MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh ra và lớn lên, nơi
thế hệ trẻ được chăm lo cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hội
nhập vào cuộc sống cộng đồng xã hội.
Tuy không phải là thiết chế duy nhất có vai trò, trách nhiệm giáo
dục đối với trẻ em, nhưng gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và có
tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ. Xã hội luôn
vận động và phát triển không ngừng, song giáo dục gia đình vẫn luôn ảnh
hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Giáo
dục nhà trường, xã hội là những môi trường giáo dục rất quan trọng, song
vai trò của nó chỉ có thể được phát huy một cách có hiệu quả, khi lấy giáo
dục gia đình làm cơ sở.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới sau quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), đã trở thành những cường quốc về
kinh tế, song cũng không ít quốc gia phải trả giá vì sự đổ vỡ của quan hệ
giữa con người với con người. Giàu có là điều ai cũng mong ước, dân tộc
nào cũng hướng tới, song cuộc sống sẽ trở nên đáng sợ biết bao, nếu như
mọi người chỉ nghĩ đến đồng tiền mà không quan tâm đến nhau, lòng nhân
ái bị chà đạp. Nhiều nước trên thế giới hiện muốn quay trở lại tìm kiếm
những giá trị nhân văn đích thực, vốn có của gia đình đã bị đánh mất do
một thời gian dài xem nhẹ vấn đề gia đình và chính sách xã hội đối với gia
đình. Khi xã hội muốn quay lại dựa vào giáo dục gia đình để chữa chạy cho
những mất mát, hư hỏng do những toan tính thiên về tiền bạc, thì thể chế
gia đình đã trở nên hết sức mỏng manh và ở nhiều trường hợp tình hình gia
đình đã trở nên bi kịch.
5
Ở Việt Nam, một đất nước sau hàng thế kỷ tiến hành chiến tranh
giải phóng và hơn một thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), với truyền thống giàu lòng nhân ái, thủy
chung, trọng tình nghĩa, chúng ta luôn đề cao vai trò gia đình trong quan hệ
nhà - làng - nước. Đặc biệt, mặc cho xã hội có nhiều đổi thay, nhưng giáo
dục gia đình vẫn được các bậc cha mẹ chú ý, quan tâm. Điều cần khẳng
định là, cho dù sự tác động nhiều chiều của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, của sự bùng nổ thông tin, của quá trình toàn cầu hóa, của cơ chế thị
trường, nhưng những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình, của dân tộc
vẫn tiếp tục được phát huy; sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước khởi
sắc, đời sống của phần lớn các gia đình được nâng lên, việc giáo dục thế hệ
trẻ có điều kiện thuận lợi; con trẻ có cơ hội vươn lên tự khẳng định mình
trong sự phát triển lành mạnh của gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, giáo dục gia đình cũng có những diễn biến tiêu cực,
do chịu tác động của môi trường xã hội, của các loại văn hóa phẩm độc hại,
của lối sống thực dụng phương Tây Tất cả những điều đó đang làm băng
hoại đạo đức một bộ phận xã hội, lôi cuốn một bộ phận thế hệ trẻ vào vòng
tội lỗi. Trong khi đó, giáo dục gia đình đối với con trẻ chưa được coi trọng
và đầu tư đúng mức. Không ít cha mẹ lo nuôi con nhiều hơn đầu tư cho
việc dạy chữ, dạy người; nhiều cha mẹ rất coi trọng đến việc giáo dục con
cái phát triển toàn diện, song do kiến thức và năng lực hạn chế nên hiệu
quả của việc giáo dục còn thấp.
Hiện nay, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang đặt ra những
yêu cầu bức thiết đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục gia đình
nói riêng nhằm tạo ra lớp người Việt Nam vừa cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, vừa đạt đến tầm cao về trí tuệ, đủ
năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn
được giữ vững. Yêu cầu đó đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, trong đó có việc
6
giáo dục gia đình phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện theo hướng CNH,
HĐH, dân chủ hóa, tri thức hóa, toàn cầu hóa mà vẫn đậm đà bản sắc văn hóa
Việt Nam. Đã đến lúc chúng ta nên có sự nhìn nhận đầy đủ hơn, khách quan
hơn, đúng đắn hơn về vai trò của giáo dục gia đình trong sự nghiệp giáo
dục để từ đó có chiến lược và kế hoạch đầu tư thỏa đáng cho giáo dục gia
đình, sao cho gia đình thực sự xứng đáng là trường học đầu tiên của thế hệ
trẻ, những nhân cách văn hóa nảy sinh và phát huy có hiệu quả trong công
cuộc kiến tạo đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn như Bác Hồ hằng mong
ước.
Đề tài: "Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước
ta hiện nay", là một trong những cố gắng theo hướng chung đó và tác giả
mong muốn góp thêm tiếng nói, một tình cảm, một hành động vào sự
nghiệp trồng Người mà khởi nguồn từ giáo dục gia đình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo
dục gia đình được công bố. Trong các công trình ấy, trước hết phải kể đến:
"Giáo dục trong gia đình Mác" của Pê-tréc-nhi-cô-va, do Nhà xuất bản
Thanh niên phát hành năm 1977; "Giáo dục các con trong gia đình" của
Am-bac-đi-an do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1977; "Giáo dục
thái độ cộng sản đối với lao động" của Xu-khôm-lin-xki, do Nhà xuất bản
Thanh niên phát hành năm 1977; "Nói chuyện về giáo dục gia đình" của
A.Ma-ca-ren-cô, do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1978. Với tâm
huyết và năng lực vốn có, cùng với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô
viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ
trẻ phải được bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng, điều đó không
phải là khó như nhiều người lầm tưởng, rằng tất cả các bậc cha mẹ đều có
thể làm được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh
phúc. Nếu tuổi trẻ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc
7
cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà xã hội
phải quan tâm. Kinh nghiệm giáo dục gia đình của A.Ma-ca-ren-cô, còn
vẹn nguyên ý nghĩa trong giáo dục thế hệ trẻ ở gia đình hiện nay. Tiếp theo
A.Ma-ca-ren-cô, phải kể đến I.A-Pê-sec-ni-cô-va với tác phẩm "Dạy con
yêu lao động" do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1980. Theo tác giả,
muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe, vui tươi, yêu đời
và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về
lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội ), bởi
phẩm chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong quá trình lao động.
Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có khá nhiều công trình, bài
viết của nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc
đến công tác giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ với nhiều góc độ, cấp độ
khác nhau. Tiêu biểu là các công trình như: "Khoa học giáo dục con em
trong gia đình" của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm
1979, do Đức Minh chủ biên. Cuốn sách này đã giới thiệu một số quan điểm
về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia
đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục
gia đình đối với thế hệ trẻ; "Dạy con nên người" của Hội Liên hiệp Phụ nữ
thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các
bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm
mẹ trong việc giáo dục con cái nên người, trên những mặt cơ bản của nội
dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ
luôn luôn hướng tới.
Trong các công trình nghiên cứu, còn có "Gia đình Việt Nam với
chức năng xã hội hóa" của Tiến sĩ Lê Ngọc Văn, Nhà xuất bản Giáo dục,
1996. Đặc biệt gần đây, có đề tài cấp Nhà nước KX-07-09: "Vai trò gia
đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam", của
Trung tâm Nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, mà Giáo sư Lê Thi làm chủ
8
biên, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Tập thể các tác giả cho
rằng, những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong
những năm cuối thế kỷ XX đang đưa lại những khả năng sáng tạo, trí thông
minh tuyệt vời cho con người và hứa hẹn đem lại những tiến bộ vượt bậc
cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Bên
cạnh những tiến bộ vượt bậc do con người tạo ra, thì hàng loạt những sai
lầm, thiếu hụt, những hành động dã man, điên cuồng, những tệ nạn xấu xa,
nguy hiểm đang tồn tại trên khắp thế giới cũng lại do con người gây ra.
Hậu quả đó đang làm cho hàng triệu gia đình tan tác, chia ly, cùng khổ. Tác
giả khẳng định, bàn về sự phát triển ổn định của xã hội, không thể tách rời
sự phát triển của con người và vai trò của gia đình trong việc bồi dưỡng,
đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nhân cách con người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về lý luận cũng như thực tiễn,
hầu hết các tác giả đều thừa nhận, việc làm đó mới chỉ là kết quả bước đầu,
mới chỉ là phát hiện những vấn đề, còn trên những khía cạnh cụ thể cũng
cần có sự đầu tư hơn nữa để nghiên cứu một cách tổng thể, khoa học.
Luận án "Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay" hy vọng sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả vào sự nỗ lực
chung của toàn xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia
đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay, luận án đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai
trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ các khái niệm "Gia đình"; "Thế hệ trẻ"; "Giáo dục gia đình"
9
và "Vai trò của giáo dục gia đình" và đặc điểm, nội dung của giáo dục gia
định đối với thế hệ trẻ
+ Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình và đánh
giá thực trạng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta; phân tích những
nguyên nhân cơ bản của thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước trong thời kỳ đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu vai trò của giáo dục gia đình đối với
thế hệ trẻ chủ yếu ở lứa tuổi vị thành niên chịu sự nuôi dưỡng, chăm sóc và
giáo dục của gia đình (giới hạn dưới 18 tuổi).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước ta về gia đình và giáo dục gia đình.
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, như phân
tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, chứng minh,
kết hợp các phương pháp của một số ngành khoa học như tâm lý, giáo dục,
văn hóa học
6. Đóng góp mới của luận án
- Trên quan niệm mác xít, luận án làm rõ và sâu sắc hơn về vai trò,
đặc điểm và nội dung của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
7. Ý nghĩa của luận án
10
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần làm sáng tỏ thêm những
luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và giáo dục gia đình.
Luận án góp thêm một tiếng nói, một kinh nghiệm để các bậc cha
mẹ tham khảo, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục gia đình; đồng thời cung
cấp thêm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy bộ môn chủ
nghĩa xã hội khoa học, môn giáo dục công dân trong các trường học.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu thành 3 chương, 6 mục.
11
Chương 1
GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
1.1. GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm gia đình
Là tế bào của xã hội, gia đình - nơi con người sinh ra, lớn lên, từ lâu
đã được nhiều nhà tư tưởng, nhà hoạt động thực tiễn quan tâm, nghiên cứu.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" (1845), khi luận chứng về
những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, C. Mác và
Ph.Ăngghen, đã cho rằng: "Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là GIA ĐÌNH" [42, tr. 41]. Với
quan điểm này, khái niệm gia đình được nhìn nhận với một số nội dung
sau: Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã
hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình
thì đồng thời cũng tạo ra gia đình. Thứ hai, chức năng chính của gia đình là
tái tạo ra, sinh sôi nảy nở con người. Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối
quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (chồng - vợ), quan hệ huyết thống (cha
mẹ - con cái).
Tiếp tục công trình nghiên cứu về gia đình, trong tác phẩm "Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (1884), Ph.Ăngghen
đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực
tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là
12
sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những
thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch
sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại
sản xuất đó quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao
động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình [43, tr. 44].
Vậy là, theo Ph.Ăngghen, thứ nhất, quá trình sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố suy đến cùng quyết định tiến trình phát
triển của lịch sử; thứ hai, cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ
phát triển của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội; thứ ba, đến
lượt mình, trình độ phát triển của gia đình cũng tùy thuộc vào trình độ phát
triển của sản xuất, của lao động và của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, hoặc do thế giới quan của các nhà nghiên
cứu, hoặc một phần vì thực tiễn vận động và biến đổi quá nhanh chóng và
sâu sắc, thậm chí vượt xa so với dự đoán của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã
hội khoa học, nhiều nhà nghiên cứu về gia đình đã không đánh giá đúng
quan điểm khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen. Bởi vậy, để có thể nhận thức
đúng đắn hơn, hiện đại hơn về vấn đề này, cần tính đến các cách tiếp cận
khác nhau.
Hiện nay, xã hội phương Tây đang lưu hành các lý thuyết: "Thuyết
đạo đức tương đối", "Hôn nhân không con", "Cha mẹ công nghiệp", "Gia
đình thoáng qua" Tiêu biểu cho các lý thuyết đó là quan điểm của Alvin
Toffler trong cuốn "Làn sóng thứ ba". Trong tác phẩm này, Alvin Toffler
đã khái quát rằng, đại gia đình gia trưởng là hình thức gia đình của nền văn
minh nông nghiệp, gia đình một vợ một chồng với một đến hai con là hình
thức của gia đình văn minh công nghiệp, còn nền văn minh hậu công
nghiệp sẽ có nhiều hình thức gia đình Alvin Toffler và những người theo
lý thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị đã có là chủ quan, cá nhân có quyền lựa
chọn bình đẳng, trong nền văn minh thứ ba sẽ không có một hình thức gia
13
đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ là những hình thức: gia đình đa phụ
mẫu, gia đình đoàn thể, gia đình nam hoặc nữ thanh niên (gia đình đồng
tính luyến ái) [65, tr. 104-110]. Dự báo này cần phải tỉnh táo để xem xét.
Thực tế cuộc sống cũng cho thấy, gia đình một vợ một chồng đang có
sự rạn nứt, song những cái gọi là hình thức gia đình mới nêu trên, không những
không phản ánh được sự tiến bộ xã hội đang hiện hữu, mà trái lại, nó thể
hiện sự suy đồi và bế tắc của xã hội tư sản phương Tây trong vấn đề gia đình.
Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng
với những vấn đề mang tính toàn cầu nảy sinh: mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo,
chiến tranh cục bộ, sự ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, nạn thất nghiệp
trầm trọng, các tệ nạn xã hội gia tăng, tính bền vững trong gia đình đang
đứng trước những đe dọa mới, thách thức mới, nhưng như vậy không có
nghĩa là gia đình một vợ một chồng đã bị giải thể
Hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của
Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và
thống nhất khẳng định: gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn
vị kinh tế của xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu
của nhân loại, cần được gìn giữ và phát huy. Trên tinh thần đó, UNESCO
đã đưa ra định nghĩa về gia đình: "Gia đình là một nhóm người có quan hệ
họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung" [60, tr. 269]. Quan hệ họ
hàng, trước hết là nói đến quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Ngoài
những thành viên tạo nên quan hệ họ hàng, gia đình còn bao gồm một số
thành viên khác cùng chung sống. Các thành viên gắn bó với nhau về trách
nhiệm và quyền lợi về mọi mặt. Đây là một khái niệm rộng, nội hàm của
khái niệm phức tạp và đa dạng.
Gần với quan niệm UNESCO, có một số quan niệm khác cũng đáng
quan tâm. Trong cuốn "Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con
người Việt Nam", Giáo sư Lê Thi đã nêu ra quan niệm của Levystrauss về
14
gia đình:
Gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc
điểm trong quan sát thường thấy nhiều nhất:
a- Nó bắt nguồn từ hôn nhân.
b- Nó bao gồm vợ - chồng - con cái đã phát sinh từ sự
hôn phối của đôi nam nữ, tuy rằng có thể có mặt trong gia đình
những họ hàng bà con, con nuôi, người ở, bạn bè.
c- Các thành viên của gia đình được gắn liền với nhau
bởi các ràng buộc pháp lý, bởi các nghĩa vụ và quyền lợi có tính
chất kinh tế, tôn giáo hay cái khác; bởi các quan hệ nhất định về
quyền và sự cấm đoán tình dục giữa các thành viên; bởi một tổng
hợp có tính chất thay đổi về tình cảm, tâm lý như tình yêu, tình
thương, sự kính trọng, sự sợ hãi [60, tr. 268-269].
Quan niệm này khá hợp lý, song chưa phản ánh hết thực tế sinh
động của thực tại. Trên thực tế, hiện đang tồn tại những đôi nam nữ chung
sống nhưng không cưới nhau, ở với con cái họ sinh ra; những người đàn
ông và đàn bà góa, hay ly dị sống với con cái họ
Gia đình hôn phối (hay gia đình hạt nhân) gồm bố, mẹ, con cái sống
chung một nhà là hình thức chiếm số đông hiện nay. Gia đình hôn phối
được lập nên bằng hôn nhân và được giải thể cùng với sự giải thể của hôn
nhân (ly dị).
Theo Giáo sư Lê Thi:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội
hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống
nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha, mẹ,
con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại). Đồng thời, trong gia đình
cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy
15
không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó
với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình
cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà
nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hôn nhân và
gia đình của nước ta). Đồng thời, gia đình cũng có những quyết
định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan
hệ tình dục giữa các thành viên [60, tr. 20-21].
Định nghĩa này hợp lý về cả khoa học và đạo lý Việt Nam, song
một lần nữa vẫn chưa giải thích được sự xuất hiện loại gia đình cũ tồn tại ở
Việt Nam, gia đình không có trách nhiệm pháp lý.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, "Gia đình là một khái niệm
mới, được hình thành từ ba thành phần, gồm những "đại lượng khác tên" là
bố, mẹ và con cái" [36, tr. 57]. Theo ông, sự hình thành ban đầu là một
hành vi giản đơn kết hợp hai cá nhân (nam và nữ), mãi sau này khi đạt đến
hình thái chính thức, gia đình mới - có cấu trúc hoàn chỉnh ba thành phần:
bố, mẹ, con cái. Khi cậu con trai hay con gái đi lấy vợ hay lấy chồng, giữa
họ lại có sự kết hợp mới và khi đạt đến hoàn chỉnh lại cho ra đời một phạm
trù mới - Gia đình. Với quan niệm này, tác giả chú ý nhấn mạnh đến hai
mối quan hệ cơ bản để hình thành nên một gia đình mới, đó là quan hệ hôn
nhân (giữa chồng và vợ) và quan hệ huyết thống (giữa cha mẹ và con cái).
Nhóm nghiên cứu gồm nhiều tác giả của Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam - Thành phố Hà Nội do Lê Tiến Hùng (chủ biên), cho rằng:
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một trong những hình
thức của đời sống nhân loại. Nó là một lĩnh vực của đời sống đạo
đức, nó là sự liên hiệp tự giác giữa người nam và người nữ bằng
mối quan hệ hôn nhân với mục đích tổ chức cuộc sống hạnh phúc
chung và nuôi dạy con cái. Các thành viên trong gia đình có quan
hệ huyết thống với nhau hoặc quan hệ đỡ đầu, nuôi dưỡng. Họ gắn
16
bó chặt chẽ với nhau về mặt kinh tế, tình cảm, tâm lý, đạo đức,
đời sống văn hóa. Họ được pháp luật công nhận và bảo hộ [25, tr.
5].
Theo Từ điển Văn hóa gia đình của nhóm tác giả Phạm Thị Dung,
Nguyễn Thu Hà, Phạm Minh Thảo, Từ Thu Hằng, Phạm Thị Hảo biên
soạn, khái niệm gia đình được định nghĩa:
Gia đình là thiết chế xã hội dựa trên cơ sở sự kết hợp của
những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân để thực hiện
được các chức năng sinh học (sinh đẻ), kinh tế, văn hóa, xã
hội Khi gia đình đã có con, các thành viên được liên kết với
nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân vừa bằng quan hệ huyết thống.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi
của xã hội [13, tr. 27-28].
Dĩ nhiên, khi nêu khái niệm gia đình, các nhà nghiên cứu cố gắng
đưa ra một khái niệm bao quát nhất, nhằm phản ánh một cách đầy đủ nội
hàm của một phạm trù tương đối rộng này. Nhưng trong đời sống hàng
ngày, khi nói đến gia đình, thì điều đầu tiên và chủ yếu là nói đến một tập
hợp người, cùng sống chung dưới một mái nhà và giữa họ có mối liên hệ
với nhau, bởi: Thứ nhất, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; thứ hai, quan
hệ huyết thống giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà
với các cháu; thứ ba, một số người được gia đình nuôi dưỡng, gắn bó với
nhau về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, được họ hàng làng xóm ủng
hộ, được luật pháp thừa nhận và bảo vệ.
Có thể còn nhiều vấn đề cần phải tìm hiểu và nghiên cứu thêm, nhưng
căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân và gia đình ở nước ta, kế thừa những
cách tiếp cận hợp lý khác nhau như trên, theo chúng tôi, có thể đưa ra một
khái niệm về gia đình như sau: Gia đình là một phạm trù dùng để chỉ một tập
17
hợp người, hình thành trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng Các thành viên gia đình gắn bó với nhau bởi trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hóa, tình cảm và theo những chuẩn
giá trị nhất định, được dư luận xã hội ủng hộ, được nhà nước thừa nhận và
bảo vệ.
Quan niệm trên cho chúng ta thấy:
Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước
hết trên cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa
hai cá nhân (nam - nữ) theo qui định của pháp luật hay nhà thờ, nhằm để
chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân
được biểu hiện là một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân, đó là
quan hệ vợ - chồng mà thực chất là sự kết hợp với nhau để sinh sản và cùng
nuôi dạy con cái. Trong các xã hội còn giai cấp, quan hệ hôn nhân là một
hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có các
hình thái hôn nhân đặc trưng và giai cấp thống trị dùng pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp
mình.
Thứ hai, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Quan hệ huyết thống là sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn
nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên cơ sở quan hệ tình yêu và hôn nhân
chính đáng, hợp pháp. Bàn về vấn đề này, Ph.Ăngghen nhận xét: "Nếu trong
thời cổ, người ta thấy có đôi chút tình yêu giữa vợ chồng, thì tình yêu đó
không phải là sở thích chủ quan, mà là một nghĩa vụ khách quan, không phải
là nguyên nhân của hôn nhân mà là cái bổ sung cho hôn nhân" [43, tr.119].
Thứ ba, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể
với đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau bởi những quyền lợi,
nghĩa vụ và được dư luận xã hội ủng hộ.
Vậy là, dù không có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi
18
nền văn hóa [5, tr.13], song với quan niệm như trên, chúng ta cũng có thể
thống nhất về cơ bản: gia đình là một cộng đồng người trên cơ sở hai mối
quan hệ cơ bản hôn nhân và huyết thống, được xã hội thừa nhận.
1.1.2. Chức năng của gia đình
Là một tập hợp người, được hình thành trên cơ sở hai mối quan hệ
cơ bản: hôn nhân và huyết thống gia đình có sứ mệnh đảm đương những
chức năng đặc biệt mà ngoài nó ra không có một thiết chế xã hội nào có thể
thay thế được. Có thể nêu một số chức năng chủ yếu của gia đình như sau:
Thứ nhất: Tái sản xuất ra con người.
Một trong hai loại sản xuất quyết định sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người, đó là tái sản xuất ra con người. Đây là chức năng cơ bản,
tự nhiên của gia đình, nhằm cung cấp nguồn lao động mới cho xã hội, mặt
khác, để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của đôi vợ chồng và các
thành viên.
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, chức năng này được đặc
biệt đề cao bởi tính quy định của nền văn minh nông nghiệp. Trong quá
trình sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có nhiều lao động, nhất là lao động
của người đàn ông. Gia đình càng đông con, nhất là đông con trai, thì lực
lượng lao động càng lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất, đến các
mối quan hệ trong họ, trong làng. Ngoài ra, xét về mặt văn hóa truyền thống,
người con trai luôn được đề cao. Bởi gia đình Việt Nam truyền thống có
phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà. Việc thờ cúng được thực hiện chủ yếu
bởi người con trai cả và nhằm vào tổ tiên trực tiếp mang tộc danh người bố
(bên nội). Những người con trai thứ khi ra ở riêng, cũng được lập bàn thờ,
nhưng tổ chức đơn giản hơn theo kiểu "Thờ vọng", thờ từ xa [9, tr. 57-58].
Với quan niệm như vậy, lôgíc tất yếu của gia đình truyền thống Việt Nam
là gia đình nào sinh đẻ ít, không có con trai là bất hạnh, bất hiếu với ông
19
bà, tổ tiên; gia đình nào đông con (con đàn, cháu đống) và nhiều con trai là
gia đình có phúc đức, có hiếu. Vì vậy, trong hôn nhân, người ta đặc biệt
chú ý đến việc kén tông, xem họ, "Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén họ".
Trong 15 năm đổi mới vừa qua, nhờ những nỗ lực của Đảng và Nhà
nước trong công tác giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục nên đã làm thay
đổi nhận thức của xã hội về vấn đề gia đình, dân số và phát triển. Tỷ lệ sinh
đã giảm xuống còn 1,58% năm 1999 [2, tr. 38]. Việc sinh con trai hay con
gái không còn là sức ép tâm lý đối với nhiều cặp vợ chồng. Do vậy đời
sống vật chất và tinh thần của nhiều gia đình đã được cải thiện rõ rệt. Trên
bình diện xã hội, việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người đang
diễn ra theo chiều hướng khác nhau. Một là, nhiều gia đình đã nhận thức
được sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chỉ nên có một đến
hai con, vừa đảm bảo sức khỏe sinh sản, vừa có cơ hội để nuôi dưỡng và
giáo dục con cái. Vợ chồng có điều kiện nghỉ ngơi và giải trí, tham gia các
hoạt động văn hóa và xã hội, học tập để nâng cao trình độ. Hai là, hiện nay
vẫn còn một bộ phận các gia đình chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán
cũ, với quan niệm "trời sinh voi, sinh cỏ", phải sinh cho được con trai, nên
đã đẩy tỷ lệ sinh cao hơn mức giới hạn. Thuộc diện loại này thường là
những gia đình ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi mà trình độ
dân trí còn thấp kém. Tỷ lệ tăng dân số ở nước ta trong những năm qua,
mặc dù đã giảm rất nhiều, song vẫn còn ở mức cao (đến năm 1999 là
1,58%) so với yêu cầu chung, đây là một trong những nguyên nhân của tình
trạng đói nghèo, (hiện cả nước vẫn còn trên 1.700 xã nghèo), tình trạng suy
dinh dưỡng và thất học ở trẻ em thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa
vẫn đang có chiều hướng gia tăng.
Thứ hai: Chức năng kinh tế của gia đình.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, xã hội loài người tồn tại và phát
triển là do hai loại sản xuất quyết định:sản xuất ra con người và sản xuất ra
20
của cải vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng tự nhiên của mọi
gia đình, trong mọi thời đại; tất nhiên với mức độ không giống nhau.
Việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo điều kiện
vật chất, đảm bảo sự tồn tại và nâng cao chất lượng sống cho các thành
viên trong gia đình, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Về vấn đề
này, C.Mác viết: "Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do
đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: Người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải
có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa" [42, tr. 39-
40].
Trong tiến trình phát triển của xã hội, gia đình thường được xem là
một đơn vị kinh tế, vừa với tư cách là đơn vị sản xuất, vừa với tư cách là
đơn vị tiêu dùng.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, các triều đại phong kiến chủ
trương "trọng nông, ức thương", nên hầu như toàn bộ cư dân là nông dân
(trên 90%) sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, với phương thức tự
cung, tự cấp là chủ yếu "Trước khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, chưa
có một triều đại nào cho phép thương nhân trong nước ra nước ngoài buôn
bán, quá lắm là mở cửa biển cho tàu buôn nước ngoài đến" [9, tr.58]. Có
thể nói, kinh tế của gia đình truyền thống lấy nông nghiệp làm chính, sức
lao động chủ yếu là hai vợ chồng; các em gái cũng phải lao động từ rất
sớm. Với phương thức tự cung, tự cấp, kinh tế gia đình chỉ đủ bảo đảm
cuộc sống tối thiểu để tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội,
chức năng kinh tế nếu có, cũng chỉ ở mức độ rất hạn chế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, gia đình không chỉ là đơn vị tự
chủ trong sản xuất, mà còn là đơn vị dịch vụ, tiêu thụ, trong đó các thành
viên gia đình có thể đảm đương nhiều vị trí sản xuất và kinh doanh khác
21
nhau, với những phương thức hoạt động và quan hệ rộng mở, đa dạng và
phong phú. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến kinh tế hộ gia
đình và khuyến khích mô hình kinh tế trang trại, coi đó là đơn vị kinh tế có
vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Với chính sách phát triển kinh tế hộ gia
đình, kinh tế trang trại của Nhà nước, nhiều gia đình đã hăng hái lao động
sản xuất, kinh doanh và vươn lên làm giàu chính đáng, theo quan điểm
"dân giàu thì nước mạnh". Chính nhờ vậy không chỉ đời sống gia đình
được cải thiện, con người có điều kiện phát triển về trí tuệ, thể lực, nhân
cách mà bộ mặt xã hội không ngừng được đổi thay.
Thứ ba: Chức năng tổ chức đời sống gia đình.
Không những là tế bào xã hội, gia đình còn là "tổ ấm tình thương",
nơi mà mỗi thành viên của gia đình được chăm lo về đời sống vật chất, tinh
thần và tình cảm. Chính trong gia đình, con người mới thể hiện một cách
đầy đủ nhất những nhu cầu khát vọng và những tâm tư sâu kín, nhất là đối
với thế hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, luôn hướng tới tương lai. Đời sống
gia đình được tổ chức tốt, cuộc sống của mỗi thành viên được đảm bảo và
hạnh phúc, là điều kiện rất quan trọng để mỗi người trong gia đình yên tâm,
phấn khởi, tích cực tham gia lao động, công tác và học tập; người già được
chăm sóc, con trẻ có cơ hội được nuôi dưỡng, rèn luyện, vui chơi giải trí và
phát triển năng lực toàn diện.
Trong gia đình truyền thống, chức năng tổ chức cuộc sống còn bị
hạn chế, trước hết bởi trình độ sản xuất còn thấp kém, con người chưa được
coi là mục đích của phát triển kinh tế. Hơn nữa, với chế độ phụ quyền và
những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo, người phụ nữ phải chịu
nhiều thiệt thòi hơn cả, thậm chí chỉ là người phục vụ trong gia đình, phục
vụ chồng con một cách đơn thuần, một chiều Tuy nhiên, với truyền thống
"Đói cho sạch, rách cho thơm", đề cao tình nghĩa vợ chồng, tôn trọng người
22
già, yêu thương và hết lòng vì con trẻ, nên mặc dù ngoài xã hội, con gái
còn bị xem thường và khinh rẻ, nhưng trong gia đình họ vẫn có vị trí và vai
trò xứng đáng xây đắp nên "Tổ ấm tình thương", như người xưa vẫn
thường nói: "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm". Trong gia đình hiện nay,
với kết quả của sự nghiệp đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, kinh tế mở cửa, kinh tế gia đình đã có nhiều đổi thay theo
hướng tích cực. Đời sống vật chất được cải thiện đáng kể, gia đình có điều
kiện nuôi dưỡng, chăm lo ngày càng tốt hơn cho các thành viên, đặc biệt là
những nhu cầu về ăn, mặc, học tập, vui chơi giải trí cho thế hệ trẻ. Một khi
cuộc sống đã được đảm bảo, thì các thành viên trong gia đình cũng có điều
kiện để quan tâm đến nhau đến hạnh phúc chung của gia đình nhiều hơn.
Vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội được coi trọng đã có ảnh
hưởng tích cực đến việc mở rộng sự bình đẳng và dân chủ trong các mối
quan hệ gia đình, như quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ và con cái. Gia
đình ngày càng chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng của mỗi người. Tự do
cá nhân vì thế cũng được tôn trọng. Sự cân bằng tâm lý, tình cảm của các
thành viên trở nên quan trọng và là cội nguồn của hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, trong xã hội một số gia đình
tuy đời sống đã được nâng cao, cuộc sống giàu sang khá giả nhưng hạnh
phúc gia đình không được đảm bảo, bởi ở những gia đình đó, quan hệ kinh
tế đã chi phối, lấn át các mối quan hệ khác, do vậy hậu quả tất yếu là ông
bà, cha mẹ bị con cái bỏ rơi, tình trạng bạo lực, trẻ em phạm tội, vợ chồng
ly tán và ngoại tình tăng lên, đạo lý gia đình bị chà đạp. Cuộc sống gia đình
hiện nay là muôn hình, muôn vẻ, nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của cá
nhân ngày càng đa dạng. Song để xây dựng và tổ chức tốt cuộc sống của
gia đình, đòi hỏi phải loại trừ những hành vi bạo lực, nạn độc đoán gia
trưởng trong gia đình, và thay vào đó là sự bình đẳng, quan tâm chăm sóc
23
lẫn nhau. Hơn thế nữa ở tầm vĩ mô, chính sách kinh tế - xã hội của Nhà
nước đóng vai trò to lớn, góp phần điều chỉnh, tạo điều kiện cho việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi gia đình. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi
dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú
ý tới xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý
thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người [14, tr. 15].
Thứ tư: Chức năng giáo dục của gia đình.
Đồng thời với chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có
chức năng giáo dục thế hệ trẻ. Đây là chức năng rất quan trọng trong việc
hình thành nhân cách của con người. C. Mác đã từng khẳng định rằng, con
người là một động vật - xã hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không
được sống trong môi trường xã hội, không được hưởng chế độ giáo dục của
gia đình, của xã hội, đứa trẻ sẽ không trở thành một con người. Khoa học
đã chứng minh có sức thuyết phục điều này. Bởi vậy, có thể khẳng định
rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ từ một thực thể sinh học thành một con
người, được diễn ra trong môi trường xã hội, trước hết là nhờ quá trình giáo
dục, trong đó đặc biệt là giáo dục gia đình. Sabran, nhà xã hội học người
Pháp đã có lý khi nhận xét rằng: "Xã hội như một con tàu, cá nhân phải
bước lên con tàu xã hội thì mới trở thành người xã hội, nếu không thì phải
đứng mãi ở bến tàu" [26, tr. 7]. Có thể nói, những mầm mống ban đầu của
nhân cách, những sở thích, những suy nghĩ về cuộc sống của mỗi con
người đều được hình thành ngay từ trong gia đình. Giáo dục gia đình tốt sẽ
góp phần tạo ra những công dân tốt, làm cho xã hội tốt đẹp.
Trong gia đình truyền thống, sự giáo dục (gia giáo) chủ yếu thiên về
24
giáo dục đạo đức, giáo dục phẩm hạnh, giáo dục đối nhân xử thế giữa các
thành viên trong gia đình và với họ hàng, làng xóm; có sự phân biệt giữa
nam và nữ, mà người có vai trò ảnh hưởng lớn nhất trong giáo dục là người
cha. Đối với con trai, các gia đình thường quan tâm tới việc giáo dục đạo lý
theo khuôn mẫu Nho giáo. Luân cương có ngũ luân, đó là năm mối quan hệ
(vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè), trong đó nhấn mạnh ba mối
quan hệ cơ bản nhất (tam cương) là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Vua thay trời
để cai trị muôn dân, là cha mẹ của muôn dân, cho nên từ quan đến dân đối
với vua đều phải hết dạ trung thành, hết lòng cung kính. Quan hệ cha-con
trong gia đình, là quan hệ trên bảo, dưới nghe, con cái phải noi gương cha
ông, phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy tắc chuẩn mực của gia giáo. Trong
quan hệ vợ-chồng, cư xử với nhau trọng nhất là hai chữ hòa thuận [6, tr. 48],
"thuận vợ, thuận chồng, tát bể đông cũng cạn", chồng phải giữ nghĩa với
vợ, vợ phải giữ tiết với chồng. Đối với người con gái, gia giáo đặc biệt chú
ý giáo dục đạo lý "tam tòng" và "tứ đức". Đạo tam tòng quy định lúc ở nhà
phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết thì phải theo con. Bởi
thế, dâu mới coi là con, và người con gái khi đi lấy chồng, phải hết lòng
phục vụ nhà chồng. Tứ đức gồm công, dung, ngôn, hạnh, là đòi hỏi người
phụ nữ trước hết phải biết nữ công gia chánh, phải khéo léo chân tay, dáng
dấp phải khoan thai, hòa nhã, gọn gàng và sạch sẽ; ăn nói phải dịu dàng,
lịch thiệp, phải rèn dũa nết na, phải trên kính dưới nhường, chiều chồng,
thương con, nhu mì chín chắn Trong gia đình, ngoài phần chức phận theo
giới (nam, nữ), còn phân quan hệ trên - dưới; danh nghĩa gia trưởng là
thuộc về: cha của con, chồng của vợ, anh của em, bởi vậy gia giáo là công
việc của người trên đối với người dưới (theo quan hệ chiều dọc) trên cơ sở
tôn trọng "khoan dung".
Là chức năng cơ bản của gia đình, trong gia đình truyền thống, việc
giáo dục con cái được ghi thành gia huấn, lưu truyền từ đời này sang đời
25
khác, chẳng hạn như "Bảo kính cảnh giới" của Nguyễn Trãi, "Huấn đồng
thi tập" của Phùng Khắc Khoan,"Minh đạo gia huấn" của Trình Minh Đạo,
"Ngũ huấn tự quốc âm" của Hoàng Tông Khuê [20, tr. 18]. Gia huấn là
những lời khuyên bảo, xuất phát từ tình cảm ruột thịt giữa cha với con, anh
với em về cách suy nghĩ, kinh nghiệm riêng và những tấm gương của ông
cha, tổ tiên, nhắc nhở con cháu cố gắng giữ nếp nhà. Gia huấn còn nói
nhiều đến kinh nghiệm đối nhân xử thế trong gia đình, gia tộc, làng xã.
Sách còn dạy về nhiệm vụ hiếu thảo, lòng kính trọng của con cái đối với
cha mẹ, về sự hòa thuận vợ chồng, anh em, bạn bè, nhắc nhở mọi người
phải thực hiện việc trung, việc hiếu, việc thiện, tránh xa điều ác, điều tà
Sách còn khuyên bảo và nhắc nhở con trai, phải có trách nhiệm học tập, để
làm rạng danh gia đình, để nối dõi tông đường; nhắc nhở con gái, phải học
việc tề gia nội trợ, siêng năng, chăm chỉ, dâu hiền, con thảo
Trong gia đình hiện nay, chức năng giáo dục được chia sẻ cùng với
nhà trường và xã hội, tuy nhiên để tạo ra một lớp người phát triển toàn
diện, để nâng cao chất lượng của nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì chức năng giáo dục gia
đình ngày càng được coi trọng. Việc xây dựng nhân cách con người phải
căn cứ vào yêu cầu của xã hội, vào hệ thống giá trị thay đổi tùy theo mỗi
giai đoạn lịch sử. Gia đình tác động đến sự hình thành tình cảm, tâm lý,
hành vi ứng xử văn hóa đến tư cách, phẩm chất của con người. Thế giới
quan, nhân sinh quan của cá nhân chủ yếu được định hình sau này trong
quá trình tiếp xúc với môi trường và cộng đồng xã hội, song nó cũng chịu
sự tác động quan trọng của gia đình, của các thành viên với nhau.
Ngày nay, cùng với sự cần thiết phát huy tính năng động, sáng tạo,
tích cực của trẻ, cha mẹ cần tôn trọng ý kiến con cái, không nên áp đặt một
chiều. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, trình độ, phạm vi xã hội hóa của trẻ
26
em phát triển rất nhanh. Để thực hiện tốt chức năng giáo dục, các bậc cha
mẹ phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ văn hóa, và kỹ năng giáo
dục. Với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát triển nhanh
chóng của khoa học công nghệ, vai trò của giáo dục gia đình cũng có sự thay
đổi. Không ít cha mẹ có lúc cảm thấy lúng túng, đôi khi bất lực trong việc
giáo dục con cái. Tuy nhiên, yếu tố tích cực vẫn là cơ bản, bởi nền kinh tế
đất nước cũng như đời sống từng gia đình đã có bước phát triển đáng kể,
tạo ra những điều kiện hiện thực để trẻ em được nuôi dưỡng và phát triển
về thể chất, đạo đức, trí tuệ và tinh thần, hướng tới sự phát triển toàn diện.
Về vấn đề này, Đảng ta đã chỉ rõ: "Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục
toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi
trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và
năng lực thực hành" [16, tr. 33]. Đề cập đến trách nhiệm của gia đình,
"Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em" của nước ta đã quy định: "Cha mẹ
hoặc người đỡ đầu là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc bảo vệ,
chăm sóc và nuôi dạy trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của
trẻ em" [56, tr. 8].
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình có chức
năng khá toàn diện, một trong những cơ sở khách quan khẳng định tính tất
yếu về sự hiện diện của gia đình đối với lịch sử và đối với mọi chế độ xã
hội. Tuy nhiên, mức độ thực hiện chức năng còn tùy thuộc vào điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa của từng giai đoạn phát triển xã hội, của từng
quốc gia dân tộc và tùy thuộc vào ý chí của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam,
gia đình luôn được đặt trong cơ cấu: Nhà - làng - nước. Bởi vậy, gia đình
luôn là nhân tố quan trọng của sự phát triển xã hội, trong đó với chức năng
giáo dục, đã đưa gia đình trở thành mắt khâu quan trọng của hệ thống giáo
dục xã hội, đã trở thành một nhân tố chủ yếu của công tác giáo dục toàn
diện cho thế hệ trẻ - tương lai của đất nước, nguồn lực của mọi nguồn lực
27
1.2. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
Giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, sẽ tồn
tại cùng với sự tồn tại của gia đình. Giáo dục gia đình là một nhân tố không
thể thiếu được trong hệ thống giáo dục xã hội, tác động một cách tự giác và
có mục đích đến sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Trước khi luận giải
về nội dung của giáo dục gia đình, cần thống nhất một số khái niệm:
Thế hệ trẻ: Khi nói về thế hệ trẻ, V.I. Lê-nin cho rằng, họ là nguồn
lực lượng hậu bị mà Đảng và Nhà nước có thể khai thác lâu dài. Người
vạch rõ, thế hệ trẻ có một khát vọng hăng say không gì ngăn cản nổi, đó là
nhiệm vụ mà Đảng mà Nhà nước, cũng như các đoàn thể phải huấn luyện,
giáo dục, dạy dỗ tất cả thế hệ trẻ.
Một số nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng, khái niệm thế hệ trẻ
chỉ mang tính "ước lệ", tức là tính từ lúc con người sinh ra cho đến tuổi 35.
Ở Việt Nam, trong báo cáo đề tài "Đảng lãnh đạo công tác Thanh
niên" do đồng chí Lê Thanh Đạo chủ biên, đã cho rằng: Thế hệ trẻ được
xác định trong độ tuổi nhất định, từ khi sinh ra cho đến 30 tuổi, luôn được
Đảng và Bác Hồ chăm lo giáo dục và bồi dưỡng để trở thành lớp người kế
cận cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Trong cuốn sách "Vấn đề Thanh niên nhìn nhận và dự báo" của
Viện nghiên cứu thanh niên, xuất bản năm 1992, cho rằng: "Khi nói tới
tuổi trẻ, lớp trẻ, thế hệ trẻ, tức muốn nói tới lớp người từ tuổi lọt lòng đến
28 tuổi" [74, tr.12]. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi quan niệm
rằng: thế hệ trẻ là lớp người ở độ tuổi vị thành niên đang chủ yếu chịu sự
nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục của gia đình, lứa tuổi chưa được pháp
luật qui định trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, có nghĩa là ở lứa tuổi dưới
18. Có thể nêu lên những đặc điểm của lứa tuổi này như sau:
- Tâm, sinh lý, thể chất và nhân cách phát triển chưa hoàn chỉnh,
28
do đó trong những hành vi, cách ứng xử, thường có những biểu hiện hạn
chế và lệch lạc.
- Tính hiếu động và phản xạ nhanh, ưa chuộng những điều mới lạ.
- Là lứa tuổi còn chịu sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của gia
đình.
- Được giáo dục bởi sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội.
- Lứa tuổi chưa được pháp luật quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ
công dân, trách nhiệm hình sự.
Giáo dục gia đình: Giáo dục gia đình "là sự tác động có hệ thống,
có mục đích của những người lớn trong gia đình và toàn bộ nếp sống của
gia đình tới đứa trẻ" [70, tr. 233]. Giáo dục gia đình là một bộ phận của hệ
thống giáo dục xã hội, diễn ra trong phạm vi gia đình. Mục đích của giáo
dục gia đình bị quy định bởi chế độ kinh tế - xã hội, mà cơ sở của nó là hệ
tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức, hệ thống mối quan hệ qua lại trong
gia đình. Nhìn chung, mục đích của giáo dục gia đình và xã hội thống nhất
với nhau, đó là những người con ngoan, trò giỏi, những công dân tốt,
những con người hạnh phúc. Song so với mục đích giáo dục của nhà trường
và xã hội, mục đích của gia đình có điểm khác ở chỗ, phân tán và cụ thể
hơn, do nó hướng vào từng đứa trẻ cụ thể và gắn với lợi ích của từng gia
đình riêng biệt. Đồng thời, mục đích của giáo dục gia đình linh hoạt hơn,
thay đổi theo sự biến đổi và phát triển của đứa trẻ, theo sự vận động và phát
triển của xã hội xung quanh, phụ thuộc vào chính cuộc sống của gia đình
và những định hướng giá trị của nó.
Cùng với sự tự giáo dục, giáo dục thế hệ trẻ bao gồm ba loại, giáo
dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, trong đó giáo dục gia
đình là cơ sở và có vị trí, vai trò rất quan trọng. Mỗi loại hình giáo dục có
29