Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

THU HOẠCH giá trị đạo đức của nho giáo trong triết học trung hoa và sự ảnh hưởng của nó đối với việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.55 KB, 27 trang )

THU HOẠCH-Giá trị đạo đức của nho giáo trong triết học
Trung Hoa và sự ảnh hưởng của nó đối với việt nam hiện nay

Cùng với ấn độ, Trung Hoa là một nước lớn ở miền Đơng Châu
á, phía Đơng và Đơng Nam giáp biển; phía Nam, Tây- Nam được
ngăn cách với các nước Việt Nam, Lào, ấn Độ... bởi những dãy núi
cao hùng vĩ; tiếp xuống Trung Nguyên là vùng đồng bằng rộng lớn
do các con sơng Hồng Hà, Hắc Thuỷ, Nhược Thuỷ, Lạc Thuỷ...
chuyên chở phù sa bồi đắp nên. Trung Quốc thuộc vùng khí hậu ơn
đới, rất thuận lợi cho con người tồn tại và phát triển. Trung Hoa
cũng là cái nôi của nền văn minh phương Đông nói riêng và của nhân
loại nói chung. Với những phát minh vĩ đại trên mọi lĩnh vực khoa
học tự nhiên, Trung Hoa cũng là quê hương của những hệ thống triết
học lớn. Trải qua gần 40 thể kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học
Trung Hoa bao hàm nội dung cực kỳ phong phú với những hệ thống
triết học đồ sộ và sâu sắc. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại hình
thành từ cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước C.N và phát
triển rực rỡ nhất ở thời kỳ Xuân thu-Chiến quốc. Đặc trưng chủ yếu
nhất của tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại là đều có xu
hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị-đạo đức của xã
hội. Song, nó cũng đặt ra và giải quyết những vấn đề triết học khác
như: vấn đề về bản nguyên của thế giới; vấn đề cơ bản của triết học;
vấn đề con người ...

1


Những tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái Trung
Quốc, trong đó có trường phái triết học Nho gia (Nho giáo). Nho
giáo là trường phái lớn nhất trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nho
gia ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước C.N, do Khổng Tử (551-479


T.C.N), nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Quốc thời cổ sáng lập. Đến
thời Chiến quốc, nho gia được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và
phát triển theo hai hướng khác nhau, trong đó dịng nho KhổngMạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Quốc
và một số nước lân cận. Từ khi ra đời đến nay, tư tưởng Nho giáo đã
trải qua bao thăng trầm, có lúc tưởng như khơng tồn tại nổi bởi các
cuộc bài Nho. Nhưng đến nay tư tưởng Nho giáo vẫn tồn tại. Điều đó
chứng tỏ rằng sức sống mãnh liệt và ảnh hưởng sâu rộng của tư
tưởng Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo đề cập đến nhiều mặt như triết
học, đạo đức, giáo dục... nhưng tư tưởng về triết học, chính trị- đạo
đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó nổi bật hơn cả là quan
niệm về “tu thân” đối với các bậc đế vương, hiền tài. Vì vậy nghiên
cứu về nó có ý nghĩa to lớn trong nhận thức và cải tạo xã hội ở Việt
Nam hiện nay. Như GS Vũ Khiêu viết: “Giới khoa học Việt Nam sẽ
tiếp tục nghiên cứu thêm về Nho giáo, để có thái độ đúng đắn đối với
một học thuyết có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, tình cảm và sinh hoạt
ở nhiều nước châu á ngày nay, trong đó có Việt Nam”1.
Trong trường phái triết học Nho giáo (còn gọi là Khổng giáo),
đề cập nhiều vấn đề triết học, đạo đức chính trị- xã hội, đây là học
1

Vũ Khiêu, “Nho giáo và phát triển ở Việt nam”, Nxb KHXH, Hà Nội, 1997, tr .196.

2


thuyết về đạo xử thế của người quân tử: “tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong lịch sử tư tưởng Trung Hoa. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi
mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung của học
thuyết, người ta thường chia quá trình phát triển tư tưởng Nho giáo

làm ba giai đoạn đó là Nho Tiên Tần, Hán Nho và Tống Nho.
Để thấy được giá trị trong các học thuyết triết học về chính trịđạo đức của triết học Trung Hoa cổ đại chúng ta điểm qua tình hình
về đặc điểm kinh tế chính trị- xã hội của thời kỳ đó.
Về địa thế, Trung Hoa lúc bấy giờ là một nước lớn, dân số
đơng, với địa hình phức tạp, một bên là biển cả, một bên là những
dãy núi rất cao và một sa mạc rộng lớn bao bọc. Đất nước Trung
Hoa núi non hiểm trở, sông nước mênh mông, nắng sương hồ hợp
với nhau đã tơ điểm nên thiên nhiên hùng vỹ. Người Trung Hoa tự
hào gọi quê hương của mình là “ Trung Hoa quốc” nghĩa là nước ở
giữa, nước tươi tốt, nở hoa.
Về chính trị- xã hội, thứ nhất là sự quá độ từ công xã nông thôn
tiến tới hình thành các quốc gia chiếm hữu nơ lệ, như sự ra đời của
nhà Hạ, nhà Ân, nhà Thương, nhà Chu. Thứ hai là, sự quá độ của
các quốc gia chiếm hữu nơ lệ tiến tới hình thành các quốc gia phong
kiến, tiêu biểu là Tần Thuỷ Hoàng thống nhất giang sơn thu về một
mối, xây dựng quốc gia phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên
của Trung Hoa.

3


Q trình chuyển hố từ cơng xã nơng thơn tới việc hình thành
các quốc gia nơ lệ kéo dài khoảng vài ba ngàn năm trước Cơng
Ngun. Thời kỳ này có những phát minh quan trọng, như Toại
Nhân tìm ra lửa để nấu chín thức ăn, Phục Hy phát minh ra lưới săn
thú, kỹ thuật bắt cá, chăn ni thuần hố gia súc, Thần Nông phát
hiện ra cánh đồng lúa nước, làm ra lưỡi cày, tổ chức ra chợ cho dân
buôn bán, tìm ra nhiều thứ cây để chữa trị bệnh... Những phát minh
quan trọng này đã đưa sản xuất phát triển cao, làm xuất hiện chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất, dẫn tới việc phân hoá dân cư và hình

thành giai cấp. Đây là đặc điểm rất có ý nghĩa cho việc hình thành
các tư tưởng triết học.
Dân cư Trung Hoa cổ đại lúc đó quy tụ trên ba khu vực chính:
các chủng tộc Hoa Bắc ở phía Tây Bắc thuộc các tỉnh Sơn Tây,
Thiểm Tây với cuộc sống du mục, săn bắn là chủ yếu. Họ sẵn sàng
thơn tính các dân tộc kém phát triển hơn, đồng hoá hoặc du nhập
các nền văn hoá. Các chủng tộc Tam Miêu sống ở khu vực sơng
Hồng Hà, Dương tử, họ sống bằng nghề nông luôn luôn phải trị
thuỷ nên tốn học rất phát triển. Cịn các dân tộc Bách Việt sống ở
lưu vực phía Nam sơng Dương Tử, họ đã tổ chức xã hội thành quốc
gia riêng, yêu chuộng tự do, kinh tế phát triển, biết dệt vải bông tơ
lụa, có sản phẩm quý như ngọc trai, ngà voi...Văn minh Trung Hoa
ảnh hưởng rất nhiều đến nền văn minh này. Cuộc sống du mục với
điều kiện tác động cả thuận lợi và khắc nghiệt của tự nhiên là điều

4


kiện thuận lợi làm nảy sinh các tư tưởng triết học như tư tưởng Ngũ
Hành...
Thời Xuân thu- Chiến quốc: bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Chu
cho đến khi hình thành nhà Tần. Dưới thời nhà Chu, sản xuất phát
triển, chun mơn hố cao, hình thành các thành thị phong kiến. Sự
phân hố về lợi ích trong giai cấp chủ nô đã làm tan rã nhà Chu
thành bảy nước lớn đó là Tần, Sở, Tề, Nguỵ, Hàn, Triệu, Yên. Xuân
thu là thời chiến tranh liên miên giữa bảy nước nhằm chia lại đất đai
và giành quyền bá chủ. Sau đó Tần diệt sáu nước (năm 221 tr. CN),
chia Trung Hoa thành 36 quận. Nhà Tần chỉ tồn tại 15 năm thì bị
nhà Hán diệt, cũng trong thời kỳ này tư tưởng được giải phóng, tri
thức được phổ cập, tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành.

Lịch sử gọi thời kỳ này là: “Bách gia tranh minh”. Chính trong thời
kỳ này xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những
hệ thống triết học khá hồn chỉnh, với những tư tưởng cơ bản của
nó, đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng
trung Hoa. Trong đó có 5 trường phái: Âm- Dương Ngũ hành, Nho
giáo, Đạo giáo, Mặc gia và Pháp gia ảnh hưởng lớn tới xã hội lúc
bấy giờ. Trong đó Nho giáo có ảnh hưởng tương đối đậm nét so với
các trường phái khác.
Nho giáo, cơ bản là một học thuyết về đạo xử thế của người
quân tử: Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Tư tưởng Nho
giáo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng Trung
Hoa. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội.

5


Căn cứ vào những biến đổi trong nội dung của học thuyết, người ta
thường chia quá trình phát triển tư tưởng Nho giáo làm ba giai đoạn:
Nho Tiên Tần, Hán Nho và Tống Nho. Ta nghiên cứu Nho Tiên Tần,
đặc biệt là tư tưởng của Khổng Tử quan niệm triết học về đạo đức
chính trị- xã hội và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.
Quan điểm triết học của Khổng Tử qua các tác phẩm do ông
san định lại như: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh
Xuân Thu. Môn đệ của ông chép lại những lời ông dạy thành bộ
“Luận Ngữ”. Tư tưởng triết lý của ông thể hiện trên nhiều phương
diện như bản thể luận, triết học chính trị xã hội, về đạo đức, về giáo
dục...trong những nội dung hết sức đặc sắc ấy thì tư tưởng “tu thân”
có ý nghĩa nhân văn, nhân bản xuyên suốt trong học thuyết đạo đức
chính trị- xã hội của ông.
Tư tưởng “tu thân” là một nội dung hàm chứa những giá trị

mang tính tồn nhân loại mà hiện nay chúng ta cần phải nghiên cứu,
tìm hiểu, kế thừa có chọn lọc và phát triển tư tưởng đó.
Theo Khổng Tử, “tu thân” có nghĩa là tu chỉnh, rèn luyện đạo
làm người; hay nói cách khác, đó là vấn đề tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, tư cách của mỗi người trong xã hội. Theo
Khổng Tử “tu thân” có vị trí vai trị hết sức quan trọng, là cơ sở để
thực hiện “chính danh” ở mỗi con người. Có “chính danh” thì xã hội
mới có thể đổi loạn thành trị, xã hội mới có tơn tri trật tự. Ơng giải
thích rằng “chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng”, ở thời đại
của Khổng Tử là thời đại “danh và thực ốn trách nhau”. Vua khơng

6


làm đúng danh hiệu vua, tôi không làm đúng danh hiệu tơi... vì thế
mà xã hội rối loạn. Vì vậy “chính danh” thì người nào có địa vị, bổn
phận chính đáng của người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con... trật tự
phải phân minh và muốn trị nước trước hết phải sửa mình cho chính
danh. Khổng Tử nói “Nếu danh khơng chính thì ngơn khơng thuận,
ngơn khơng thuận thì việc khơng thành, việc khơng thành thì lễ
nhạc khơng hưng thịnh, lễ nhạc khơng hưng thịnh thì hình phạt
khơng đúng, hình phạt khơng đúng thì dân khơng biết đặt tay làm,
đặt chân đứng vào đâu”, do đó để thực hiện “chính danh” thì phải
“tu thân”.
Tư tưởng đạo đức về “tu thân” có nội dung hết sức phong phú
và sâu sắc biểu hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với con người nói chung, Khổng Tử yêu cầu “tu
thân” theo ngũ luân, ngũ thường.
Về “ngũ luân”, đây là năm mối quan hệ: Quân- Thần, Phụ- Tử,
Phu- Phụ, Huynh- Đệ, Bằng- Hữu, trong các mối quan hệ đó thì có

ba mối quan hệ rường cột đó là Quân- Thần, Phụ- Tử, Phu- Phụ hay
còn gọi là tam cương. Các mối quan hệ này là các mối quan hệ rất
cơ bản trong xã hội, nếu các mối quan hệ này mà kém hoặc bị phá
vỡ thì xã hội sẽ bị tắc loạn. “Tu thân” theo ngũ luân phải theo
nguyên tắc: “quân nhân- thần trung, phụ từ- tử hiếu, phu nghĩa- phụ
thính, huynh lương- đệ đễ và bằng hữu phải thành tín”2.

2

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 68

7


Quân nhân- thần trung: tức là vua phải là người có đức nhân thì
thần dân ắt sẽ trung thành và kính trọng vua.
Phụ tứ- tử hiếu: tức là người cha phải nhân từ thì con cái ắt sẽ
hiếu thảo.
Phu nghĩa- phụ thính: tức là người chồng phải sống có tình, có
nghĩa, có trước, có sau, thuỷ chung thì người vợ ắt sẽ theo chồng.
Huynh lương- đệ đễ: tức là người anh phải là người lương
thiện, sống tốt thì người em ắt sẽ phải lễ phép với anh; “trưởng huệấu thuận” người anh phải ân huệ, đại lượng thì em ắt nghe theo.
Bằng hữu phải thành tín: tức là bạn bè phải đối sử với nhau một
cách chân thành để lại niềm tin yêu lẫn nhau.
Về “ngũ thường”, Khổng Tử khuyên con người ta “tu thân” còn
phải theo ngũ thường, đây là năm phẩm chất cơ bản nhất của con
người, đó là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Trong “tu thân” mỗi con người
cần phải rèn luyện không ngừng, giữ được phẩm giá đó là cả sự
nghiệp “tu thân”.
Bàn đến việc trị nước Khổng Tử đặc biệt coi trọng tu dưỡng,

rèn luyện và giữ cho được đức “nhân” và “lễ” nghĩa, đây là hai
phạm trù cơ bản để “tu thân” của mỗi con người.
Trước hết phạm trù “nhân”: là đức tính tồn thiện, là cái gốc
đạo đức của con người. Chữ “nhân” bao hàm nội dung hết sức rộng
rãi. Theo ông: “thương người là nhân”; “điều gì mà mình khơng
muốn thì đừng đem áp dụng cho người khác” thế là “nhân”; “Kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân” thế là “nhân”; “mình muốn lập thân, thì

8


cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt, thì cũng giúp người
thành đạt” thế là “nhân”. Mặt khác có chỗ Khổng Tử cho rằng:
“nhân” là thương yêu người; “nhân” là tơn trọng người hiền; “nhân”
là lịng người, “nhân” là tình người, là quan hệ giữa người với
người...Như vậy “nhân” bao hàm nội dung rất rộng, ở các mối quan
hệ khác nhau thì “nhân” biểu hiện cũng khác nhau.Ơng nói “Kẻ
qn tử mà bất nhân thì cũng có nhưng chưa bao giờ kẻ tiểu nhân lại
có nhân cả” (Luận ngữ).
Về phạm trù “lễ”: Khổng Tử cho rằng “lễ” là những phong tục,
tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp
luật nhà nước như sinh, tang, tử, hôn, tế lễ, triều sinh, luật lệ, hình
pháp v.v...như vậy “lễ” bao hàm cũng rất rộng, đó là các “giáo lễ”
buộc mọi người tuân theo.
Theo Khổng Tử “nhân” và “lễ” có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong đó “nhân” là chất, là nội dung cịn “lễ” là hình thức biểu
hiện của “nhân” như thế “nhân” và “lễ” khơng thể tách rời nhau.
Ơng cho rằng con người ta muốn đạt được “nhân” thì phải giữ “lễ”,
ơng nói “chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái
lễ và chớ làm điều trái lễ”3.

Nho giáo còn đề cập đến “nghĩa”; “nghĩa” là điều nên nói, việc
nên làm. Nói điều gì đó, làm việc gì đó mà thấy hứng thú, thoải mái
trong lương tâm thì điều nói đó, việc làm đó là việc “nghĩa”.

3

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 69

9


Khổng Tử cho rằng: có thể có người “trí” mà khơng “nhân”,
nhưng khơng thể là “nhân” mà thiếu “trí”. Như vậy “trí” là tri thức,
là trí thơng minh sáng suốt, là sự hiểu biết sâu rộng của con người.
Ông khẳng định rằng: con người ta muốn đạt tới “đức nhân” thì phải
là người có “trí” và “dũng” đó cũng là yêu cầu của người đức nhân.
Mặt khác Khổng Tử tin theo “Thiên mệnh”, nên trong quan niệm về
“trí”, một mặt cho rằng: “con người sinh ra tự nhiên biết được đạo
lý, là hạng người cao thượng”; mặt khác ông lại quan niệm rằng
“trí” khơng phải ngẫu nhiên mà có, nó chỉ được hình thành khi
người ta trải qua quá trình học tập tu dưỡng; ơng nói: “đối với dân,
việc gì cần làm thì cứ sai khiến người ta làm, khơng nên giảng giải
vì dân khơng có khả năng hiểu được nghĩa lý sâu xa...”4.
Thứ hai, đối với các bậc đế vương, hiền thần, việc “tu thân” của
các bậc đế vương, hiền tài luôn được Nho giáo đặc biệt quan tâm,
bởi vì theo Khổng Tử đế vương là người quán tam tài, nối kết giữa
trời, đất và người. ảnh hưởng của bậc đế vương sẽ qua các trung
gian hiền thần mà thấu đến bách tính. Bách tính hấp thụ được ảnh
hưởng ấy sẽ được giáo hố, sẽ được hồn cải.
Theo Nho giáo, đế vương và hiền thần là những người làm

chính trị, những người này cần phải đạt được “cửu trù” và “cửu
kính”.
Về “cửu trù”: (1) Ngũ hành, tức là phải am hiểu địa lý. (2) Ngu
sự, phải biết phương pháp tu chỉnh bản thân mình, đi lại, nói năng,
4

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 69

10


xem xét tường minh, nghe ngóng tinh tế, suy nghĩ đến nơi đến chốn.
(3) Phải biết thực hiện bát chính (tám điều phải lo cho dân), phải
biết lo cho dân được no ấm, đủ đầy, sung túc, có lễ nghi tế tự, có
nhà cửa đất đai, khơng bị gian tà quấy nhiễu...(4) Phải biết đến ngũ
kỷ, phải am tường ý nghĩa của năm, tháng, ngày, biết lịch số và sự
vận động của nhật nguyệt. (5) Hoàng cực, là người thay trời trị dân
nên cần phải có đức hạnh cao. (6) Có tam đức, đó là chính trực,
cương và nhu (là người bảo vệ cái đúng nhưng cần phải tuỳ thời mà
cương hay nhu). (7) Kê nghi, tức là biết bàn bạc, biết hỏi han khi
gặp những trường hợp nan giải khó khăn phức tạp (tức là phải có
quân sư trợ giúp). (8) Thứ trưng, phải biết thông qua quan sát điềm
trời mà xem xét lại cách cai trị của mình như thế nào cho đúng, cho
thuận. (9) Ngũ phúc, lục cực, nếu tổ chức tốt thì dân số được hưởng
ngũ phúc cịn khơng thì dân sẽ gặp phải lục cực.
Về “cửu kính”: (1) Kính hiền tài; (2) Yêu thương họ hàng; (3)
Kính đại thần; (4) Thương dân như con; (5) Khuyến khích hiền tài;
(6) Khuếch trương bách nghệ; (7) Tiếp đón người viễn xứ; (8) Bảo
vệ người trong xứ; (9) Che trở chư hầu.
Thứ ba, đối với người quân tử, theo Khổng tử “quân tử” là

những trí thức nho học, thuộc tầng lớp trên của xã hội. Theo Nho
giáo mẫu người lý tưởng, cao quý nhất là người quân tử.
Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức nên phẩm chất cao quý
nhất của “quân tử” phải là đức hạnh. Như vậy đạo của người “quân
tử” là mài dũa, rèn luyện cái đức sáng của mình, truyền bá cho nhân

11


dân noi theo, khiến cho bản thân và ai nấy ngày một mới hơn, tốt
đẹp hơn và đạt tới chỗ đứng vững chắc ở nơi chí thiện. Theo Nho
giáo đứng vững chắc ở nơi chí thiện có nghĩa là làm vua đứng ở
điều nhân, làm tơi đứng ở điều kính, làm cha đứng ở điều từ, làm
con đứng ở điều hiếu, giao tiếp với người trong nước đứng ở đức
tin.
Con đường thực hiện đạo quân tử, Nho giáo chỉ ra ba điểm như
sau:
- Một là, phải tu dưỡng cả trí lẫn đức;
- Hai là, “trí” là yếu tố mở đầu cho cả quá trình tu dưỡng và
thực hiện đạo quân tử, do đó rất được coi trọng, nhưng “đức” mới là
cái gốc, mới là cái đích cuối cùng của quá trình ấy;
- Ba là, “tu thân” là yêu cầu nghiêm ngặt có ý nghĩa quyết định
đối với việc hình thành và hồn thiện các phẩm chất trí tuệ và đạo
đức của người quân tử. Nó là mắt khâu then chốt trong tồn bộ q
trình tu dưỡng và thực hiện đạo quân tử.
Thứ tư, đối với người phụ nữ:
Nho giáo yêu cầu người phụ nữ phải thực hiện “tam tòng” và
“tứ đức”;
Tư tưởng “tam tịng” đó là “tại gia tịng phụ, xuất giá tịng phu,
phu tử tịng tử” có nghĩa là khi ở với cha mẹ người phụ nữ phải theo

cha, khi đi lấy chồng thì phải theo chồng, khi người chồng qua đời
thì phải theo con trai. Đó là ngun tắc bất di bất dịch đòi hỏi người
phụ nữ phải thực hiện.

12


Tư tưởng “tứ đức” đó là bốn đức tính người phụ nữ phải có:
“cơng, dung, ngơn, hạnh”.
- “Cơng”: người phụ nữ trong công việc phải đảm đang, làm tốt
mọi công việc từ việc gia đình đến cơng việc của xã hội.
- “Dung”: Người phụ nữ phải có nhan sắc, biết giữ gìn và tu
chỉnh sắc đẹp của bản thân mình.
- “Ngơn”: người phụ nữ nói năng phải đúng mực, dịu dàng, lễ
phép.
- “Hạnh”: người phụ nữ phải có đạo đức tốt, hiếu thảo với cha
mẹ, chung thuỷ với chồng, yêu thương con cái hết mực.
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về “tu thân” có nội dung hết
sức phong phú và cụ thể. Quan niệm đó hàm chứa cả những mặt
tích cực và những mặt tiêu cực.
Về mặt tích cực:
- Tư tưởng của Nho giáo về “tu thân” có nội dung tương đối
toàn diện, đã xãc định rõ những yêu cầu, chuẩn mực, những nguyên
tắc và con đường “tu thân” cho từng đối tượng cụ thể trong xã hội.
- Nho giáo đã đề cao việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức ở từng cá
nhân và đã nhìn thấy được vai trò to lớn của đạo đức con người
trong đời sống xã hội. Theo Nho giáo, đạo đức là cái đích cuối cùng
của quá trình tu dưỡng rèn luyện bản thân mình, đạo đức là nhân tố
quyết định cho việc đổi loạn thành trị, làm cho đất nước hưng thịnh.
Đề cao lòng nhân ái vị tha trong quan hệ với mọi người, chứa chan

tình người, chia ngọt sẻ bùi với nhau, quan tâm giúp đỡ nhau. Mỗi

13


người đều phải tận tâm, tận lực đối với công việc, vững vàng trước
những cám dỗ, có trách nhiệm, nghĩa vụ với gia đình, xã hội.
- Nho giáo đã khuyến khích việc học hành của từng cá nhân,
nhất là đối với cấc bậc đế vương hiền thần. Nho giáo xác định ‘trí”
là yếu tố mở đầu cho cả q trình tu dưỡng và khẳng định rằng:
người muốn đạt được đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”; có
thể có người “trí” mà khơng “nhân”, nhưng khơng thể là “nhân” mà
thiếu “trí”.
- Nho giáo cịn chỉ ra vai trị trách nhiệm vô cùng to lớn của các
bậc đế vương, hiền thần, đó là phải chăm lo mọi mặt cho dân; Nho
giáo đưa ra “bát

chính”- tám điều mà người trị dân phải lo cho

dân. Những người cán bộ phải mẫu mực, có trách nhiệm với các
thành viên của xã hội, coi trọng điều hơn, điều lợi. Coi trọng xây
dựng tổ ấm gia đình, làng xóm, xã hội theo một trật tự, khơng bị rối
loạn, có ln thường đạo lý. Con cái hiếu thảo với cha mẹ, anh em
thương yêu lẫn nhau, đùm bọc nhau, dân phải trung với nước.
Về mặt tiêu cực:
Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, cho nên tư
tưởng Nho giáo về “tu thân” cịn chứa đựng những mặt tiêu cực đó
là sự phân biệt đẳng cấp, sự ràng buộc con người trong một trật tự
xã hội có lợi cho giai cấp thống trị đã kìm hãm sự phát triển cá
nhân, làm cho con người trở nên cam chịu, không dám đứng lên đấu

tranh, dẫn đến một kết cục là kìm hãm sự phát triển của xã hội. Học
thuyết của Khổng Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn, giằng co,

14


đan xen giữa những yếu tố duy vật, vô thần và những yếu tố duy
tâm, giữa những tư tưởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ,
phản ánh tâm trạng của ông trước biến chuyển của thời cuộc. Biểu
hiện trên các khía cạnh sau:
- Việc “tu thân” chỉ chú trọng đến học hành thi cử, không coi
trọng lao động sản xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội.
- Thủ tiêu đấu tranh, cam chịu sự áp bức, nghèo nàn và cực khổ.
- Tuyệt đối hoá chế độ đẳng cấp, những người ở đẳng cấp dưới
phục tùng vô điều kiện những người ở đẳng cấp trên.
-Tư tưởng quan liêu, gia trưởng độc đoán, một người làm quan
cả họ được nhờ, cuộc sống luôn chịu sự thụ động, thiếu năng động
của bản thân.
- Trong quan hệ xã hội lấy đạo đức thay cho luật pháp.
- Tư tưởng trọng nam khinh nữ...
II. Sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam
Việt Nam là một nước láng giềng của Trung Quốc, suốt trong
chiều đai lịch sử tồn tại phát triển của mình, Việt Nam đã từng bị
Trung Quốc xâm chiếm và đô hộ nhiều lần và kéo dài hàng ngàn
năm. Trong những lần đơ hộ đó, bọn phong kiến Trung Quốc đã có
mưu đồ đồng hố nền văn hố Việt với nền văn hoá Hán của họ.
Nhưng với truyền thống tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam bọn
chúng không thực hiện được mưu đồ đó, ngược lại các tư tưởng của
văn hoá Trung Hoa đã bị “Việt Nam hoá”.


15


Tuy nhiên, nền văn hoá Hán nhất là Nho giáo có ảnh hưởng
nhất định đến đời sống, con người và xã hội Việt Nam. Nho giáo du
nhập vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, dần dần ảnh
hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Quá trình củng cố quyền thống trị của mình và xây dựng đất nước,
các triều đại đã tìm thấy ở đạo Nho những yếu tố hợp lý (cùng với
đạo Phật, đạo Lão...). Tuy nhiên Nho giáo vào Việt Nam đã bị “Việt
Nam hố”, vì vậy các quan điểm mà các nhà tư tưởng, các nhà yêu
nước khi sử dụng các khái niệm, phạm trù... khơng cịn giữ ngun
tư tưởng như Nho giáo gốc.
Sự ảnh hưởng của Nho giáo tới Việt Nam cũng nằm trong diễn
tiến văn hố đó, trong đó tư tưởng về “tu thân” cũng là một trong
những nội dung có ảnh hưởng tương đối sâu sắc đến đời sống xã hội
Việt Nam.
Một là, tư tưởng về mẫu người lý tưởng:
Chúng ta không thể phủ nhận rằng, từ khi bắt đầu giành được
độc lập, cha ông ta đã chú trọng đến việc xây dựng những con người
theo tiêu chuẩn Nho giáo. Trong đó tư tưởng “trung nghĩa” được đề
cao cho phù hợp với lợi ích của vương triều thống trị, nhưng trong
khái niệm này đã có những nội dung mới.
Trần Hưng Đạo quan niệm “trung nghĩa” tuy vẫn kiểu như Nho
giáo, tức là trung với vua nhưng trong đó đã bao hàm nội dung u
nước; vì lúc đó quyền lợi của vua gắn liền với quyền lợi của dân

16



tộc. Đằng sau khái niệm “trung quân” đã bao hàm cả sự trung thành
với lợi ích của dân tộc.
Đến Nguyễn Trãi, khái niệm “trung nghĩa” đã được nâng lên
với nội dung mới, ở đây không chỉ trung với vua, mà được hiểu là
trung với nước...ở ông, nhân nghĩa trước hết là một đường lối chính
trị, một chính sách cứu nước. Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi có phạm vi
rộng hơn, vượt ra ngoài chủ trương, đường lối và ở mức độ cao hơn,
vượt lên trên những vấn đề cụ thể trở thành cơ sở của đường lối và
chuẩn mực của đối xử, nguyên tắc trong giải quyết sự việc. Nhân
nghĩa đó thực sự đã đạt tới một nền tảng phương pháp luận của suy
nghĩ và hành động. Ơng nói: “đạo làm tướng, lấy nhân nghĩa làm
gốc, trí dũng làm của”; “phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa
làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu” (thư trả lời
Phương Chính). Trong tư tưởng cứu nước của Nguyễn Trãi, cứu
nước trước hết phải cứu dân đó là nét nổi bật trong tư tưởng nhân
nghĩa của ơng. Ơng viết: “việc nhân nghĩa cốt ở n dân” (Đại cáo
Bình Ngơ)...
Trong Nho giáo quan niệm về “tam cương”, “ngũ thường” tạo
cho xã hội một ý thức tuân thủ trật tự kỷ cương, phù hợp với chế độ
phong kiến. Con đường danh lợi của Nho giáo là học hành, khoa
bảng, làm quan, phò vua, đem lại ơn huệ cho dân. Kẻ sĩ thường
chọn con đường của đạo Nho. Nhưng các nhà yêu nước và nhân đạo
của Việt Nam thì thường phát huy những khái niệm nào đó của đạo
Nho có sức diễn đạt được nội dung yêu nước, yêu dân, yêu con

17


người và tin ở năng lực con người... Như Nguyễn Trãi trong “ngũ
luân” ông chỉ coi trọng hai mối quan hệ vua- tôi và bạn- hữu. Trong

quan hệ vua- tôi, quan niệm về “trung” của ông cũng không hẳn
giống như của đạo Nho. Nguyễn Trãi cho rằng trung thần là người
biết chọn vua thánh để thờ, biết làm cho vua có tài, có đức, biết giúp
vua đưa đất nước đến chỗ thái bình thịnh trị. Mặt khác ơng quan
niệm về những đức tính của con người phải có là: nhân, trí và dũng,
coi đó là u cầu đối với mỗi con người. Đồng thời Nguyễn Trãi
cũng chỉ ra con đường để có được nhân, trí, dũng là phải học tập,
tham gia hoạt động thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiễn và
phải đấu tranh chống tham tàn bạo ngược. Theo Nguyễn Trãi
“nhân” khơng phải là lịng thương người chung chung mà là hướng
vào những người nghèo khổ; “trí” không chỉ là sự hiểu biết những
giáo điều đạo đức mà chủ yếu là nắm được kiến thức các loại cần có
cho cuộc sống của con người.
Thời nhà Lê trở về sau, việc xây dựng con người theo những
tiêu chuẩn của Nho giáo đã trở thành một hành động có chủ trương
cụ thể và có tổ chức của nhà nước. Triều đình phong kiến và cả một
đội ngũ quan lại nho sỹ đã tìm mọi cách làm cho khn mẫu về con
người của Nho giáo trở thành hiện thực trong nhân dân. Nhà vua
ban ra những quy định về lễ nghi để phổ biến Nho giáo vào tận thơn
xóm. Người nào làm trái với quy định về lễ nghi của nhà nước sẽ bị
khiển trách và chịu tội. Còn những người con hiếu đễ, những người

18


vợ goá ở vậy thờ chồng...đều được biểu dương và coi đó là những
tấm gương tốt về đạo đức.
Tiếp thu có chọn lọc và “Việt Nam hố” một số tư tưởng của
Nho giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nội dung của đạo người là
“trung chính” tức là “thiện”, là “nhân”, là cứu giúp người. Ơng giải

thích “trung” tức là đứng giữa không thiên lệch, giữ vẹn được điều
thiện...Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, hoà
giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, thấy của phi nghĩa đừng có lịng
tham, vui khi làm điều thiện, có độ lượng bao dung người khác, suy
lịng chí thành để đối đãi với mọi người đó là “trung”. Đây là nội
dung cơ bản trong quan niệm về mẫu người, về đạo làm người của
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong xã hội lúc đó.
Tư tưởng của Ngơ Thì Nhậm quan niệm đạo làm người trước
hết phải có “hạnh”, đức hạnh theo ơng gồm: ăn, ở, đối xử và nghĩa
vụ trong các mối quan hệ đó. Ơng nói: “Thờ thần minh khơng lỗi
đạo thành kính, thờ vua cha không lỗi đạo trung hiếu; ở gia đình thì
làm người lương thiện, ở làng xóm thì làm người nết na; thẳng thắn
nhưng khơng tranh giành nhau, hồ nhã để cư xử với nhau” 5. Theo
ông trung hiếu phải thể hiện thành hành động, khơng thể nói sng,
khơng thể lấy trung hiếu làm chiêu bài để thực hiện một âm mưu
khác. Trung hiếu phải thể hiện ở lòng dũng cảm, kiên cường, có khí
hạo nhiên đối với nghĩa vụ. Như vậy tư tưởng về “trung hiếu”- đạo
làm người của Ngơ Thì Nhậm khơng cịn ngun bản của Nho gốc
5

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 176

19


mà ơng đã có quan niệm mới khác về chất về đạo đức, nhân nghĩa
trong đạo làm người.
Như vậy, mẫu người lý tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến việc xây dựng những người anh hùng của dân tộc
Việt Nam. Nhưng có thể khẳng định rằng, nếu chỉ có phẩm chất như

người “qn tử” của Nho giáo thì chưa đủ để đào tạo nên những anh
hùng dân tộc. Phẩm chất đầu tiên mà người anh hùng dân tộc Việt
Nam cần có khơng chỉ là “trung qn” mà cịn là “u nước”, lấy hy
sinh vì lợi ích dân tộc làm lý tưởng cao nhất của con người.
Hai là, đạo làm vua:
“Minh Mệnh chính yếu” là tác phẩm cơ bản của hệ tư
tưởng triều Nguyễn mà nho giáo đóng vai trò nòng cốt của hệ tư
tưởng này. Trong tác phẩm, Minh Mệnh đã đánh giá về vai trò của
người làm vua, Ông viết: “Ta là vua của một nước, vẫn nghĩ sâu sắc
rằng mình là gốc của phong hố, phải làm gương cho thiên hạ”.
Không chỉ trau dồi về đạo đức, ơng cịn chủ trương phải siêng năng
với cơng việc, vì ơng hiểu rằng: “Trẫm đang độ tuổi trẻ, có sáng
suốt về tinh thần, mạnh mẽ về sức lực, lên trẫm hằng chăm lo về
triều chính. Phàm việc gì cũng khơng muốn để chậm trễ, vì trễ trước
phải siêng năng sau mới được hưởng thụ”. (Tập 2, tr 10 ).
Theo Minh Mệnh, đi liền với đức tính chuyên cần là tiết
kiệm, nhất là tiết kiệm của công cho công việc tiêu dùng cá nhân và
cho việc ban thưởng những công thần. Ơng nói: “Vua chịu mệnh
trời để trị thiên hạ, phải lo lắng siêng năng, để vạn vật được ở nơi

20


xứng đáng, chứ khơng phải thiên hạ đóng góp để cung phụng một
người”.(Tập 3. tr 108). Tư tưởng về “kiệm đức” của ơng có nghĩa
là: “kiệm” là có lợi cho việc sinh kế của dân và có mục đích rất rõ
ràng, đó là vì dân.
Ba là, mối quan hệ giữa vua quan và dân:
Trong tác phẩm “Minh Mệnh chính yếu” cũng đề cập đến hàng
loạt các tư tưởng về mối quan hệ giữa vua quan và dân. Minh Mệnh

cho rằng: sự thịnh suy của ngôi vua phụ thuộc vào mối quan hệ của
vua với dân, nếu vua yêu cái dân u thì khơng việc gì khơng thành,
nếu vua ghét cái dân ghét thì đánh đổ mọi kẻ thù và trở ngại. Trong
quan hệ với dân Minh Mệnh nói: “vua đối với dân, cũng như cha
hiền đối với con trẻ vậy, chưa lạnh đã nghĩ đến áo mặc, chưa đói đã
nhĩ đến cho ăn, hả đợi đến lúc khóc hu hu mới cho ăn hay sao” (tập
2. tr 42).
Minh Mệnh quan tâm đến mọi người dân, coi mọi người dân
đều như nhau. Sự quan tâm đến dân không chỉ bằng lời nói mà cịn
bằng những việc làm hết sức cụ thể để làm sao đảm bảo cuộc sống
cho dân. Khi nghe tin Bắc kỳ bị thiên tai lũ lụt, vua ra chỉ dụ: “...dân
đang bị đắm đuối, trẫm là cha mẹ dân, lỡ sao vui nơi yến tiệc. Bắt
đầu từ hôm nay, dâng cảm ngự thiện, phải giảm một nửa, bãi bỏ tất
cả các việc ca nhạc...” (tập 2. tr 69).
Như vậy, tư tưởng triết lý Nho giáo nói chung và vấn đề “tu
thân” nói riêng đã có ảnh hưởng rất lớn đến hệ tư tưởng của các
triều đại phong kiến Việt Nam. Ngày nay chúng ta cũng không thể

21


phủ nhận được tính tích cực trong quan niệm về đạo làm người, đạo
làm vua của Nho giáo, khuyến khích việc học hành để ngày càng
hoàn thiện bản thân và đề cao đạo lý của người làm vua là phải
quan tâm, lo lắng đến đời sống của dân. Điều đó đã góp phần bổ
sung cho tư tưởng nhân ái vốn có của dân tộc ta. Về điểm này, nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện đã nhận xét: “Phân tích xã hội, để
hiểu rõ lịch sử, xác định đường lối thì chủ nghĩa Mác hơn hẳn,
nhưng Mác trong đạo lý không được nổi bật và cụ thể như trong
Nho giáo”6

Tuy nhiên, Nho giáo vẫn còn bộc lộ những hạn chế là đã ràng
buộc con người trong những quy định bắt buộc, nó đã kìm hãm sự
phát triển cá nhân, làm cho con người trở nên lạc hậu trước sự phát
triển của xã hội.
Nho giáo đã đề cao việc tu dưỡng rèn luyên đạo đức, khuyến
khích việc học hành của từng cá nhân đặc biệt là các bậc đế vương
hiền thần, đó là một tư tưởng tiến bộ và đến nay vẫn còn ngun giá
trị. Tư tưởng đó chính là tinh hoa văn hoá nhân loại mà Đảng ta và
Bác Hồ đã kế thừa, vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ đảng
viên. Bàn về vấn đề này Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tất cả
cán bộ từ chính phủ đến các làng bản đều là cơng bộc của dân...việc
gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải
hết sức tránh. Người cán bộ, đảng viên phải luôn tự nhủ mình: phải
6

Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà nội, 1993, tr. 64.

22


xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân
dân; đó là con người vừa có đức vừa có tài, vừa hồng vừa chuyên,
trong đó đức là cái gốc của người cách mạng. Khi còn sống Chủ
Tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội
ngũ cán bộ đảng viên. Theo Người: cán bộ đảng viên phải là người
đầy tớ trung thành của nhân dân, là công bộc của dân. Bác dạy
người cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Bác nhắc
nhở Đảng ta là phải biết chăm lo cho nhân dân. Điều mà Bác thường
mong muốn là: nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng

được học hành, mọi người dân được hưởng cuộc sống ấm no hạnh
phúc. Trọn đời mình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và hành
động theo phương châm ấy.
Đối với người phụ nữ Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn
khen ngợi và đã trao tặng tám chữ vàng: anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Bác dạy rằng: trung với
Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Như vậy rất nhiều thuật ngữ, khái niệm...của Nho giáo đã được
Người kế thừa, sử dụng để diễn đạt tư tưởng của mình sau khi cải
biên, bổ sung nội dung và hình thức mới.
Ngày nay Đảng ta vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng
của Bác Hồ. Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ II khoá VIII đã xác định: Phát triển con người Việt Nam một

23


cách toàn diện, về thể chất và tinh thần, coi giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu.
Với sự phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Nho giáo
nói chung và tư tưởng “tu thân” nói riêng vẫn hàm chứa những giá
trị có lợi cho con người và xã hội ngày nay. Khẳng định vấn đề này
khi nghiên cứu về Nho giáo, GS Nguyễn Tài Thư đã viết: “...người
ta thấy được Nho giáo học vẫn hàm chứa cái gì đó có lợi cho con
người và xã hội ngày nay. Trên thực tế những truyền thống tốt đẹp
của Nho học đã được hiểu trên lập trường mới, lập trường khoa học
và cách mạng, đây là những động lực thúc đẩy xã hội và con người
Trung Quốc ngày nay tiến lên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại

hố”7.
Tuy nhiên xét về tổng thể đạo Nho hiện nay vẫn là một lực cản
trở cho sự phát triển toàn diện của đời sống xã hội. Do vậy triết học
Mác- Lênin là cơ sở tư tưởng cho đường lối chính trị của dân tộc,
cho đối nhân xử thế mà Hồ Chí Minh là người tìm ra và vận dụng
sáng tạo vào Việt Nam, cứu dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách thống
trị hàng nghìn năm phong kiến, đấu tranh giải phóng dân tộc, thu
Giang sơn về một mối, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần kế thừa tinh hoa tư tưởng nhân loại chúng ta phải
biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực hợp lý của tư tưởng
Nho giáo, đồng thời khắc phục những hạn chế, tiêu cực của nó trong
đời sống xã hội cũng như trong quân đội ta hiện nay.
7

Nghiên cứu Trung Quốc, số 4, năm 1975, tr. 50.

24


Phải có quan điểm và thái độ đúng đắn với tư tưởng Nho giáo:
quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể. Đánh giá đúng đắn
cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với xã hội. Nói về quan điểm,
phương pháp xem xét đánh giá sự vật hiện tượng, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Phải xem xét tồn diện, xem xét quá khứ, nhất là xem xét hiện
tại để hiểu biết và suy đốn về tương lai... có thế mới nhận định tình
hình, nhận xét sự việc đúng đắn”8
Chống kế thừa tràn lan vô nguyên tắc, đồng thời chống thái độ
phủ định sạch trơn hoặc thổi phồng những ảnh hưởng tiêu cực của
Nho giáo. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục viết: “Nho giáo
thuộc phạm trù truyền thống dân tộc và nó phải được đối xử như là

truyền thống của dân tộc”9.
Phát huy những giá trị hợp lý của tư tưởng Nho giáo trong điều
kiện mới. Đặc biệt là tư tưởng “tu thân” rèn luyện cho mỗi con
người...
Khắc phục có hiệu quả, từng bước xoá bỏ những ảnh hưởng
tiêu cực của tư tưởng Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên tư tưởng Nho giáo nó đã in đậm dấu ấn trong
đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân nói chung và trong các
tập thể qn nhân nói riêng, do vậy việc xố bỏ những ảnh hưởng
tiêu cực đó địi hỏi phải có thời gian, khơng nóng vội chủ quan đốt
cháy giai đoạn, vì vậy phải căn cứ vào tình hình cụ thể, những quan
8

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr 264.
Nguyễn Đăng Thục, “ Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Tập 4, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993, tr
29.
9

25


×