văn
phòng điều phối chương trình giúp Ban chỉ đạo Trung ương đặt tại Bộ Lao động
Thương binh - Xã hội, ở địa phương, Sở Lao đông Thương binh - Xã hội là cơ
quan trực tiếp điều phối thực hiện chương trình trên địa bàn.
Tăng cường sự tham gia của các cơ quan thông tin tuyên truyền trong quá
trình thực hiện công tác giảm nghèo, đây được coi là giải pháp quan trọng để nâng
cao nhận thức, năng lực của người nghèo và cộng đồng
Chính phủ cũng giao cho Bộ Lao động Thương binh - Xã hội xây dựng và
trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích hỗ trợ hộ, xã mới thoát
nghèo; giao cho Bộ Nội vụ chỉ đạo thực hiện việc bố trí cán bộ làm công tác giảm
nghèo ở các cấp và giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành trong quá trình tổ
chức thực hiện chương trình.
Ngoài các Quyết định trên, Chính phủ còn thực hiện hỗ trợ đối với những
hộ nghèo trước tác động của việc tăng giá trong năm 2008 như sau:
Hỗ trợ học sinh Mẫu giáo và phổ thông học bán trú con hộ nghèo ở các xã
đặc biệt khó khăn và thôn bản đặc biệt khó khăn ở khu vực II theo mức 70.000
đồng/tháng/học sinh Mẫu giáo; 140.000 đồng/tháng/học sinh phổ thông học bán
trú. Nâng mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo (từ 80.000
đồng/người/năm), trẻ em dưới 6 tuổi (từ 108.000 đồng/người/năm) lên 130.000
đồng/người/năm. Hỗ trợ người cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện với
mức 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện. Mức hỗ trợ này sẽ tiếp tục được
xem xét nâng lên khi Nhà nước điều chỉnh lương tối thiểu. [18]
1.2.2 Khái quát tình hình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam.
1.2.2.1 Thành tưụ:
Trang 18
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Ở Việt Nam xóa đói, giảm nghèo đã trở thành Chương trình mục tiêu quốc
gia. Vì vậy xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những thành tựu nhất định. Tại Hội
nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2005 tại New York, Việt Nam được đánh giá là
một trong những quốc gia thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo.
Xét theo tỷ lệ hộ đói nghèo: Năm 2001, tỉ lệ hộ nghèo: 15,66%; Năm 2002,
tỉ lệ hộ nghèo: 13,00%; Năm 2003, tỉ lệ hộ nghèo: 10,00%; Năm 2004, tỉ lệ hộ
nghèo: 8,30%; Năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo: 21,85%; Năm 2006, tỉ lệ hộ nghèo: 19%.
Như vậy, từ năm 2001 đến năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm nhanh
chóng. Tính theo chuẩn nghèo năm 2001, cả nước có 2,8 triệu hộ, chiếm 15,66%
tỷ lệ hộ của cá nước đến năm 2004 giảm xuống còn 1,44 triệu hộ chiếm 8,3% tỷ lệ
hộ cả nước. Đến năm 2005 do áp dụng chuẩn nghèo mới nên tỉ lệ hộ nghèo đói
trong cả nước tăng lên rõ rệt từ 8,3 năm 2004 lên 21,85% nhưng đến năm 2006 tỷ
lệ hộ nghèo cả nước đã giảm xuống còn khoảng 19% giảm gần 3% so với năm
2005. [23]
Xét theo các vùng (tính theo chuẩn nghèo năm 2001): Theo báo cáo của Bộ
Lao động Thương binh - Xã hội, năm 2001, tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng Đông Bắc:
22,35%; Tây Bắc: 33,96%; Bắc Trung Bộ: 25,64%; Nam Trung Bộ: 22,34%; Tây
Nguyên: 24,9%. Từ 2001 đến 2004, Tây Bắc đã giảm 19,08% số hộ đói nghèo,
còn các vùng Bắc Trung Bộ; Nam Trung Bộ; Tây Nguyên có tỷ lệ giảm hộ đói
nghèo hơn 10%. Trong khi đó, vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng
bằng Sông Cửu Long có mức giảm từ 3,63% đến 6,78%. Cụ thể: Năm 2001, tỉ lệ
hộ nghèo Đồng bằng Sông Hồng: 9,76%; Đông Nam Bộ: 8,88%; Đồng Bằng Sông
Cửu Long: 14,18% nhưng đến năm 2004 tỉ lệ hộ nghèo ở các vùng này giảm
xuống, lần lượt là: Đồng bằng Sông Hồng: 6,13%; Đông Nam Bộ: 2,25%; Đồng
bằng Sông Cửu Long: 7,4% [23].
Xét theo trạng thái các xã nghèo: Bộ mặt các xã nghèo, xã đặc biệt khó
khăn đã có sự thay đổi đáng kể, nhất là về hạ tầng cơ sở phục vụ cho phát triển sản
xuất hàng hóa. Chất lượng cuộc sống người dân ở xã nghèo được nâng cao, nhất là
nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc miền núi, cụ thể: Thu nhập bình quân đầu người
của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng
khoảng 1,45 lần vào năm 2005. Chi tiêu bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm
2001 là 121.000 đồng/người/tháng và tăng khoảng 8% – 9% trong giai đoạn 2002
– 2005. Trong giai đoạn 1993 – 2004, Việt Nam đã giảm được 60% tỷ lệ nghèo
khổ, tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe miễn phí cho 88% người nghèo, hoàn thành
giáo dục Tiểu học cho tất cả mọi người dân, xây dựng 400.000 căn hộ mới cho
người nghèo, xóa bỏ tất cả những căn nhà tạm ở 2.000 thôn, xóm và năm tỉnh. [23]
Trang 19
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
Giảm nghèo ở Việt Nam phản ánh cả trên bình diện gia tăng chi tiêu đầu
người trong hộ gia đình và tăng thu nhập đầu người nhờ có thành tựu 20 năm đổi
mới (1986 – 2006). GDP bình quân đầu người đã tăng nhanh từ 98 USD năm 90
lên 729 USD năm 2006 [19]. Như vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục giảm được mức
nghèo đói, đời sống của những hộ nghèo, nhóm nghèo ngày càng được cải thiện rõ
rệt qua các năm.
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trên:
Một là, Đảng và Nhà nước ta đã nâng cao nhận thức, năng lực và trách
nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy,
đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong các hoạt động xóa đói, giảm nghèo.
Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo: trong 5 năm
(2001–2005) đã tổ chức đào tạo 130.374 lượt cán bộ, trong đó 95% là cán bộ cấp
xã, thôn, bản về công tác xóa đói, giảm nghèo, với 63 tỷ đồng. Nội dung đào tạo
có những thay đổi và tập trung vào những vấn đề thiết yếu như: nâng cao kỹ năng
tổ chức và tham gia của người dân vào các hoạt động chung, chú trọng đến các vấn
đề tổ chức các nhóm tín dụng, tiết kiệm, giám sát và đánh giá nghèo đói của các
cán bộ xóa đói, giảm nghèo, lập kế hoạch phát triển kinh tế…Các chương trình
đào tạo được biên tập và dịch ra 6 thứ tiếng dân tộc để có thể phổ biến cho đồng
bào dân tộc thiểu số.
Hai là, Đảng và Nhà nước ta tạo những điều kiện thuận lợi để người nghèo
tiếp cận với các điều kiện sản xuất. Cụ thể:
Về tín dụng ưu đãi người nghèo: Trong 4 năm (2001 – 2005), Ngân hàng
chính sách xã hội đã cho 3,75 triệu hộ vay vốn, chiếm khoảng 75% số hộ nghèo
được vay vốn. Để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi, Nhà nước đã cấp bù chênh
lệch lãi suất với số tiền 1.872 tỷ đồng. Phần lớn hộ nghèo sử dụng vốn vay có hiệu
quả, trả vốn đúng hạn.
Về hỗ trợ sản xuất: Thực hiện chính sách hỗ trợ đất sản xuất, các địa
phương đã hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo để khai
hoang ruộng bậc thang. Hỗ trợ 5.139 ha đất cho 10.455 hộ ở Tây Nguyên, các tỉnh
Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăng…đã hỗ trợ cho 4.325 hộ nghèo vay chuộc lại đất
bị cầm cố [15]. Nhờ đó, một bộ phận người nghèo đã có đất để phát triển sản xuất,
tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống thoát ra khỏi diện đói nghèo.
Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn theo
quyết định QĐ 257/2003/QĐ – TTg. Đầu năm 2005 với nguồn ngân sách Trung
ương hỗ trợ là 78,5 tỷ đồng cùng với 44,5 tỷ đồng do địa phương huy động được
đã hỗ trợ các địa phương xây dựng với mức hỗ trợ là 500 triệu đồng/xã. Kết quả là
có 230 công trình được xây dựng (trong đó có 18 công trình thủy lợi, 5 công trình
Trang 20
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh
kè chống nước biển, 10 công trình bờ bao chống triều cường, 9 công trình đường
ra bến cá, 8 chợ cá, 1 trạm bơm cấp nước biển và 179 công trình phục vụ đời sống
dân sinh như trường học, trạm y tế…[23]
Ba là, Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản.
Hỗ trợ người nghèo về y tế: Thực hiện theo Quyết định 139/QĐ – TTg của
Thủ tướng Chính phủ về thành lập quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo, năm
2005 có 3,6 triệu người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế và 4,1 triệu người nghèo
được cấp giấy khám chữa bệnh miễn phí với tổng kinh phí hỗ trợ là 246 tỷ đồng.
Tổng cộng đã có 7,7 triệu người nghèo được hỗ trợ để tiếp cận với dịch vụ y tế
trong năm 2005. So với 2001 số người được hỗ trợ chữ bệnh tăng thêm 3,2 triệu
người. [23]
Hỗ trợ người nghèo về giáo dục: Hàng năm có trên 3 triệu lượt học sinh
nghèo được miễn giảm học phí và các khoảng đóng góp xây trường; 2,5 triệu học
sinh nghèo dân tộc thiểu số được cấp, mượn sách giáo khoa và hỗ trợ vở viết với
tổng kinh phí hàng năm trên 100 tỷ đồng.
Hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: Trợ giúp người nghèo về nhà ở được các địa
phương đặc biệt quan tâm. Cuối năm 2004 cả nước đã hỗ trợ cho 293.137 hộ
nghèo về nhà (trong đó sửa chữa 83.551 nhà và làm mới 209.586 nhà) với tổng
kinh phí trên 1.198 tỷ đồng. Ước tính đến hết năm 2005, cả nước hỗ trợ làm mới
và sửa chữa được khoảng 350.000 căn nhà. Vào tháng 6/2005 đã có 7 tỉnh tuyên
bố về cơ bản đã xóa xong nhà tạm (Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Hải Dương, Hải
Phòng, Bắc Ninh, Hà Nội và Hưng Yên). [23]
Như vậy, trong 5 năm (2001– 2005) đã huy động được 41.000 tỷ đồng cho
mục tiêu giảm nghèo, riêng Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo
là 21.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương là 3000 tỷ đồng (chiếm
14,28%), ngân sách địa phương 2500 tỷ đồng (chiếm11,90%), huy động từ cộng
đồng1.500 tỷ đồng (chiếm 7,14%), từ lồng ghép các chương trình dự án 2000 tỷ
đồng (chiếm 9,52%) và lớn nhất là nguồn tín dụng 12.000 tỷ đồng (chiếm
57,14%). [23]
1.2.2.2 Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế sau đây:
Thứ nhất, tốc độ giảm nghèo không đồng đều: Tuy tỉ lệ hộ nghèo giảm
nhanh nhưng tốc độ giảm nghèo giữa các vùng không đều. Tây Bắc, Tây Nguyên,
Bắc Trung Bộ có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất và vùng đồng bằng sông Hồng,
Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất; Tốc độ giảm nghèo của vùng dân tộc
Trang 21