Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

vai trò của các tổ chức, cá nhân đối với dlst tại khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.13 KB, 35 trang )

1. Giới thiệu chung về VQG Cúc Phương :
1.1.Lịch sử.
Vườn quốc gia Cúc Phương là một nơi mang giá trị lịch sử và là địa điểm khảo cổ.
Các di vật của người tiền sử có niên đại cách đây khoảng 12.000 năm đã được phát hiện tại
đây, chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực Cúc Phương từ 7.000 đến 12.000
năm trước. Người ta đã phát hiện một loạt các hiện vật như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao
bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền v.v. trong một số hang động thuộc vườn quốc gia này. Gần
đây, một phần bộ xương của một loài lưỡng cư biển, rất có thể là thằn lằn cá đã được phát
hiện trong địa bàn vườn.
Năm 1960 , rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và theo Quyết
định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 Cúc Phương được quyết định thành lập như là một
khu rừng cấm với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam
. Quyết định số 18 QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương
thành Vườn quốc gia Cúc Phương và thành lập một Ban quản lý vườn quốc gia này. Quyết
định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của
Ban quản lý .
1.2. Đặc điểm tự nhiên.:
● Vị trí địa lý : Vườn quốc gia Cúc Phương trải dài từ 20°14’ đến 20°24’ vĩ bắc,
105°29’ tới 105°44’ kinh đông , nằm trong một thung lũng lớn dài 25km , giữa hai dãy núi
đá vôi trong đoạn cuối dãy Hoàng Liên Sơn , ở ranh giới ba tỉnh Hoà Bình , Thanh Hoá và
Ninh Bình (nhưng phân nửa nằm trên diện tích Ninh Bình).
● Diện tích : Theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật của vườn quốc gia đã được Viện
điều tra quy hoạch rừng xây dựng vào tháng 10 năm 1985 và được chủ tịch hội đồng Bộ
trưởng phê duyệt theo quyết định số 139/CT xác định tổng diện tích đưa ra là 22.200 ha
bao gồm 11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình , 5.850 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình
và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Thanh Hóa. VQG Cúc Phương được phân làm 3 khu chức
năng :Thứ nhất là khu bảo vệ nguyên vẹn có diện tích là 20.745 ha có chức năng duy trì,
bảo vệ những điều kiện tự nhiên nguyên thủy nhất, bảo vệ nguyên vẹn tài nguyên thiên
nhiên, cảnh quan di tích lịch sử. Thứ hai là khu chuyên dùng với diện tích 743 ha có chức
năng hoạt động dịch vụ, quản lý hành chính, nghiên cứu khoa học, dịch vụ du lịch và dân
cư xen kẽ. Thứ ba là vùng đệm nhằm tạo vành đai bảo vệ tránh những tác động xấu của


con người cho hai khu trên.
● Độ cao :150-637m.
1
Địa hình, thuỷ văn : Vườn quốc gia Cúc Phương nằm ở phía nam dãy núi Tam Điệp,
một dãy núi đá vôi chạy từ tỉnh Sơn La ở hướng tây bắc.Dải núi đá vôi này với ưu thế là
địa hình kiểu karst tự nhiên , hình thành trong lòng đại dương cách đây khoảng 200 Ma.
Dãy núi đá vôi nhô lên đến độ cao 637m tạo thành một nét địa hình nổi bật giữa một vùng
đồng bằng. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài khoảng 25 km và
rộng đến 10 km, ở giữa thung lũng chạy dọc hết gần chiều dài của dãy núi.Tại đây có rất
nhiều hang động với cảnh quan kì thú và ẩn chứa những chứng tích văn hóa lịch sử lâu đời
như động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa, hang Con
Moong…
Phần lớn nước ở trong vuờn quốc gia bị hệ thống các mạch nước ngầm chằng chịt
hút rất nhanh chóng, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ hai bên sườn của vườn
quốc gia. Do vậy không có ao hồ tự nhiên hay các thuỷ vực tĩnh nằm trong vườn quốc gia
mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi. Con sông này nằm ở phía tây vườn,
chảy theo hướng bắc-nam đổ vào sông Mã.
● Khí hậu : Khí hậu Cúc Phương thuộc loại nhiệt đới gió mùa , nhiệt độ trung bình
năm khoảng 24,7°C. Mùa khô ở Cúc Phương từ tháng 12 đến tháng 4 , mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11. Mưa khá to, dâng rất nhanh và rút cũng rất nhanh. Lượng mưa trung bình
hàng năm lên tới 2.157mm với lượng mưa cao nhất là 3300mm vào năm1963.Số ngày mưa
trung bình năm là 224 ngày.
Đến Cúc Phương đẹp nhất là vào mùa khô từ tháng
12-tháng 4,khi những cơn mưa dữ dội đi qua. VQG
Cúc Phương là một khu rừng nguyên sinh với hệ
sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú được
bảo vệ nghiêm ngặt lại nằm trên tuyến đường du
lịch với những điểm du lịch hấp dẫn như Bích
Động, cố đô Hoa Lư, bãi biển Sầm Sơn…Vì vậy
Cúc Phương chính là một điểm đến lí tưởng cho

những ai yêu thích du lịch sinh thái.
Hệ sinh thái.
• Thực vật : Cúc Phương có sự phát triển hệ
thực vật rất phong phú và đa dạng, là nơi tập trung của
4 luồng thực vật khác nhau. Một là luồng á nhiệt đới
(long não, mộc lan, máu chó ). Hai là luồng nhiệt đới
nóng ẩm (các cây họ thầu dầu, chò chỉ ). Ba là luồng ôn
2
đới (dẻ, ngát ). Bốn là luồng Tây Nam (họ bàng, họ gạo, họ bồ hòn). Theo số liệu gần
đây , Cúc Phương có 1983 loài thực vật bậc cao thuộc 912 chi trong 219 họ, 86 bộ của
7 ngành, trong đó có 433 loài cây làm thuốc, 229 loài cây ăn được, nhiều loài đươc ghi
trong sách đỏ Việt Nam. Thảm thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương có ưu thế là rừng
trên núi đá vôi,92% đất có thực vật che phủ,rất phong phú về loài. Ở một đôi chỗ, rừng
hình thành nên nhiều tầng tán có thể đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán đạt đến
độ cao trên 40m. Do địa hình dốc, tầng tán thường không liên tục và đôi khi sự phân
tầng không rõ ràng. Nhiều cây rất phát triển hệ rễ bạnh để đáp ứng vơi tầng đất mặt
thường mỏng. Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loại cây gỗ lớn như: chò xanh, chò
chỉ, đăng Với diện tích bằng 1/700 diện tích miền Bắc, 1/1500 diện tích lãnh thổ cả
nước nhưng hệ thực vật VQG Cúc Phương chiếm tỷ lệ 76% số họ, 48,6% số chi, 30%
số loài của miền Bắc và chiếm 68,9% số họ, 43,6% số chi, 24,6% số loài hiện có ở Việt
Nam. Những con số đó cho thấy tầm quan trọng của rừng Cúc Phương và bảo tồn Đa
dạng sinh học. Song Vườn Quốc gia Cúc Phương còn nổi tiếng ở chỗ tồn tại những cổ
thụ khổng lồ, như cây chò chỉ ( Parashorea chinensis ) sống trên 1000 năm tuổi, có
phần thân dưới cành tới 70m, đường kính ngang ngực 2,4m ; cây chò xanh ( Terminalia
myriocarpa Heurcket Muell ) thân cao 45m, chu vi gốc 25m ; cây Vù hương
(Cinnamomum balansae) cao 48m, đường kính 2,5m v.v…Riêng hoa phong lan có tới
50 loài, có loài cho hoa và hương thơm quanh năm.
● Động vật : Hệ thực vật phong phú đa dạng của Cúc Phương tạo điều kiện phát triển
của nhiều loài động vật.Cúc Phương có tới 88 loài thú; 308 loài chim trong đó có nhiều
loài thuộc nhóm gõ kiến, sáo, quạ, đớp ruồi; 43 loài lưỡng thê; 67 loài bò sát, 65 loài cá ;

gần 2.000 loài côn trùng và 12 loài giáp xác . Một số loài động vật được ghi vào sách đỏ
mà thế giới không còn , chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng đỏ,culi lùn , tê tê
…Khu chăn nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao, nai vàng, khỉ vàng, voọc quần đùi,
sóc bay… là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các nhà khoa học. Cúc Phương còn là
quê hương của hàng trăm loài chim, bướm đẹp, lạ, và đến nay đã xác định được 280 loài
bướm , 7 loài trong số đó là các loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam tại Cúc
Phương vào năm 1998. Riêng một số loài không xương sống cũng rất đặc sắc như bướm kê
ly ma (hình chiếc lá khô), bọ ngựa (hình lá xanh) hay bọ que (hình chiếc que củi khô….
Cúc phương là nơi sinh sống của một số quần thể thú quan trọng về mặt bảo tồn, trong đó
có loài linh trưởng đang bị đe doạ tuyệt chủng trên toàn cầu ở mức đe doạ cực kì nguy cấp
là voọc quần đùi trắng và loài sẽ bị nguy cấp trên toàn cầu là cầy vằn bắc .Thêm vào đó,
loài báo hoa mai là loài bị đe doạ ở mức quốc gia cũng mới được ghi nhận gần đây . Cúc
3
Phương có trung tâm bảo tồn loài linh trưởng lớn nhất Đông Nam Á về quy mô, kỹ thuật
và tổ chức. Ở đây nuôi 15 loài linh trưởng nằm trong sách Đỏ thế giới, trong đó có 4 loài
đặc hữu là voọc mông trắng, voọc đầu trắng, voọc Hà Tĩnh và voọc ngũ sắc.Ngoài ra nơi
đây còn có 17 loại rùa, trong đó có hai loài rùa nằm trong danh sách các loài động vật sắp
nguy cấp của thế giới là Rùa Núi Vàng và Rùa Núi Viền.
Tổ chức Bảo tồn Chim quốc tế tại Việt Nam (BirdLife) vừa hoàn thiện danh sách các
khu xem chim tại Việt Nam, trong đó xác định Vườn quốc gia (VQG) Cúc Phương (Ninh
Bình) là 1 trong 15 khu xem chim thuận tiện nhất nước ta.
● Con người : Cúc Phương là nơi cư trú và sinh sống của cộng đồng người Mường
với những nét văn hoá độc đáo và đặc trưng. Đó là những nếp nhà sàn, ruộng bậc thang,
những cối giã gạo nương, những khung dệt thổ cẩm. Độc đáo hơn là những lễ hội, phong
tục tập quán và nếp sống của cộng đồng mà du khách có thể cảm nhận được trong thời gian
thăm bản. Khách có thể tới làng Khanh, một làng du lịch sinh thái với những ngôi nhà
truyền thống của người Mường. Bà con trong làng đã được chuyển giao công nghệ nuôi
ong, hươu, cải tạo vườn tạp, khôi phục nghề dệt thổ cẩm. Ban Quản lý Vườn Cúc Phương
cũng đang mở rộng mô hình làng Khanh ra các bản làng khác để hình thành tuyến du lịch
sinh thái bản làngDu khách cũng có thể nghỉ đêm trong những ngôi nhà nhỏ hai phòng

nằm nép dưới bóng cây ở vùng đệm của rừng.
1.3. Dân cư.
● Dân số: Khi vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống
trong các xóm thuộc vùng lõi của vườn quốc gia này. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết
thúc vào cuối năm 1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn
địa ngoài cửa vườn. Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông
Bưởi bên trong vườn. Số dân này cũng đang được lên kế hoạch để di dời. Khoảng trên
62000 dân sống ở vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong số họ có cuộc sống
phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn .Cúc Phương là một trong
2 xã miền núi của huyện Nho Quan.Trung tâm vườn có 9 bản trong đó địa phận tỉnh Thanh
Hoá 2 bản, Hoà Bình 1 bản , Ninh Bình 6 bản. Số bản trên đất Ninh Bình đều nằm gần
đường ô tô từ cửa rừng đến trung tâm. Đó là bản Mạc, bản Đang, bản Mền, bản Đồng Cơn,
bản Đăng và sâu nhất là bản Bống.
● Tập quán sinh hoạt cụ thể : Người Mường Cúc Phương ở nhà sàn làm bằng gỗ, vách
thường làm bằng nứa, giữa thờ thần rừng và gia tiên, gian giữa có một cửa sổ nhìn ra
hướng cổng. Ngày lễ Tết hoặc cúng giỗ tổ tiên, cổng được quét vôi treo vào đó cái rổ,
thúng hoặc nồi hỏng.Về tôn giáo, người Mường Cúc Phương có hai tôn giáo chính, đó là
4
đạo Phật và đạo Thiên chúa.Trong bản có già bản là người cao tuổi có uy tín, có hiểu
biết. Trong bản còn có một nhân vật quan trọng là thầy mo, việc chính là cúng ma . Thầy
mo có chút hiểu biết về các loại lá cây rừng để chữa các bệnh thông thường. Người
Mường không có chữ viết riêng, tiếng nói không riêng nhưng có một số từ vực có dùng
cả tiếng Kinh, những từ vực ấy khi phát âm có lái đi một chút. Người Mường có tập tục
“Quyền ún “ (ún là em ) nghĩa là quyền của người nhỏ nhất trong nhà không kể trai hay
gái thể hiện lĩnh vực bán đổi các tài sản trong nhà. Người Mường Cúc Phương trước
ngày di dời khỏi trung tâm rừng, phương thức canh tác là làm nương rẫy, trồng ngô, lúa,
sắn, chặt cây làm nương rẫy, tháng 9 thu hoạch lúa ngô. Văn hoá ẩm thực Cúc Phương
được biết đến với rượu cần và cơm lam. Trong tập tục cưới hỏi,thách cưới to nhỏ phụ
thuộc vào vị trí xã hội, quan hệ của nhà gái .
1.4. Cơ sở hạ tầng.

Sau 7 năm ( từ 1999-2005 ) thực hiện Chương trình 135, huyện Nho Quan đã xây
dựng và đưa vào sử dụng 11km đường liên xã nối liền vườn quốc gia Cúc Phương với
quốc lộ 45 ; cứng hóa một số đường giao thông liên thôn bản và đường đi nội bộ trong các
thôn bản ; xây dựng được 2 trạm xá kiên cố, xây dựng hoàn chỉnh 2 hệ thống cấp nước
phục vụ nước sinh hoạt cho ở bản Bãi Cả ( xã Cúc Phương ).Huyện Nho Quan đã xây dựng
đường điện lưới quốc gia, xây dựng trạm tiếp sóng truyền hình, cung cấp kịp thời thông tin
thời sự trong nước và quốc tế phục vụ bà con dân bản. Cũng trong Chương trình 135,
huyện Nho Quan còn được hỗ trợ giống, phân bón và chuyển 65 ha đất lâm nghiệp sang
trồng mía, dứa Khoảng 320 hộ dân với 643 nhân khẩu, 332 lao động trong vùng đệm
vườn quốc gia Cúc Phương đã đươc di dời đến nơi ở mới ổn định và thuận lợi hơn cho
làm ăn, sinh hoạt.
Theo dự kiến đường xuyên Việt sẽ được mở trên cơ sở của tỉnh lộ 437 qua Vườn
quốc gia Cúc Phương với đoạn dài 8km, chia Vườn thành 2 phần: phần phía Tây khoảng
1.500ha - phía Đông 20.700 ha.
2. Thực trạng khai thác và bảo tồn.
2.1 Hoạt động kinh tế dựa vào việc khai thác các tài nguyên tự nhiên hoặc nhân văn.
Đa dạng sinh học là một đặc trưng nổi bật của VQG Cúc Phương. Các giá trị kinh tế
của HST tự nhiên Cúc Phương có thể phân chia thành: giá trị khai thác trực tiếp
(chẳng hạn làm thức ăn, lấy sợi, dược liệu…); giá trị không khai thác trực tiếp ( giải
trí); giá trị gián tiếp (điều hoà khí hậu, bảo vệ lưu vực, chất lượng đất); các giá trị phi sử
dụng( thẩm mỹ, tinh thần, văn hoá).
5
Từ xưa, con người đã biết khai thác các tài nguyên sẵn có của rừng Cúc Phương để
thoả mãn các hoạt động sinh hoạt hàng ngày như ăn, mặc, ở…. Thu nhập của người dân
chủ yếu dựa vào việc trao đổi mua bán các sản phẩm thiên nhiên thông qua các hoạt động
săn bắt, hái lượm. Giá trị kinh tế của hoạt động này không cao lại làm mất đi tính đa dạng
sinh học của rừng Cúc Phương.
Ngày nay, các giá trị kinh tế của VQG Cúc Phương mang lại không chỉ là thông qua
việc khai thác trực tiếp mà dần chuyển sang các hoạt động khác có hiệu quả kinh tế hơn.
Nổi bật là hoạt động du lịch sinh thái ( DLST). DLST được định nghĩa khác nhau giữa các

quốc gia nhưng tóm lại nó là hoạt động mang tính giáo dục cao, góp phần bảo tồn và cải
thiện đời sống của người dân địa phương khu vực đến tham quan. Hội thảo xây dựng chiến
lược quốc gia về phát triển DLST 9-1999 tại Hà Nội đã đưa ra định nghĩa về DLST : “
DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi
trường, có đóng góp của nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực
của cộng đồng địa phương”.
Các nhà kinh doanh hướng tới DLST phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu mang
tính đạo đức và trách nhiệm cao với mục tiêu chính là: gìn giữ và bảo tồn các đặc tính tự
nhiên của HST bao gồm các loài động thực vật trong đó, các giá trị văn hoá, phong tục tập
quán truyền thống của những người dân địa phương sinh ra và cùng tồn tại với HST đó.
Giá trị kinh tế từ hoạt động này mang lại không nhỏ. Một trong những công thức tính đến
hiệu quả kinh tế mà du lịch nói chung và DLST nói riêng mang lại là hiệu quả số nhân
trong kinh tế( multiplier effect). Ví dụ khách du lịch mua một tấm thổ cẩm do người dân
địa phương dệt nên, hoạt động này mang lại thu nhập cho người dệt thổ cẩm nhưng kéo
theo đó người trồng dâu nuôi tằm, người nhuộm thổ cẩm cũng có thu nhập từ việc bán
được tấm thổ cẩm đó.Cũng từ phân tích mô hình số nhân, DLST đã mang lại những hiệu
quả kinh tế như:Làm tăng nguồn ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch; làm tăng
giá trị xuất khẩu tại chỗ; góp phần phát triển các ngành kinh tế khác phát triển theo; mở
mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng địa phương.
Tại VQG Cúc Phương dự án GEF/SGP đang được triển khai thành công. Đây là
chương trình tài trợ các dự án nhỏ về quản lý bền vững rừng nhiệt đới( SGP PTF) của môi
trường toàn cầu (GEF) với nội dung hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số nghèo ở miền
núi quản lý rừng đồng thời đấu tranh chống nghèo đói ở địa phương, ngoài ra dự án còn
đảm bảo kết hợp với bảo vệ môi trường.
Hiện tại VQG Cúc Phương đã đầu tư xây dựng hoàn chỉnh một làng du lịch ở bản
Mường( chính là bản Khanh Vôi có đồng bào Mường sinh sống ở đó lâu đời) phía Tây
6
theo mô hình mẫu: Nông nghiệp, làng nghề truyền thống và du lịch. Trong làng có đường
ôtô, có thuỷ điện nhỏ, có vườn cây ăn quả và có nghề dệt thổ cẩm truyền thống được khôi
phục với những đêm lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, múa hát cùng với các đoàn du

khách. Cũng từ mô hình sống này, người dân trong làng đã có thu nhập cao hơn hẳn, đời
sống tinh thần được nâng lên và họ đã tự giác bỏ các hoạt động xâm hại đến rừng như
trước đây. Với thành công này, VQG Cúc Phương đang tiến hành nhân rộng ra một số
làng thuộc vùng đệm.
2.2. Hoạt động của du lịch diễn ra tại khu vực trong giai đoạn 10 năm trở lại (1994-
2004).
● Điều kiện để VQG Cúc Phương trở thành một điểm du lịch phát triển:
VQG Cúc Phương nằm sát đồng bằng Bắc Bộ nhất là nằm trên tuyến đường du lịch
với những điểm du lịch hấp dẫn như: Tam Cốc- Bích Động, Cố đô Hoa Lư, bãi biển Sầm
Sơn …rất tiện cho khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.
Sự đa dạng về hệ động thực vật của rừng trên núi đá vôi kiểu Karst với đặc trưng là
cây chò ngàn năm, loài voọc mông trắng…trong đó có nhiều loài mà trên thế giới không
còn và đặc biệt là vườn rất nhiều loài hoa lan cho hoa rất đẹp. Một đặc điểm của Cúc
Phương thu hút khách du lịch đặc biệt là DLST đó là nó còn ít chịu sụ tác động của con
người. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình khoảng 27,4
o
C phù hợp cho du
lịch và nghỉ ngơi. Ngoài ra còn nhiều di tích lịch sử có từ hàng nghìn năm như Động người
xưa, động trăng khuyết, ….nơi đây lưu giữ nhiều giá trị khảo cổ mà các nơi khác ít có
được. ngày nay VQG Cúc Phương lại là nơi cư trú của người Mường với những nét văn
hóa đặc trưng, lễ hội và phong tục đặc trưng. Chính những nét văn hóa bản địa còn thô sơ
đã hấp dẫn khách du lịch. Du khách đến đây có thể được tham quan nhà sàn hay thú vị hơn
là có thể thuê trang phục của người bản địa. Khách du lịch đến đây không chỉ được nghe
giới thiệu chi tiết về cảnh quan, hệ sinh thái động, thực vật đặc sắc của khu rừng, mà còn
được thưởng thức nhiều hình thức giải trí phong phú khác. Khách đến nghỉ được nếm các
món ăn đặc sản, được sống trong không khí lửa trại vui nhộn. Đặc biệt, vườn quốc gia còn
kết hợp phát triển du lịch cộng đồng, đưa khách đến xem những điệu múa, hát, tìm hiểu
những nét văn hóa đặc trưng của người dân bản Mường.
Thiên nhiên đã ban tặng cho Cúc Phương những giá trị cả về vật chất và tinh thần
hiếm có, là điều kiện thuận lợi cho Cúc Phương trở thành một điểm du lịch lý tưởng.

● Hoạt động du lịch:
Hiện nay, nhu cầu du lịch đặc biệt là DLST tăng cao. Đây là loại hình du lịch không
chỉ mang lại cho du khách sự sảng khoái, thoải mái khi được hít thở không khí trong lành
7
và khám phá những điều bí ẩn bên trong mà đặc biệt hơn nó giúp du khách có thêm kiến
thức về bảo vệ môi trường và ĐDSH. DLST khác với các loại hình du lịch khác cũng bởi
nó mang tính giáo dục cao. Vì vậy mà chi phí của một chuyến DLST cũng cao hơn so với
các loại du lịch đại trà khác.Có nhiều giá tour khác nhau để đến Cúc Phương, sau đây là
giá tour riêng tham quan Cúc Phương trong một ngày:
Số lượng 1 2 3 4
6-8trở
lên
GiáUSD/
khách
97 62 47 39 32
Mức giá bao gồm: - Xe ô tô điều hoà, đời mới đưa đón trong chương trình.
- Ăn trưa.
- Phí tham quan suốt hành trình.
- Lái xe, hướng dẫn viên nhiệt tình, giàu kinh nghiệm.
Mức giá không bao gồm: Bảo hiểm du lịch, nước uống, điện thoại, tips cho HDV và
các dịch vụ cá nhân khác.
Cúc Phương là một trong những địa điểm DLST hấp dẫn bởi những điều kiện sẵn có
ở trên. Nó đã thu hút nhiều công ty du lịch kí hợp đồng các tour du lịch và hiện nay nhiều
công ty du lịch phía Nam như: Sài Gòn Tuorist, Bến Thành Tuorist, World Wide
Adventure,… đều có gắn logo của Cúc Phương trên hành trình tour dã ngoại.Du khách đến
đây có thể lựa chọn các tuyến du lịch sao cho phù hợp với túi tiền của mình.
*Tuyến, điểm tham quan khu cổng vườn gồm:
Vườn thực vật: 1 điểm tốt cho việc dạo bộ, đặc biệt vào sáng sớm, hoặc chiều
tối( 3km, 1,5 -2 giờ: Yêu cầu có hướng dẫn viên của VQG đi cùng).
Chòi quan sát: Một tuyến leo núi ngắn, cảnh quan đẹp(300m, 0,5-1 giờ, mức độ vừa

phải, không bắt buộc có hướng dẫn viên đi cùng).
Cắm trại và ngủ đêm trong rừng: là tuyến du lịch mạo hiểm bắt buộc phải có hướng
dẫn viên của VQG và người dân bản địa đi cùng. Tuyến bao gồm các chương trình xem
động vật hoang dã ban đêm( Thời gian 2-3 ngày, tuyến khó đi , tối đa 5 người).
Động người xưa: Một trong những điểm cư trú của người tiền sử, địa điểm đa dạng
về hệ dơi ( 300m,0,5-1 giờ, yêu cầu có ánh sáng khi tham quan).
*Tuyến cây đăng cổ thụ: tuyến đi bộ trong rừng già, vượt qua nhiều dốc đá. Xem bộ
xương hoá thạch và có thể nhìn động vật hoang dã ( 8km,3-4 giờ, yêu cầu có hướng dẫn
viên của VQG đi cùng).
8
*Các trung tâm: Mở cửa đón khách thường xuyên bao gồm: Trung tâm du khách,
trung tâm cứu hộ linh trưởng, trung tâm bảo tồn rùa.
*Các tuyến du lịch chuyên đề: được tổ chức tại văn phòng du lịch và tổ chức theo
yêu cầu.
*Tuyến điểm tham quan khu trung tâm:
Động Sơn Cung, Cây chò ngàn năm: tuyến dễ thực hiện, mang đèn pin.(7 km, 2-3
giờ, du khách có thể tự đi hoặc đi cùng hướng dẫn viên của VQG).
Cây sấu cổ thụ: tuyến bằng phẳng, một địa điểm tốt để xem chim( 6 km cả đi và về,
1,5-2 giờ , du khách có thể tự đi hoặc đi cùng hướng dẫn viên của VQG).
*Bản Mường: 15 km đi bộ xuyên qua rừng già và 1 đêm nghỉ lại tại nhà sàn truyền
thống ( thời gian 2-3 ngày, yêu cầu có hướng dẫn viên đi cùng). Đây là tuyến tìm hiểu văn
hoá và sinh hoạt của đồng bào Mường, đặc biệt nếu bạn đến đây vào dịp lễ hội bạn sẽ được
thưởng thức những bản âm hưởng cồng chiêng du dương.Ngoài ra còn một số tuyến du
lịch khác nữa.
Ông Đào Văn Khương, Giám đốc VQG Cúc Phương, cho biết khoảng năm năm trở
lại đây lượng khách đến Cúc Phương ngày một tăng, bình quân một năm đón khoảng
40.000-50.000 lượt khách, trong đó khoảng 5 % là khách nước ngoài, 70% người Việt
Nam là sinh viên, học sinh đến nghiên cứu học tập. Riêng 6 tháng đầu năm 2001, lượng
khách đến Cúc Phương là 32.000 lượt người. Doanh thu từ du lịch của vườn hàng năm lên
tới 1,7 tỷ đồng. So với các rừng quốc gia khác thì Cúc Phương lại tỏ ra khá thành công

trong việc khai thác lợi thế của mình. Từng đoàn du khách vẫn nối đuôi nhau đến thăm
rừng nhất là vào những dịp cuối tuần. Năm 2003 VQG đã đón 52000 lượt khách , trong đó
khách quốc tế chiếm gần 10% , và chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2004 có 51000 lượt người
đến đây thăm quan.
2.3 Các hoạt động mang tính chất bảo tồn các tài nguyên phục vụ DLST.
VQG Cúc Phương là khu bảo tồn đầu tiên được thành lập năm 1962 với mục tiêu bảo
tồn hệ sinh thái rừng, bảo tồn tính đa dạng sinh học của các loài động thực vật . Hoạt động
này đồng nghĩa với việc bảo tồn các tài nguyên phục vụ DLST.
Về động vật: Hiện nay, ước lượng quần thể của một số loài bị đe doạ ở cấp độ toàn
cầu ở Việt Nam, minh hoạ cho tính chất đặc biệt hiếm của một số loài.
9
Nguồn:
Birdlife
International, chương trình Việt Nam.
* Đặc hữu Việt Nam.
Theo khảo sát thì số lượng voọc sống ở rừng Cúc Phương là lớn nhất, trong đó có
một số loài chỉ sống ở đây như voọc mông trắng và nó được xem là biểu tượng của VQG
Cúc Phương. Hiện tại Bộ NN& PTNT và ban quản lý VQG đầu tư khá lớn về kinh phí, trí
tuệ để bảo tồn, phát triển tính đa dạng của hệ động thực vật, đồng thời quy hoạch vườn trở
thành một điểm tham quan du lịch lý tưởng. Ngày 28 tháng 7 năm 1999, Bộ nông nghiệp
10
Loài Tình trạng
đe doạ toàn
cầu
Quần thể
Voọc mông trắng
Trachypithecus
delacouri*
CR <500
Voọc Cát Bà

T.poliocephalus
ssp.poliocephalus*
CR <100
Voọc mũi hếch
Rhinopithecus
avunculus*
CR <500
Vượn đen tuyền
Hylobates concorlor
EN c.100
Tê giác một sừng
Rhinoceros sondaicus
CR <10
Voi Châu Á
Elephas maximus
EN <100
Niệc mỏ vằn
Aceros nipalensis
VU <100
Cò quăm lớn
Thaumatibis gigantea
CR <10
Quăm cánh xanh
Pseudibis davisoni
CR <10
Cò mỏ thìa Platalea
minor
EN <100
Bách Đài Loan
Taiwania

cryptomerioides
VU c.100
và phát triển nông thôn đã gửi Công văn số 2702/BNN-LN cho Ban điều hành Quỹ môi
trường toàn cầu Việt Nam xin tài trợ của Quỹ môi trường toàn cầu quốc tế (GEF) cho xây
dựng dự án Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông. Theo dự án này, liên vùng nối liền Vườn
quốc gia Cúc Phương và vùng núi đá vôi Pù Luông sẽ được xây dựng thành khu bảo tồn
thiên nhiên nhằm bảo vệ và phục hồi sinh cảnh rừng đá vôi và các động vật sinh sống trong
đó.
Tại Cúc Phương tổ chức động vật học Frankfurt đã thành lập Trung tâm cứu hộ các
loài linh trưởng bị đe doạ (EPRC) nhằm nuôi nhốt gây giống và nghiên cứu thú y đối với
các loài vượn, culi và voọc của Việt Nam. EPRC nhận linh trưởng từ các cơ quan chức
năng của Nhà nước tịch thu của những đối tượng mua bán trái phép động vật hoang dã về
chữa trị và chăm sóc. Đây là tổ chức được các chuyên gia nước ngoài đánh giá thành công
nhất khu vực Đông Nam Á, hơn 100 cá thể gồm các loại Voọc Cát Bà, Voọc Mông trắng,
voọc chà vá chân xám, chân đen, chân đỏ, voọc Hà Tĩnh, culy, vượn được nuôi dưỡng,
chăm sóc.
Voọc chân đỏ
Ngoài ra ban quản lý VQG còn là nơi triển khai dự án sinh sản, sinh thái loài cầy vằn
Bắc và chương trình sinh thái học & bảo tồn rùa. Hai chương trình này triển khai nhằm
thiết lập trại nhân nuôi sinh sản quần thể các loài động vật bị đe doạ trên toàn cầu hiện nay
bởi tình trạng mua bán trái phép động vật hoang dã. Trung tâm bảo tồn rùa ở Cúc
Phương(TCC) thành lập năm 1998 bởi FFI là trung tâm hàng đầu của Việt Nam trong công
tác bảo tồn rùa. Diện tích của trung tâm là 2.000 m2.Trong năm 2004, trung tâm đã thả gần
11
400 con rùa đất lớn và núi vàng tại vườn quốc gia Cát Tiên. Trung tâm hiện nuôi dưỡng và
bảo tồn 16/23 loài rùa nước ngọt với hơn 820 cá thể, trong đó có một số loài quan trọng và
khó sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt như rùa cổ bự, rùa bốn mắt của Việt Nam. Đặc biệt,
trung tâm còn nghiên cứu ấp nở thành công 10 loài rùa, trong đó có những loài quý hiếm
như rùa Trung Bộ(Mauremys annamensis),rùa sa nhân(Pyxidea mouhotii), rùa
núivàng(Indotestudoelongata),

Với sự giúp đỡ trực tiếp của các chuyên gia người Anh là Tim McCormack, trưởng
nhóm nghiên cứu thực địa (Hiệp hội Bảo tồn động thực vật hoang dã), trong thời gian tới
trung tâm sẽ xây dựng các hạng mục công trình để diễn giải về các loài rùa phục vụ du
khách đến thăm vườn và nâng cao nhận thức cho cộng đồng về trách nhiệm bảo tồn rùa.
Ngoài ra còn hàng loạt chương trình bảo tồn khác như: chương trình bảo tồn tê tê Châu Á
của VQG Cúc Phương, chương trình bảo tồn các loài nai, hoẵng, chim…
Bên cạnh đó, VQG xây dựng được một vườn thực vật 167 ha để trồng rừng, chăm
sóc và bảo tồn hàng trăm loại cây quý hiếm của Cúc Phương cũng như một số vùng khác,
trong đó có: 210 loài cây gỗ bản địa, 85 loài cây thuộc họ ráy, 20 loài cây ăn quả, 15 loại
tre trúc, 15 loại tre dừa. Đặc biệt tất cả các loài cây lấy gỗ của Cúc Phương như gió bầu,
chò chai, chò chỉ, vàng anh, trường, gội, nang trứng … đều được theo dõi cẩn thận từ khâu
hạt giống đến khi cây xuất vườn ươm.Theo chị Nguyễn Thị Thuỷ- tổ trưởng vườn ươm
khẳng định:” Hơn 80% số các loài cây trong vườn thực vật sinh trưởng tốt, một số cây đã
cho quả như vải guốc, hồng bì rừng, ôrô…. Trong tương lai đây sẽ là một cơ sở cung cấp
giống cho các chương trình trồng rừng trên bản địa.”
Ngoài ra, dự án bảo tồn vùng núi đá vôi Cúc Phương- Pu Luông thực hiện năm 2002-
2006 với tổng kinh phí 1.306.000 USD( được tài trợ bởi World Bank/ GEF, AECI, BM2;
do FFI, DED, FUNDESO điều hành và cơ quan thực hiện là FFI, Cục KL, DED,
FUNDESCO.) đã thành lập được một khu bảo vệ các loài thực vật hiện có ở vùng núi đá
vôi cũng như tăng cường hiện trạng bảo tồn loài voọc mông trắng và xây dựng sự ủng hộ
của cộng đồng trong công tác bảo tồn vùng núi đá vôi.
Trung tâm đào tạo Cúc Phương được thành lập năm 1994 tại VQG Cúc Phương, tỉnh
Ninh Bình. Sau 4 năm đầu hoạt động đã có 364 học viên được đào tạo về bảo tồn ĐDSH
qua 15 khoá đào tạo do chuyên gia lâu năm và các nhà khoa học của quốc tế và Việt Nam
tham gia giảng dạy, được đánh giá có hiệu quả về chi phí và chất lượng tốt. Với các hoạt
động tương tự tại 2 trung tâm đào tạo khác là VQG Bạch Mã( Miền Trung) và VQG Cát
Tiên( Miền Nam), dự án giúp đào tạo về bảo tồn ĐDSH cho khoảng 1.200 cán bộ lâm
12
nghiệp của Chính phủ, đặc biệt cho hệ thống khu bảo tồn Việt Nam. Hiện nay, trung tâm
Cúc Phương vẫn đang tiếp tục hàng loạt chương trình đào tạo.

Lực lượng kiểm lâm là một trong những người đóng vai trò quan trọng công tác bảo
vệ rừng. Lực lượng kiểm lâm VQG thường xuyên bám rừng , tổ chức các đợt tuần tra kiểm
soát để ngăn ngừa kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ và phát triển rừng .
Triệt phá các tụ điểm khai thác tài nguyên rừng trái phép, đặc biệt là xây dựng mạng lưới
quần chúng tham gia vào công tác bảo vệ rừng .
Việc đào tạo nâng cao trình độ cùng số lượng của lực lượng kiểm lâm là cần thiết.
Tính đến năm 2005 số lượng kiểm lâm trên 1000 ha ở rừng Cúc Phương là trên 5 người,với
trình độ đạt mức cao trong cả nước. Họ đã góp phần trong việc giảm tối đa các hoạt động
săn bắt và chặt phá rừng trái phép. Tuy nhiên, yêu cầu của việc bảo tồn rừng không chỉ
dừng lại ở đó, Ban quản lý VQG cần có thêm biện pháp nhằm nâng cao số lượng cũng như
trình độ của cán bộ kiểm lâm hơn nữa.
13
(Tetiaryeducation: tốt nghiệp cấp 3; secondaryeducation: tốt nghiệp cấp 2;Worker: công
nhân)
Bên cạnh đó ban quản lý rừng còn tổ chức nhiều cuộc hội thảo và mở các lớp học
trong trường nhằm đào tạo về kiến thức và kĩ năng bảo vệ đa dạng sinh học.
Người dân địa phương cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ rừng.
Chính họ là những người sống với rừng, hưởng lợi từ các nguồn tài nguyên của rừng, vì
thế một mặt họ cũng có các hoạt động tham gia giữ rừng và bảo vệ rừng. Nếu bạn đi tham
quan VQG thì trên đường đi bạn sẽ bắt gặp các bia tưởng niệm người dân Mường đã tham
gia giữ rừng. Hiện nay khi người dân đã dần ý thức được sự cần thiết phải bảo vệ rừng thì
họ cũng ngày càng tích cực tham gia vào việc trồng và chăm sóc rừng.
(Nguồn: Cục BVMTvà UNDP(2003),Tordoffetal.(2004), World Bank(2004) )
3. Vai trò của các tổ chức, cá nhân đối với DLST tại khu vực.
Vườn quốc gia Cúc Phương có 3 nhiệm vụ chính là: bảo tồn thiên nhiên, nghiên cứu
khoa học, và du lịch sinh thái. Để đảm bảo tốt được ba nhiệm vụ trên thì cần sự góp sức
không chỉ của ban quản lý rừng, các tổ chức quốc tế mà còn phải có cả chính quyền địa
phương, người dân và các công ty kinh doanh du lịch.
3.1 Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương nơi có tài nguyên về DLST ngoài những nhiệm vụ về quản

lý hành chính đất đai ở địa phương đó ra thì còn phải có trách nhiệm quản lý tài nguyên
thuộc địa phận này. Địa phương đưa ra những chính sách về quy hoạch và phát triển cho
du lịch địa phương mà không ảnh hưởng đến chất lượng và giá trị sinh học của rừng. Cơ
quan trực tiếp quản lý hoạt động du lịch trên là sở du lịch. Chính quyền địa phương có vai
14
trò rất lớn trong việc phát triển, định hướng cho DLST tại bất kì khu vực nói chung và
rừng Cúc phương nói riêng. Đồng thời có sự phối kết hợp giữa chính quyền địa phương,
các tổ chức quốc tế và ban quản lý rừng.Chính quyền địa phương ở đây là tỉnh Ninh Bình
và trực tiếp hơn nữa là các xã ( Cúc Phương, Yên Nghiệp, Thạch Lâm ) là những cơ quan
trực tiếp quản lí và ban hành các chính sách, cấp vốn và các quy định của nhà nước trong
việc bảo tồn và phát triển DLST tại rừng Cúc Phương.
Tuy nhiên vai trò chủ yếu của chính quyền địa phương tại đây là bảo tồn động thực
vật quý hiếm do vậy dù mục đích phát triển DLST là rất tốt nhưng nó cũng nằm trong mức
kiểm soát nhất định. Chính vì vậy chính quyền địa phương tại tỉnh Ninh Bình có quyền
quyết định các phương thức phát triển DLST tại rừng Cúc Phương phù hợp với việc vảo
tồn và phát triển kinh tế cho tỉnh và địa phương .
Chính vì vai trò quan trọng như vậy nên trách nhiệm của tỉnh Ninh Bình trong việc
kiểm soát các hoạt động DLST là rất to lớn và cần thiết đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ
giữa chính quyền địa phương 3 xã Cúc Phương, Yên Nghiệp, Thạch Lâm với tỉnh Ninh
Bình cũng như với các tổ chức quốc tế về bảo tồn và phát triển DLST tại đây ( vì ba xã
đều nằm trong khu vực vườn quốc gia nên việc kiểm soát và bảo vệ là rất thuận tiện ).
Ban quản lý rừng là một tổ chức bộ máy có 3 đơn vị trực thuộc và 3 phòng ban tham
mưu giúp việc cho giám đốc; ban giám đốc có một giám đốc và 2 phó giám đốc. Đội ngũ
các bộ nhân viên đã được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương ,các ban ngành đoàn
thể(công đoàn, phụ nữ, thanh niên…) cùng phối hợp hoạt động. Lực lượng kiểm lâm được
trang bị tốt cả về vật chất kỹ thuật lẫn đời sống sinh hoạt. Thời gian qua, chính quyền địa
phương đã phối hợp với chi cục kiểm lâm triển khai có hiệu quả chương trình phủ xanh đất
trống đồi núi trọc(chương trình 327),chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng(chương trình
661) trên địa bàn, nâng độ che phủ từ 16% năm 80 lên 23% hiện nay. Ngoài ra còn phổ
biến chế độ chính sách pháp luật về lâm nghiệp, nâng cao ý thức người dân về rừng và bảo

vệ rừng, chấm dứt được tình trạng phá rừng tự nhiên trên núi đá kéo dài nhiều năm, đặc
biệt là vùng đệm vườn quốc gia Cúc Phương. Không để xảy ra các vụ khai thác rừng, phá
rừng, cháy rừng lớn tạo ra điểm nóng, phối hợp với lực lượng kiểm lâm kiểm tra, kiểm soát
việc vận chuyển lâm sản qua địa bàn tỉnh đạt hiệu quả cao. Giai đoạn1999_2000, bình
quân mỗi năm tịch thu 10 tấn động vật hoang dã, hàng nghìn m3 gỗ, trong đó có nhiều loại
quý hiếm thu nộp ngân sách mỗi năm 3 tỉ đồng (năm 2006 chi cục đã nộp cho ngân sách 2
tỉ đồng) bảo vệ rừng đạt kết quả cao đó chính là kết quả của sự phối hợp, liên kết giữa
chính quyền địa phương với ban quản lý rừng.
15
Tỉnh Ninh Bình là nơi đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc phát triển DLST tại tỉnh góp
phần giúp nâng cao đời sống nhân dân địa phương . Đồng thời tỉnh là nơi hỗ trợ lớn nhất
để phát triển các mô hình DLST về vốn, nhân lực, khoa học cũng như các chính sách phát
triển để làm kinh tế phù hợp với việc khai thác các yếu tố tự nhiên và văn hóa của địa
phương. Chính quyền đã có những chính sách phát triển mang tầm chiến lược, phát triển
DLST một cách bền vững.
- Phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, chính quyền địa phương tạo điều kiện
thuận lợi để thu hút đầu tư vào phát triển xây dựng đường giao thông, các dự án về đạo tạo
và giáo dục, trường học , hệ thống y tế trạm xá.
- Kiện toàn bộ máy quản lý và hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý khai
thácDLST. Chi cục kiểm lâm giúp UBND tỉnh ,sở NN&PTNT thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về rừng ở địa phương, đồng thời cũng là cơ quan thừa hành pháp luật về quản
lý, bảo vệ, và phát triển rừng ,quản lý lâm sản(theo nghị định 119 CP )
- Phát triển nguồn nhân lực du lịch đặc biệt là lực lượng kiểm lâm viên, lực lượng
hướng dẫn viên.
- Tuyên truyền quảng bá du lịch. Đây là một hoạt động hết sức quan trọng, đòi hỏi
một quá trình lâu dài với những hướng đi đúng đắn.
3.2 Các tổ chức quốc tế:
Các tổ chức quốc tế cũng góp phần rất quan trọng trong việc giúp tỉnh bảo tồn các
loài động thực vật quý hiếm cũng như tạo nền tảng phát triển DLST tại địa phương. Họ là
các tổ chức xuyên quốc gia với mục đích là bảo tồn hệ động thực vật quý hiếm, các di sản

văn hóa thế giới; rừng Cúc phương cũng là nơi tập trung khá nhiều các tổ chức phi chính
phủ. Các tổ chức quốc tế có những điều kiện về khoa học, kỹ thuật, vốn nên họ có khả
năng tài trợ cho vườn trong việc bảo tồn động thực vật cũng như những di sản văn hóa
nhằm giúp phát triển DLST.
Họ là những tổ chức phi chính phủ do vậy hoạt động của họ không mang tính lợi ích
cá nhân nên rất được thế giới coi trọng và tin tưởng . Tuy nhiên họ cũng chỉ có những
quyền hạn nhất định đối với nơi họ tài trợ. Hoạt động của các tổ chức này tuy độc lập
nhưng họ cũng phải tuân thủ luật pháp của địa phương đó. Nói tóm lại họ chỉ được giúp đỡ
về vốn , nhận thức, khoa học kĩ thuật để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển về
DLST của địa phương .
Vườn quốc gia Cúc Phương có đa dạng sinh học cao và phong phú đã thu hút không
chỉ một lượng lớn khách du lịch mà còn có các nhà nghiên cứu khoa học đến từ nhiều nước
16
và từ nhiều tổ chức quốc tế. Hiện đã có 5 dự án hợp tác quốc tế đã được triển khai và thực
hiện tốt:
- Dự án tăng cường vườn quốc gia của tổ chức IUCN với số tiền tài trợ là 131.000
USD là bước khởi đầu tốt đẹp cho sự hợp tác quốc tế ở vườn.
- Dự án chương trình bảo tồn vườn quốc gia hợp tác với hội bảo vệ động thực vật
Frank Furt với nguồn ngân quỹ quyên góp 400.000 USD đã bổ sung đáng kể phương tiện
hoạt động cho lực lượng kiểm lâm và thiết bị nghiên cứu khoa học. Đặc biệt dự án này đã
xây dựng được một trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng quý hiếm với lượng loài nuôi
nhốt lớn nhất trên thế giới gây xôn xao trong giới khoa học trong và ngoài nước.
- Dự án bảo tồn Cúc Phương hợp tác với tổ chức động thực vật thế giới (FFI) với
số tiền là 412.120 USD đã giúp vườn cơ bản điều tra về văn hoá, dân sinh, kinh tế vùng
đệm. Đặc biệt là đã xây dựng được một chương trình giáo dục bảo tồn rộng khắp ở các
trường học quanh vườn. Dự án này còn phối hợp với vườn điều tra nghiên cứu bước đầu
về một số loài động vật lưỡng cư, bò sát,…
- Dự án bảo tồn đa dạng sinh học với nguồn tài trợ kinh phí của quỹ bảo vệ động
vật thế giới .Dự án đã xây dựng được một trung tâm đào tạo đa dạng sinh học khang trang.
Đây là trung tâm đa dạng sinh học đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á và đã đào tạo được

hàng trăm học viên là các bộ trong ngành. Kết quả đào tạo được bộ và các chuyên gia đánh
giá cao. Đây là một đóng góp đáng kể trong việc nâng cao nhận thức về bảo tồn đa dạng
sinh học ở nước ta, nó đã làm thay đổi hẳn cách nghĩ cách làm ở cơ sở theo chiều hướng
tiến bộ hoà nhập với thế giới.
- Vườn còn hợp tác với trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốcgia -trường
đại học Illinois ở Chicago nghiên cứu về tiềm năng cây dược liệu quý vườn quốc gia Cúc
Phương, phương hướng sử dụng và bảo tồn nó. Dự án này có ý nghĩa quan trọng đối với
nền y học và sức khoẻ con người .
Thông qua các dự án trên đã giải quyết được nhiều vấn đề mang tính chất chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển rừng đội ngũ cán bộ của vườn theo đó cũng lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng .Đồng thời kinh phí tài trợ của dự án này lên đến trên
một triệu đô la. Đây là một lượng tiền không nhỏ đối với một vườn quốc gia trong việc bổ
sung cơ sở hạ tầng và trang thiết bị công tác.Có thể nói trong mười năm đổi mới vừa qua
sự nghiệp nghiên cứu khoa học ở vườn đã phát triển một cách bước nhảy vọt, mở ra hướng
mới làm cơ sở bảo tồn bền vững góp phần quan trọng vào sự nghiệp nghiên cứu khoa học
nước nhà nói chung.Đồng thời các dự án trên có tính giáo dục cộng đồng rất cao,các dự án
này đã đến được với người dân, giúp cho họ có những nhận thức đúng đắn về việc bảo vệ
17
rừng. Có được thành quả đó chính là sự hoạt động rất có hiệu quả của các dự án nghiên
cứu khoa học của các tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Cúc Phương.
3.3 Các công ty du lịch (hệ thống nhà hàng ,khách sạn).
Các nhà kinh doanh du lịch là một trong những mắt xích không thể thiếu trong hệ
thống kinh doanh các sản phẩm du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái. Một địa phương muốn
phát triển du lịch sinh thái ngoài những ưu thế về đa dạng sinh học thì cần phải có những
dịch vụ du lịch đi kèm với chất lượng tốt, hệ thống nhà hàng, khách sạn cơ sở hạ tầng cần
được trang bị tốt. Quan hệ giữa các mắt xích trong hệ thống luôn là quan hệ win-win (đôi
bên cùng có lợi).
Các công ty du lịch đóng góp tài chính cho chính quyền sở tại, những nơi quản lý tài
nguyên bằng các khoản thuế và lệ phí thu được từ hoạt động DLST.
Các công ty du lịch đã đóng góp một phần quan trọng trong việc quảng bá du lịch địa

phương, tiếp thị hình ảnh du lịch đồng nghĩa với việc quảng bá cho thương hiệu công ty.
Họ cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ nhất về địa điểm thăm quan bằng tờ rơi,
hội thảo… và những kiến thức cơ bản khi đi du lịch sinh thái giúp cho khách du lịch không
bị lúng túng trong chuyến đi. Đồng thời cũng giúp cho họ nâng cao kiến thức sinh thái, có
thái độ tôn trọng môi trường.
Họ tổ chức và quản lý các tour du lịch. Đây là một phần quan trọng trong DLST bởi
ngoài những mục đích kiếm lợi nhuận ra thì các tour này luôn mang tính giáo dục cao, làm
cho du khách nhận biết được những giá trị của thiên nhiên, khuyến khích người dân giữ gìn
được bản sắc dân tộc mình.Vì vậy các công ty du lịch cần một lực lượng hướng dẫn viên
có chất lượng, có kiến thức sâu rộng về du lịch sinh thái. Họ là người thay mặt công ty du
lịch trực tiếp quản lý tour. Hình ảnh của các công ty du lịch phụ thuộc rất nhiều vào lực
lượng này.
Kết thúc tour, các công ty du lịch luôn mong muốn khách du lịch đóng góp ý kiến
cho chuyến đi. Đó thực sự là những thông tin đáng giá để họ có thể thay đổi phù hợp với
mong muốn của khách du lịch.
Nhắc đến các công ty du lịch chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của các
hướng dẫn viên du lịch vì chính họ là những người trực tiếp cung cấp thông tin và hướng
dẫn chúng ta thực hiện các hoạt động DLST. Hay nói cách khác họ chính là tấm gương rõ
nét nhất, gần gũi nhất với khách du lịch vì thế vai trò của các công ty du lịch ở đây là đào
tạo cho đội ngũ hướng dẫn viên của họ có trình độ và kinh nghiệm.
Có thể nói các công ty kinh doanh về du lịch là những công ty thân thiện với môi
trường bởi nếu không có những giá trị đa dạng sinh học, những nét đặc trưng văn hoá thì sẽ
18
không thể thu hút khách du lịch đến với các tour. Vì vậy họ cũng đóng góp một phần đáng
kể vào việc bảo vệ sự nguyên sơ của những cánh rừng như Cúc Phương. Hiện nay hầu hết
tất cả các công ty du lịch đều đưa rừng Cúc Phương vào trong phần giới thiệu của họ như
một minh chứng sống động nhất về sự hợp tác của các công ty du lịch.
Ngoài ra họ còn là những nhà đầu tư vào các dự án về du lịch, giúp nâng cao vị thế
du lịch của địa phương. Các công ty du lịch thì thu được lợi nhuận từ việc kinh doanh nhà
hàng, khách sạn, tổ chức các tour tham quan. Vì vậy trong quá trình phát triển du lịch nói

chung, DLST nói riêng thì các công ty du lịch đóng một vai trò hết sức quan trọng.Từ các
công ty du lịch như SaiGon touris, Ha Noi touris đều tổ chức các tour cho du khách trong
và ngoài nước đi tham quan rừng với nhiều hình thức khác nhau : đi bộ, leo núi, thăm các
động người xưa, đặc biệt là các tuyến du lịch mạo hiểm đi xem động vật hoang dã vào ban
đêm, các loại hình du lịch ngày càng đa dạng với nhiều tuyến du lịch phong phú.Giá cho
một ngày đi khám phá rừng Cúc Phương thường là 35 USD/ngày từ Hà Nội về bao gồm
các chi phí vận chuyển , vé tham quan, ăn trưa.
Ngoài ra Ninh Bình có một hệ thống khách sạn nằm rải rắc từ trung tâm thành phố
vào đến vườn quốc gia Cúc Phương như: khách sạn Thuỳ Anh với chất lượng hai sao-37
phòng, khách sạn Tràng An-24 phòng, khách sạn Hương Trà (2 sao) -77 phòng. Đặc biệt là
có một khu tắm nước khoáng Cúc Phương nằm ngay trên địa phận tỉnh Nho Quan do công
ty TNHH Xuân Hoà làm chủ đầu tư. Đây là loại hình du lịch sinh thái kết hợp với chăm
sóc sức khoẻ. Trong khu tắm nước khoáng nóng này có các dịch vụ vật lý trị liệu, tẩm quất,
massage, xông hơi…Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy một điều rằng hầu hết các khách
sạn ở đây cao nhất vẫn chỉ là 2 sao,với số lượng phòng còn hạn chế, chất lượng chưa cao,
đội ngũ nhân viên khách sạn vẫn chưa mang tính chuyên nghiệp.Vì thế các tour của khách
đến với Cúc Phương hầu hết chỉ diễn ra trong ngày.
Ẩm thực Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng là một nét đẹp trong văn hoá
và là một nét hấp dẫn trong du lịch Cúc Phương. Hệ thống các nhà hàng Hương Mai, Trâu
Vàng,…với các món đặc trưng như cơm cháy, thịt dê, nem chua Yên Mạc…nhưng vẫn còn
những nhà hàng ở xung quanh vườn quốc gia kinh doanh các loại thịt thú rừng quý hiếm.
Các nhà hàng này cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn nữa của chính quyền địa phương, nếu
không sự đa dạng của Cúc Phương sẽ bị xâm hại làm mất đi vẻ đẹp vốn có của khu rừng
nguyên sinh này.
19
3.4 Người dân địa phương
Việc nâng cao nhận thức cho người dân vùng đệm về tài nguyên rừng và giá trị đa
dạng sinh học của VQG Cúc Phương có một vai trò hết sức quan trọng. Bởi họ chính là
những nhân tố quan trọng đóng góp vào phát triển ngành DLST ở địa phương.
Dân số vùng đệm của vườn vào khoảng 62000 người với trình độ văn hoá còn tương

đối thấp, đời sống người dân còn nhiều khó khăn .Vì vậy trước đây vườn phải chịu một áp
lực nặng nề về nhu cầu gỗ, củi, lương thực, lâm sản, nguồn thực phẩm hoang dã…Nạn phá
rừng làm nương rẫy, khai thác lâm sản săn bắt chim thú để đáp ứng nhu cầu cuộc sống đã
trở thành tập quán xưa nay của người dân ở các vùng đặc biệt là bản Mường sống ở sâu
trong rừng. Đứng trước những thách thức đó, hằng năm ban quản lý rừng đều đặn tổ chức
các hội nghị phối hợp thực hiện các biện pháp này đi cùng với đó là các hình thức tuyên
truyền, quảng cáo bằng tranh, ảnh, pano, áp phích, chiếu phim được phổ biến ở những nơi
công cộng mục đích của những hoạt động này là giáo dục cho người dân địa phương biết
được vai trò của họ trong công tác bảo vệ rừng đồng thời chính quyền đại phương đã di
chuyển 185 hộ đồng bào Mường ra khỏi ranh giới vườn quốc gia, một số dự án nhỏ đã
được triển khai: dự án làng du lịch sinh thái bản Khanh, dự án chuyển giao công nghệ nuôi
ong, hươu, cải tạo vườn tạp, hỗ trợ hơn 100 triệu đồng giúp xã Cúc Phương xây dựng
trường mầm non, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo….Mặt khác phát triển du
lịch sinh thái đi kèm với các sản phẩm du lịch kéo theo sự phát triển các làng nghề truyền
thống, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân nơi đây. Chính những lợi nhuận
thu được từ các sản phẩm du lịch làm cho người dân nhận thức được những lợi ích mà
việc phát triển du lịch sinh thái mang lại.Tuy nhiên ,vẫn còn một số lượng không nhỏ
người dân có không hiểu đúng về sản phẩm du lịch.Với nỗ lực của chính quyền địa phương
đến nay nhận thức của người dân vùng đệm về tầm quan trọng của công tác bảo vệ rừng đã
được nâng lên một cách đáng kể. Người dân địa phương sẽ là lực lượng hướng dẫn viên tốt
nhất cho du khách vì chính họ là những người hiểu biết nhất về tài nguyên tự nhiên của địa
phương không phải bằng các nghiên cứu hay thí nghiệm mà từ những kinh nghiệm thực
tế.Do vậy chúng ta cần kéo người dân địa phương vào các hoạt động kinh tế cũng như bảo
tồn bằng cách tạo công ăn việc làm cho họ và cùng chia sẻ lợi ích và chi phí với họ. Hầu
hết trong số họ đã hiểu được rừng Cúc Phương thực sự là mái nhà chung của cộng đồng
những người sống trong khu vực mỗi người dân đều có ý thức và trách nhiệm gìn giữ và
bảo vệ nó. Họ trở thành một thành viên tích cực trong các chiến dịch bảo vệ rừng và đa
dạng sinh học của rừng.
20
4. Những khó khăn trong việc triển khai hoạt động DLST ở khu vực :

4.1. Về phía chính quyền, người dân, nhà kinh doanh du lịch, các tổ chức nước
ngoài:
● Đối với các tổ chức chính quyền và ban quản lý rừng.
Các tổ chức chính quyền là cơ quan có quyền hành quyết định trực tiếp trong các
chính sách phát triển DLST tại rừng Cúc Phương cũng như các kế hoạch bảo tồn các loài
động thực vật trong VQG. Tuy nhiên trong quá trình phát triển và đi vào hoạt động thì các
cấp chính quyền địa phương vẫn gặp phải những khó khăn và hạn chế nhất định.
- Khó khăn phải nói đến đầu tiên là thiếu thốn về trang thiết bị hiện đại và cần
thiết trong việc bảo tồn và phát triển các loài động thực vật _là những thứ thu
hút khách du lịch khi đến với rừng. Tuy nhiên do vẫn còn những khó khăn về
vốn cũng như các trang thiết bị cần thiết mà việc phát hiện, phòng ngừa và xử
lý không được đảm bảo nên dẫn đến việc động thực vật không được bảo tồn tốt
dẫn đến sự suy giảm về số lượng.
- Thiếu các kiến thức sâu rộng về rừng, không hiểu biết rõ về DLST cũng như
mong muốn của khách du lịch về tham quan cảnh quan thiên nhiên từ đó có
định hướng sai trong phát triển DLST tại Cúc Phương.
- Hạn chế về mặt nhân sự. Hiện nay đội ngũ nhân viên còn ít và làm việc chưa
hiệu quả trong việc bảo tồn và cho sự phát triển của rừng Cúc Phương.
- Tổ chức quy trình tham quan không hợp lý là điều dễ nhận thấy nhất. Trung
tâm thông tin, nơi chứa đựng toàn bộ thông tin cần thiết cho du khách nằm phía
trước, khá xa cổng chào- trạm kiểm soát đầu tiên( cũng là nơi bán vé). Bố trí
như vậy dẫn tới tình trạng khách đều tới cửa rừng, mua vé rồi vào tham quan
ngay, không ai vòng lại trung tâm thông tin nữa. Bởi vậy, du khách bỏ qua
nhiều tài liệu chi tiết của Cúc Phương, không nắm được những thông tin bắt
buộc như Nội quy thăm rừng. Đây cũng là nguyên nhân để nhiều khách đã vi
phạm nội quy. Khách vào rừng đi lại tự do, không có HDV nên tình trạng vứt
rác bừa bãi, chặt cây, gây ồn…không ai nhắc nhở trở nên phổ biến, nhất là du
khách trong nước.
- Các chính sách phát triển DLST không còn phù hợp với ngày nay, nhất là khi
chúng ta đã gia nhập WTO.

Tuy hiện nay ban quản lý rừng đã quản lý chặt hơn việc săn bắt các loài động thực
vật quý hiếm nhưng chưa chú trọng đến việc quản lý tiếng ồn đảm bảo yên tĩnh cho HST.
Du lịch Cúc Phương không phải là du lịch giải trí, mà là du lịch để hưởng thụ thiên nhiên,
21
do vậy phải biết yên tĩnh để hưởng thụ và bảo tồn nó. Đó là hai mặt quan hệ rất chặt chẽ
mà bất cứ du khách nào tới Cúc Phương cũng cần biết.
- Ngân sách Nhà nước dành cho rừng Cúc Phương còn hạn hẹp vì vậy không đủ
cho rừng thực hiện được các biện pháp đảm bảo tốt cho du lịch cũng như bảo
tồn. Các con đường vào Cúc Phương đều không có biển báo hạn chế tốc độ và
tiếng ồn, các thùng rác trong rừng cũng không có nắp đậy, các tuyến thăm
quan trong khu rừng đều không có nhà vệ sinh cho du khách.
Thiết nghĩ ngân sách của rừng Cúc Phương tuy còn hạn hẹp nhưng những vấn đề
này là rất cần thiết cho việc bảo tồn thiên nhiên và phát triển du lịch.
• Các nhà kinh doanh du lịch.
Các nhà kinh doanh du lịch là một trong những nhân tố không thể thiếu trong việc
giúp phát triển du lịch nói chung và DLST rừng quốc gia Cúc Phương nói riêng.
Tuy nhiên ta cũng không thể phủ nhận họ vẫn còn nhiều hạn chế trong việc tổ chức
các tour du lịch cũng như một số hoạt động du lịch.
- Việc thiếu các công ty cung cấp các chuyến du lịch đặc biệt trong những ngày
lễ tết.Trong những ngày này lượng khách tăng lên đột biến nên khả năng cung
cấp của các công ty du lịch là hạn chế. Vì vậy muốn đi trong những thời điểm
đó du khách phải đặt vé trước với giá thành cao.
- Về HDV du lịch: vào mùa cao điểm, các công ty thường thiếu các HDV. Để
đáp ứng đủ cho những đoàn đi thì trước đó họ đã chuẩn bị cho mình một đội
ngũ đông đảo những nhân viên làm việc theo ngày hay là những cộng tác viên.
Đội ngũ cộng tác viên này vào mùa được khai thác triệt để nhưng các công ty
du lịch chưa hẳn đã hiểu rõ nguồn gốc và khả năng của họ đến đâu, nhiều khi
chỉ qua lời giới thiệu, hay là trả lời qua loa là đã biết về du lịch cũng đủ để có
vài tour kiếm thêm thu nhập.
Vốn tiếng anh ít cũng là một hạn chế của các HDV du lịch nước ta nói chung và

DLST nói riêng, khi mà một trong số đó là người bản địa .Ngoài ra sự thiếu trách nhiệm
trong việc chỉ dẫn và quản lý các hoạt động của du khách . Có thể lấy ví dụ về việc các
hướng dẫn viên chỉ đưa du khách đến rừng rồi vào trong nhà nghỉ gủ bỏ mặc du khách
muốn làm gì và đi đâu tùy ý mà không có sự quản lý và hướng dẫn. Chính vì vậy dẫn đến
tình trạng có nhiều du khách có các hành động phá hoại thiên nhiên. Thậm chí có những
khách du lịch còn có thể bắt được các con vật trong rừng mà không ai hay biết. Đây chính
là hậu quả của việc các công ty du lịch đã quá ôm đồm du khách (1 HDV với hai ba chục
du khách) hoặc không thực sự có trách nhiệm.
22
- Trong mùa du lịch, các công ty điều hành thường không kiểm soát được hết chất
lượng dịch vụ, vì vậy độ thoả mãn của khách du lịch cũng bị giảm sút.
• Đối với người dân.
Người dân địa phương là một phần không thể thiểu trong phát triển DLST tại rừng
Cúc Phương vì họ là người sống ở đây từ rất lâu và họ hiểu biết rất rõ về rừng nên sẽ rất tốt
nếu họ được tham gia vào việc phát triển DLST tại địa phương.
Tuy nhiên việc người dân tham gia vào du lịch tại đâu cũng gặp phải những khó khăn
nhất định. Đó là do họ không có kiến thức về du lịch, đặc biệt là DLST. Vì vậy khi tham
gia vào các hoạt động du lịch họ thường mắc phải những sai lầm:
+ Không chủ động trong việc tiếp cận với du khách và giới thiệu với du khách về
văn hóa của địa phương mình.
+ Bán các vật phẩm lưu niệm một cách tự phát và tràn lan gây mất mĩ quan trong
khu du lịch
+ Nhiều khi để bán được các sản phẩm người dân cũng không ngại ngần theo sau
du khách và làm phiền họ. Điều này khiến cho các khách du lịch khó chịu đặc biệt là
những người khách nước ngoài.
Hệ thống sản phẩm và các loại hình dịch vụ du lịch còn nghèo nàn, chất lượng chưa
cao, đầu tư cho du lịch còn dàn trải. Môi trường du lịch chưa thực sự thông thoáng, vẫn
còn tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, công tác quản lý điều hành du lịch các cấp chưa
đồng bộ và chưa có sự phối hợp thống nhất giữa các cấp Tình trạng bán hàng rong, ăn
xin đeo bám khách tại các điểm du lịch vẫn chưa được khắc phục…

- Ở VQG, các dịch vụ du lịch do ban quản lý và nhân viên của vườn đảm trách. Lợi
nhuận thu được từ tham quan du lịch không đến được người dân, chính vì vậy người dân
sống trong và quanh khu bảo tồn vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Họ chưa
thấy được lợi ích từ việc gìn giữ cảnh quan. Do vậy để người dân ý thức và tham gia vào
hoạt động gặp không ít khó khăn.
- Các tour, tuyến du lịch tổ chức cho du khách đến phần lớn là khai thác tiềm năng
địa phương chứ chưa chú trọng đến kết hợp để cộng đồng cùng làm du lịch. Đôi khi quyền
lợi giữa các bên tổ chức (lữ hành) và cộng đồng lại không thống nhất đem đến nhiều bất
trắc và làm cho du khách không hài lòng.
• Các tổ chức quốc tế
Các tổ chức quốc tế cũng là một bộ phận không nhỏ trong công tác bảo tồn và phát
triển DLST tại VQG Cúc Phương. Các tổ chức quốc tế là những tổ chức không làm cho
riêng một quốc gia nào trên thế giớí nên họ có những ảnh hưởng rất lớn khi tham gia vào
23
bất cứ một dự án nào.Đặc biệt khi họ tham gia vào việc phát triển du lịch ở đâu sẽ rất tốt
cho nơi đó. Tuy nhiên trong quá trình tham gia du lịch họ cũng gặp không ít khó khăn :
- Về ngôn ngữ bản địa và nền văn hóa của của người dân. Các tổ chức quốc tế chưa
thông thuộc nên sẽ gặp khó khăn trong quá trình tham gia giúp đỡ phát triển kinh tế.
- Về thực hiện các chính sách phát triển tại địa phương do các hoạt động của các tổ
chức còn chưa thực sự được người dân hiểu hết và ủng hộ do vậy khi thực hiện nhiều khi
bị cản trở.
4.2. Khó khăn về các điều kiện tự nhiên, văn hóa và xã hội
• Về các điều kiện tự nhiên
Rừng Cúc Phương có các điều kiện rất thích hợp cho phát triển DLST tại đây nhưng
nó vẫn còn tồn tại những khó khăn :
- Địa hình karst ảnh hưởng rõ nét đến hệ thống thủy văn của Cúc Phương. Phần lớn
nước trong vườn quốc gia bị hệ thống các mạch nước ngầm chằng chịt hút rất nhanh
chóng, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ ở bên hai sườn của vườn quốc gia. Do
vậy, không có các ao hồ tự nhiên hay các thủy vực tĩnh nằm trong vườn quốc gia, mà chỉ
có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi. Con sông này nằm ở phía tây của vườn,

chảy theo hướng Bắc-Nam đổ vào sông Mã. Do vậy VQG sẽ không có ao hồ lớn để có thể
phát triển DLST sông hồ.
- Rừng Cúc Phương có nhiều núi đá hiểm trở, song việc bảo đảm an toàn cho du
khách chưa tốt. Ngoài ra, trên các con đường dành cho du khách đều dùng loại hàng rào và
cầu thang bằng sắt. Thiết kế kiến trúc cầu dẫn và thang vịn cũng bằng xi-măng và sắt. Như
vậy, một mặt chúng phá vỡ sinh cảnh rừng, mặt khác ở rất nhiều đoạn leo chênh vênh trên
các vực đá, dốc đá, sắt không thể chịu nổi khí hậu đặc trưng rừng nhiệt đới, nay đã gỉ, đứt
gãy (thí dụ như tất cả thang sắt lên động Người xưa, toàn bộ các thanh vịn hai bên đều
nhiều gai gỉ), rất nguy hiểm cho khách, nhất là các cháu nhỏ.
• Điều kiện về xã hội
- Khi vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập, có khoảng 500 người sống trong
các xóm thuộc vùng lõi của vườn quốc gia này. Quyết định số 251/CT ngày 6 tháng 10
năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã yêu cầu di chuyển những khu dân cư này ra
ngoài ranh giới vườn quốc gia. Trong giai đoạn di dời đầu tiên, kết thúc vào cuối năm
1990, 6 xóm với 650 người đã được chuyển đến định cư ở vùng bán sơn địa ngoài cửa
vườn. Tuy nhiên, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông Bưởi bên trong
vườn. Số dân này cũng đang được lên kế hoạch để di dời. Khoảng trên 62.000 dân sống ở
vùng đệm của vườn quốc gia, rất nhiều người trong số họ có cuộc sống phụ thuộc vào các
24
nguồn tài nguyên thiên nhiên bên trong vườn. Lâm sản bị khai thác mạnh nhất là gỗ và củi.
Việc thu hoạch ốc, nấm, măng làm thức ăn cũng như việc đi lấy thân chuối làm thức ăn gia
súc diễn ra thường xuyên . Hoạt động săn bắn để lấy thức ăn và bán cho dân kinh doanh
động vật hoang dã làm suy giảm nghiêm trọng số lượng các loài thú, chim và bò sát trong
vườn. Rừng ở vùng rìa tiếp giáp với dân cư đang bị suy thoái nghiêm trọng do việc lấy củi
và chăn thả gia súc bừa bãi cũng như bị phát quang lấy đất làm nương rẫy ở một số khu
vực.
- Hiện nay, một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đến tính đa dạng sinh
học của VQG Cúc Phương là việc xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo thung
lũng sông Bưởi, con đường này sẽ cắt một phần phía tây của VQG với chiều dài khoảng
8.500 m. Ngoài các tác động trực tiếp của việc thi công xây dựng, con đường này hoàn

thành sẽ làm cho khả năng tiếp cận các khu vực rừng tăng cao tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khai thác sản phẩm rừng trái phép. Ngoài ra, trong tương lai các hoạt động tái định cư
sẽ được triển khai trong khu vực. Các hoạt động này sẽ làm mất đi vẻ đẹp của vườn quốc
gia cũng như sẽ ảnh hưởng đẽn công tác bảo tồn các loài động thự vật ở Cúc Phương.
- Một lượng lớn du khách đến Cúc Phương hàng năm cũng tạo ra một vấn đề đặc
biệt đối với việc quản lý vườn quốc gia. Nước thải, thu hái cây cảnh và ô nhiễm tiếng ồn từ
những nhóm du khách quá đông là những vấn đề chưa kiểm soát được. Kế hoạch quản lý
của vườn lại quá tập trung vào việc phát triển du lịch và điều này làm giảm hiệu quả của
công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Điều này cũng có thể dẫn đến sự phát triển cơ sở hạ
tầng du lịch với những những tác động tiêu cực về môi trường. Việc nâng cấp con đường
xuyên qua thung lũng trung tâm của vườn sẽ tạo điều kiện cho việc xâm nhập để khai thác
lâm sản. Tương tự như vậy, việc xây dựng các hồ nhân tạo trong vườn quốc gia sẽ dẫn đến
một số khoảnh rừng bị phát quang và làm thay đổi chế độ thủy văn của vùng.
- Đa số các khách sạn trong khu vực mới đạt chất lượng 2 sao, chất lượng chưa
cao, chưa chuyên nghiệp.
5. Mục tiêu,chính sách và phương hướng thực hiện du lịch nói chung và phát triển du
lịch sinh thái tại khu vực :
5.1/Chiến lược phát triển chung:
Căn cứ vào chiến lược Quốc gia về du lịch 2006-2010, một số chiến lược phát triển
du lịch của tỉnh Ninh Bình như sau:
● Chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch:
25

×