Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.7 KB, 82 trang )

Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển công nghiệp gắn với đô thị trong lịch sử nớc ta nói
chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn diễn biến phức tạp, đô thị Việt
Nam mang một đặc điểm chung là sự đan xen giữa nông thôn, thành thị trên
nhiều phơng diện không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân c, tôn giáo, văn hoá
cũng nh các hoạt động kinh tế,
Nớc ta là một nớc nông nghiệp, các thành phố, thị tứ đợc hình thành trớc
hết từ nhu cầu chính trị, xã hội hơn là nhu cầu kinh tế. Trong lịch sử có Phố
Hiến và Hội An là hai đô thị đợc hình thành hầu nh trớc hết từ yêu cầu kinh tế,
nhng rồi lại không phát triển đợc do thiếu các điều kiện liên tục thúc đẩy từ
kinh tế cho chúng hoạt động. Do sự phát triển chậm và yếu kém về công
nghiệp, thơng nghiệp nên c dân đô thị chủ yếu là các công chức, hởng lơng
Nhà nớc, hoạt động quản lý, hoạt động văn hoá, giáo dục.
Những năm gần đây các khu công nghiệp theo mô hình các khu công
nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế mở ra đời trong công cuộc đổi
mới. Tác động tích cực, hiển nhiên của việc phát triển các khu công nghiệp đã
góp phần làm tăng nguồn vốn đầu t xã hội. Mặt khác quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đang thúc đẩy làn sóng đô thị hoá ngày càng lan rộng. Việc
nghiên cứu giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa phát triển công nghiệp với
hình thành đô thị mới là hết sức cần thiết, từ đó có phơng hớng, giải pháp tốt
hơn cho nền kinh tế.
Đối với tỉnh Quảng Nam, sau gần 10 năm kể từ ngày tái lập tỉnh (tháng
1/1997) đến nay, đặc biệt kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày
30/4/2003 của Tỉnh uỷ về phát triển Quảng Nam về cơ bản thành tỉnh công
nghiệp trớc năm 2020, ngành công nghiệp của tỉnh đã đạt đợc những kết quả
ban đầu quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
theo hớng công nghiệp hoá. Trên địa bàn của tỉnh đã xuất hiện một số khu,
cụm công nghiệp, tuy nhiên việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển
công nghiệp với hình thành đô thị mới thì cha đợc đầu t nghiên cứu một cách
có hệ thống, khoa học đầy đủ. Vì thế đề tài Mối quan hệ giữa phát triển


công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam đợc chọn làm đối t-
ợng nghiên cứu của luận văn thạc sĩ.
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua học tập và nghiên cứu bản thân học viên nhận thấy đã có một số
luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về phát triển công nghiệp và đô thị, nh:
- TS. Phạm Kim Giao (1996), Quy hoạch đô thị theo hớng môi trờng sinh
thái, Đại học Kiến trúc Hà Nội.
- GS.TS Trần Ngọc Hiên và PGS.TS Trần Văn Chử (đồng chủ biên)
(1996), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa,
hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Cao Đức (2003), "Quá trình đô thị hóa các đô thị lớn ở Việt
nam, giai đoạn 1990-2000; Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, (299)
Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những
vấn đề có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới công nghiệp và đô thị mới. Nh-
ng cha có công trinh nào nghiên cứu vấn đề mối quan hệ giữa phát triển công
nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam dới góc độ kinh tế chính trị.
Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình và
bài viết đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Hệ thống cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với
hình thành đô thị mới, đánh giá thực trạng mối quan hệ này trong quá trình đổi
mới, từ đó đề ra giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát triển
công nghiệp với hình thành đô thị mới một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình
thành đô thị mới ở nớc ta.
- Nghiên cứu thực trạng việc giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát

triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam.
- Bớc đầu đề xuất một số phơng hớng, giải pháp để góp phần giải quyết
tốt mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị
mới ở Quảng Nam.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa quá trình phát
triển công nghiệp với hình thành đô thị mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2
4.2.

Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, kể từ khi tái lập
tỉnh (năm 1997) đến nay.
5. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát triển công
nghiệp với hình thành đô thị mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó góp
phần hoạch định các cơ chế chính sách để gắn kết giữa phát triển công nghiệp
với hình thành đô thị mới, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
6. Phơng pháp nghiên cứu
Sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt phơng
pháp trừu tợng hoá khoa học gắn với sử dụng phơng pháp logic kết hợp phơng
pháp lịch sử; đồng thời kết hợp với các phơng pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong đề tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chơng, 6 tiết.
3
Chơng 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ
giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới
1.1. Lý luận chung về phát triển công nghiệp với hình

thành đô thị mới
1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Lịch sử của mọi quốc gia đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn cần phải công nghiệp hóa nền kinh tế nh một bớc đi tất yếu mà mỗi
dân tộc sớm muộn đều phải trải qua. Đây là quá trình phát triển lực lợng sản
xuất của xã hội. Xét từ quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất, thì lực lợng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, giữ
vị trí quyết định nhất đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội. Nhìn lại các quá
trình tiến hành công nghiệp của các nớc, chúng ta thấy rõ tính đúng đắn luận
điểm sau đây của Các Mác: Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở
chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với
những t liệu lao động nào. Các t liệu lao động không những là thớc đo sự phát
triển sức lao động của con ngời, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã
hội trong đó lao động đợc tiến hành.
Xuất phát từ luận điểm trên đây, chúng ta có thể quan niệm về công
nghiệp trong điều kiện hiện nay nh sau: Công nghiệp hoá là con đờng tất yếu
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật thúc
đẩy tăng trởng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng
XHCN ở những nớc đi lên xây dựng CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay với những đặc trng của cuộc cách
mạng KH-CN hiện đại, với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ, công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá. Mặt
khác, không nên chỉ hiểu công nghiệp hoá theo nghĩa hẹp chỉ là quá trình hình
thành cách thức sản xuất dựa trên kỹ thuật và công nghệ hiện đại riêng trong
lĩnh vực tiểu công nghiệp và công nghiệp - mà nên hiểu theo nghĩa rộng, theo
nghĩa quá trình đó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế
quốc dân.
Trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định nội dung
của quá trình CNH, HĐH. Quả vậy, nếu nội dung của cuộc cách mạng công

4
nghiệp lần thứ nhất là thay thế hệ thống kỹ thuật vốn chủ yếu dựa vào lao
động thủ công và sức kéo của động vật bằng hệ thống kỹ thuật mới với nguồn
động lực là máy hơi nớc, thì trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai hệ
thống kỹ thuật dựa vào động cơ hơi nớc đã đợc thay thế bằng các hệ thống
động lực mới dựa trên cơ sở động cơ đốt trong, điện năng, với nguồn năng l-
ợng chính là dầu mỏ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đợc đánh dấu
bằng việc áp dụng hệ thống tự động hoá. Sức mạnh của khoa học, công nghệ
khi nó trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, đã thực sự góp phần tăng cờng sức
mạnh vật chất của con ngời bằng trí tuệ tác động vào tự nhiên đem lại lợi ích
cho chính mình.
Trong thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng KH - CN hiện đại
với nội dung áp dụng kỹ thuật vi điện tử đã làm cho nền sản xuất chủ yếu dựa
trên cơ sở điện khí hoá chuyển sang sản xuất dựa trên cơ sở cơ-điện tử. Trong
giai đoạn này, nhiều ngành công nghệ cao nh: công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá dựa vào kỹ thuật vi
điện tử đã lần lợt ra đời. Trong đó đặc biệt là công nghệ thông tin, nh một
nguồn năng lợng mới đợc áp dụng rộng rãi trong sản xuất, lu thông, quản lý
sản xuất kinh doanh và xã hội, làm cho hàm lợng trí tuệ của giá trị sản phẩm
ngày càng cao. Sự phát triển của cách mạng KH - CN hiện đại đang chuyển
dần nền kinh tế sang nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, những nớc đi sau
trong quá trình công nghiệp hoá bên cạnh việc tiến hành cơ khí hoá sản xuất
cần đồng thời phát triển có trọng điểm một số những công nghệ hiện đại phù
hợp với truyền thống và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và kinh tế xã hội của mỗi
nớc. Có nh vậy mới rút ngắn đợc khoảng cách về sự phát triển so với các nớc
công nghiệp hoá nhằm tránh khả năng tụt hậu ngày càng xa về kinh tế.
Kinh nhiệm công nghiệp hoá ở nhiều nớc cho thấy cái cốt lõi của công
nghiệp hoá trong thời đại ngày nay là sự đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật (còn
gọi là phần cứng: máy móc, thiết bị, ) và công nghệ (còn gọi là phần mềm:
phơng pháp, quy tắc, quy trình, phơng thức, ), chuyển từ kỹ thuật công nghệ

lạc hậu, năng suất và kỹ thuật thấp lên trình độ công nghệ và kỹ thuật tiên tiến
có năng suất và hiệu quả KT - XH cao trong tất cả lĩnh vực và các ngành của
nền kinh tế quốc dân. Theo t duy nói trên về công nghiệp hoá có thể rút ra nội
dung chủ yếu của công nghiệp hoá trong thời đại ngày nay ở các nớc nói
chung và nớc ta nói riêng là trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại và theo đó xây
dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc
5
dân. Đây là cơ sở để đa ra khái niệm CNH, HĐH một cách đầy đủ. Tuy nhiên
về khái niệm CNH, HĐH trong điều kiện ngày nay vẫn còn nhiều điểm khác
biệt giữa các nhà khoa học. Chúng tôi nhất trí với quan điểm: CNH, HĐH là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến,
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KH - CN tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
1.1.2. Khái niệm về đô thị hóa
Trong tác phẩm "Hệ t tởng Đức", Các Mác và F.Ăngghen cho rằng: Đô
thị là sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc gây ra trớc hết là sự
tách rời giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp và do đó là sự
tách rời giữa thành thị và nông thôn và bị đối lập giữa lợi ích của thành thị và
nông thôn.
Năm 1858, Các Mác nêu lên: Lịch sử cận đại là quá trình các quan hệ
thành thị thâm nhập vào nông thôn, trong khi đó trong thế giới cổ đại lại có
tình hình ngợc lại, đó là những quan hệ nông thôn xâm nhập vào thành phố.
Mác nêu đô thị cổ đại nông thôn hóa chủ yếu nói về tình hình tan rã của chế
độ nô lệ, mâu thuẫn chế độ nô lệ ngày càng sâu sắc, tinh thần tích cực và năng
suất lao động nô lệ không ngừng giảm thấp, đồng thời chiến tranh xảy ra liên
miên giữa các thành, bang và dị tộc xâm nhập. Trong mấy thế kỷ đầu công
nguyên, cả thế giới cổ đại ven bờ Địa Trung Hải bắt đầu sự chuyển biến lớn
lần thứ nhất trong lịch sử loài ngời - sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ.

Trên đống gạch của chế độ t hữu, chủ nô lệ cổ đại xây dựng chế độ kinh tế và
xã hội mới về cơ bản đã không còn dựa vào đô thị hoá nữa mà dựa vào nông
thôn, dựa vào kinh tế tiểu nông tự do. Đây là sự xác lập chế độ phong kiến. Sự
phát triển của đô thị xã hội phong kiến rất chậm, và nông thôn có thể thống
trị thành thị (về kinh tế). Công nghiệp đem áp dụng những nguyên tắc tổ
chức nông nghiệp vào thành thị và vào các mối quan hệ của thành thị. Nh vậy
có thể khẳng định quá trình lịch sử của CNTB nảy mầm và sau cuộc cách mạng
công nghiệp, đô thị các nớc t bản thế giới phát triển nhanh. Cũng có thể nói, đô
thị là ngời bạn đồng hành của công nghiệp hoá, đây là sự xác định khoa học đối
với quan niệm đô thị hoá.
6
Theo V.I. Lênin: Thành thị là nơi tập trung của đời sống kinh tế, chính trị
và tinh thần của nhân dân và là một động lực chủ yếu của sự tiến bộ.
Theo quan điểm của các nhà xã hội học khi nghiên cứu về đô thị, một đô
thị đều đợc cấu thành từ hai nhóm thành phần chủ yếu là:
- Các thành tố không gian, vật chất, đó chính là môi trờng không gian
hình thể do con ngời tạo ra bao gồm không gian kiến trúc, quy hoạch, cảnh
quan đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và điều kiện khí hậu, sinh thái tự nhiên.
- Các thành tố tổ chức xã hội, đó chính là cộng đồng dân c sinh sống trên
lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế, luật lệ hiện hành tại đó. Và trên thực
tế thì hai thành tố này không thể tách rời nhau và đợc hiểu trong mối quan hệ
một bên là môi trờng sinh sống, điều kiện sống đô thị với một bên là những
ngời hoạt động trong đó.
Các bộ môn nghiên cứu về đô thị đều xoay quanh mục tiêu nghiên cứu và
đảm bảo cho sự vận hành, phát triển của các đô thị, đảm bảo sự liên kết tối u
giữa hai thành tố cấu thành đô thị nói trên.
Từ những quan niệm nói trên, chúng tôi cho rằng: Đô thị là điểm dân c
tập trung, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của một vùng lãnh
thổ, có cơ sở hạ tầng đô thị thích hợp (ở đây cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm thứ
nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật gồm: Hệ thống đờng giao thông, thông tin liên

lạc, chất đốt, nhiệt sởi ấm, hệ thống chiếu sáng công cộng, hệ thống cấp nớc,
hệ thống thoát nớc, hệ thống thu gom, quản lý, xử lý chất thải, đảm bảo vệ
sinh môi trờng; thứ hai cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm: Nhà ở, các công trình
phục vụ nh y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao, thơng nghiệp, dịch vụ
công cộng, cây xanh, công viên, mặt nớc) và dân c nội thị không dới 4.000 ng-
ời với tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trên 60%. "Đô thị bao gồm: thành phố,
thị xã, thị trấn.
Yếu tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành và phát triển đô thị, là nơi tập
trung giao lu các bộ phận của sản xuất, đầu mối giao thông, đầu mối buôn
bán, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các loại dịch vụ đô thị, dịch
vụ sản xuất
Trong quá trình phát triển, nếu đô thị mất dần vai trò trung tâm vùng,
lãnh thổ thì quá trình đô thị hóa sẽ ngừng trệ. Đô thị không chỉ là nơi tiêu biểu
cho sự phát triển, thịnh vợng và văn minh của mỗi quốc gia mà còn là những
nơi truyền bá văn minh, là đầu tàu thúc đẩy các vùng xung quanh, phụ cận
7
phát triển. Đô thị có tính tập trung rất cao; đô thị thờng là nơi tập trung các cơ
quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, là nơi tập trung dân c sinh sống, làm việc
với mật độ cao, là nơi tập trung các đầu mối giao thông, tập trung hàng hóa,
tập trung thông tin, đầu mối giao lu. Đô thị là nơi thể hiện tập trung nhất
những công việc, sự kiện, hiện tợng điển hình của xã hội, tập trung các mặt
tích cực, tiên tiến và có những tiêu cực của xã hội.
Đô thị có tính đồng bộ và thống nhất; mọi chức năng của thành phố, thị
xã là một khối thống nhất. Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể
có các chức năng khác nhau, nhìn chung có 4 chức năng cơ bản sau đây:
- Thứ nhất là chức năng kinh tế: Đó là chức năng chủ yếu của đô thị
trong phát triển kinh tế, chức năng kinh tế đợc thể hiện trong nền kinh tế thị
trờng. Yêu cầu của kinh tế thị trờng đã tập trung các loại hình doanh nghiệp
vào các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khu chế xuất và các khu công
nghiệp cao, cùng với cơ sở hạ tầng tơng ứng thích hợp, tạo ra thị trờng ngày

càng mở rộng và đa dạng hóa. Việc tập trung sản xuất trong các khu này đã
kéo theo sự tập trung dân c mà trớc hết là lực lợng lao động sản xuất và gia
đình họ, đồng thời kèm theo các loại hình dịch vụ cho lao động, sản xuất, vận
tải và cung ứng hàng hóa cho nhu cầu của ngời lao động và gia đình của họ,
tạo ra bộ phận chủ yếu của dân c đô thị. Do việc tập trung sản xuất và tập
trung dân c lại đặt ra cho vấn đề phát triển đô thị với đồng bộ kết cấu hạ tầng
kỹ thuật và hạ tầng xã hội nh là một yêu cầu, đòi hỏi lớn về kinh tế, xã hội.
- Thứ hai là chức năng xã hội, cùng với sự gia tăng quy mô về dân c đô
thị thì chức năng xã hội của đô thị ngày càng có phạm vi lớn dần, tăng dần.
Những nhu cầu thiết yếu của c dân đô thị về nhà ở, y tế, chăm sóc sức khỏe,
giáo dục đào tạo, thông tin liên lạc, giao thông đô thị, là những vấn đề gắn
liền với yêu cầu về kinh tế, với kinh tế thị trờng. Nói chung ở các đô thị chức
năng xã hội ngày càng nặng nề, đặt ra nhiều vấn đề của xã hội không chỉ là
tăng dân số đô thị mà còn là vì chính những nhu cầu của họ về cơ sở hạ tầng
đô thị: Nhà ở, câu lạc bộ, y tế, các cơ sở dịch vụ đô thị, giao thông đô thị, đi
lại cũng có sự thay đổi.
- Thứ ba là chức năng văn hóa: Chức năng văn hóa ngày càng phát triển
cao vào thời kỳ nền kinh tế hng thịnh, mức sống dân c đợc nâng cao, nhu cầu
về văn hóa, giáo dục, vui chơi giải trí ngày một đòi hỏi cao hơn; thời gian
dành cho việc hởng thụ văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi, chăm sóc
8
sức khỏe, của từng ngời dân đợc tăng lên, rất cần thiết để tái tạo sản xuất sức
lao động. Vì vậy, ở đô thị cần có hệ thống trờng học, các công trình, cơ sở văn
hóa, thể dục thể thao, du lịch, các viện bảo tàng, cửa hàng sách, báo, các trung
tâm nghiên cứu khoa học với vai trò ngày càng lớn hơn, phong phú, đa dạng hơn,
cấp bách hơn. Đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn minh công nghiệp
lên nền văn minh hậu công nghiệp hiện nay, chức năng văn hóa càng có vị trí rất
quan trọng đối với sự phát triển bền vững mà trong đó nó cần đến nguồn nhân lực
có chất lợng cao hơn để đáp ứng, kể cả trong lĩnh vực xã hội và chính trị cũng đòi
hỏi trình độ chính trị cao hơn. Chính vì lẽ đó, vai trò của văn hóa, khoa học, giáo

dục sẽ đợc phát huy từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của bất kỳ quá trình vận
động nào trong một thế giới phát triển bền vững.
- Thứ t là chức năng quản lý: Sự phát triển của đô thị một mặt đợc điều
chỉnh bởi các nhu cầu, trong đó nhu cầu kinh tế là chủ yếu tác động qua cơ
chế thị trờng; mặt khác chịu sự điều chỉnh do hoạt động quản lý của chính
quyền và hoạt động của các đoàn thể quần chúng xã hội.
Tác động của hoạt động quản lý là nhằm huy động, hớng nguồn lực vào
các mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, môi trờng sinh thái, quy hoạch
xây dựng và cảnh quan kiến trúc, cảnh quan đô thị, giữ gìn bảo vệ và phát huy
bản sắc dân tộc, vừa tăng cờng nâng cao khả năng đáp ứng các nhu cầu công
cộng, cộng đồng, nhóm ngời, vừa quan tâm đến nhu cầu chính đáng của bản
thân cá nhân mỗi một con ngời trong xã hội.
Quản lý đô thị là một khoa học tổng hợp đợc xây dựng trên cơ sở của
nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống chính sách, cơ chế, biện
pháp và phơng tiện đợc chính quyền nhà nớc các cấp sử dụng để tạo điều kiện
quản lý và kiểm soát quá trình tăng cờng đô thị. Theo một định nghĩa rộng thì
chức năng quản lý đô thị là quản lý con ngời và không gian sống, làm việc,
sản xuất ở đô thị.
Để có hiệu quả trong quản lý đô thị hiện nay, phù hợp với nền kinh tế thị
trờng định hớng XHCN thì hệ thống quy phạm pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ
để chính quyền các cấp thực hiện đúng chức năng của mình.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa phát triển công
nghiệp hình thành đô thị mới
Quá trình phát triển công nghiệp, với sự ra đời các khu công nghiệp sẽ tất
yếu kéo theo nhu cầu phục vụ lao động cho sản xuất công nghiệp và lao động
9
làm dịch vụ công nghiệp, tạo nên hình thức di c cơ học tự nguyện kết hợp với
dân c địa phơng đã chuyển đổi nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp sang làm
công nghiệp và dịch vụ, tất yếu sẽ hình thành một khu dân c đô thị mới. Cùng
với sự phát triển kinh tế hàng hoá là sự xuất hiện các trung tâm giao lu hàng

hoá. Đô thị hình thành từ quá trình này, tất yếu của sự phát triển. Đô thị ngày
càng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ công nghiệp hoá. Thời kỳ công nghiệp
hoá là thời kỳ có 4 tiến trình song song:
- Trớc hết là quá trình nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động
công nghiệp cao hơn rất nhiều so với lao động thủ công.
- Thứ hai là tiến trình tái định c trên quy mô quốc gia. Đó là quá trình
chuyển từ 80% dân c sinh sống ở đô thị, cha kể một số lợng lớn dân c di
chuyển cùng với sự phát triển nông, lâm, ng nghiệp.
- Thứ ba là tiến trình tái bố trí sử dụng đất đai, không những chỉ là tiến
trình phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn, các khu dân c mới, mà còn
tiến trình hiện đại hoá nền sản xuất nông - lâm - ng nghiệp.
- Thứ t là tiến trình cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nh vậy, cả bốn tiến trình công nghiệp hoá đều gắn với sự hình thành các
khu đô thị mới trong quá trình đô thị hoá.
Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lợng sản xuất, bố trí
dân c, những vùng không phải là đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô
thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thơng mại và dịch vụ, thu hút nhiều
nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỷ trọng dân c ở các
đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm gia tăng sự phát triển của giao thông
với các vùng nông nghiệp, lâm nghiệp, xung quanh các đô thị khác (ngày nay
xung quanh các đô thị lớn là các đô thị vệ tinh hoặc gọi là chùm đô thị), thúc
đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và sự phân công lao động theo lãnh thổ,
tăng cờng đội ngũ công nhân, tiểu thủ công, thơng nhân, kỹ thuật, viên chức,
Việc đô thị hóa có ý nghĩa trực tiếp nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa tinh thần của nông dân và các tầng lớp nhân dân ở khu vực đợc đô thị hóa
và khu vực lân cận, thúc đẩy sản xuất theo chuyên môn hóa, chuyên canh với
khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến và tiến đến hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn, ngăn chặn việc di dân tự do, tự phát, không có kế hoạch của nông
dân vào các đô thị lớn.
10

Cùng với đô thị hóa, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cấp điện, cấp nớc,
truyền hình, thông tin liên lạc phát triển, cơ cấu xã hội theo đó cùng phát triển.
Đô thị hóa làm tăng nhanh số lợng các đô thị, chùm đô thị; sự phát triển
đô thị tạo ra những điều kiện tiên quyết cho tăng trởng, phát triển kinh tế theo
hớng hiện đại hóa, công nghiệp hóa nh: tập trung dân c, tập trung nguồn lực
con ngời, khoa học, văn hóa, thông tin, xây dựng kết cấu hạ tầng, nhu cầu tiêu
thụ và nâng cao ý thức chính trị của dân c; tạo lập và phát triển các thị trờng
tài chính, kinh doanh bất động sản, thị trờng khoa học-công nghệ, theo hớng
đồng bộ, công khai, minh bạch.
Theo số liệu của Liên hiệp quốc, quá trình phát triển đô thị đã đạt đợc
nh: nâng mức tuổi thọ trung bình, giảm tỷ lệ tỷ vong của trẻ em, giảm tỷ lệ
suy dinh dỡng, tăng tỷ lệ dân c dùng nớc sạch, phát triển giáo dục, văn hóa,
tăng số ngời có mức sống cao với tỷ lệ trên 60% dân c. Tuy nhiên, do sự chênh
lệch về đời sống thúc đẩy việc di chuyển dân c từ nông thôn ra thành thị một
cách ồ ạt, không kiểm soát đợc, làm mất cân đối trong sự phát triển dân c với
các điều kiện phục vụ sự phát triển không tơng xứng giữa đô thị và quy mô
giáo dục , và xuất hiện nhiều vấn đề xã hội, trật tự an toàn xã hội, an ninh
chính trị, văn minh đô thị, Đô thị hóa còn kèm theo sự cách biệt giữa con
ngời với thiên nhiên (con ngời san, lấp hồ ao, sông mơng, chặt cây cối, phá
rừng, bê tông hóa sông mơng, ), sự tàn phá môi trờng sinh thái và ô nhiễm
môi trờng, khủng hoảng xã hội, tan rã gia đình ở đô thị, trẻ em bụi đời, lang
thang tăng lên; vấn đề nhà ở, chất thải, rác thải, giao thông đô thị đang trở
thành vấn đề nóng bỏng, bức xúc hàng ngày ở các đô thị. Môi trờng sinh thái
bị ô nhiễm, bị tàn phá, thiên tai, dịch bệnh đang là những vấn đề lớn của quốc
gia và toàn cầu.
Đô thị hóa luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa vì sự phát triển
kinh tế, xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động mạnh đến phát
triển đô thị, phát triển đô thị lại tác động để phát triển nhanh các ngành công
nghiệp, có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trờng trong n-
ớc và đẩy mạnh xuất khẩu. Các khu đô thị phát triển sẽ phát huy vai trò của

các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa trên từng vùng và địa phơng, đi
nhanh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển công nghiệp
và dịch vụ, đi đầu trong phát triển kinh tế tri thức.
Đô thị hóa tác động đến sự gia tăng quy mô hội tụ nguồn nhân lực cho
CNH, HĐH. Song đồng hành với sự gia tăng mức độ tập trung dân số đô thị là
11
sự gia tăng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lao động trẻ (số lợng nhiều, chất
lợng cao). Chính lực lợng lao động trẻ có tay nghề và kỹ thuật đã và đang là
một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế đô
thị. Ngoài ra, trong quá trình đô thị hóa còn phải kể đến sự đóng góp của lực l-
ợng các cử nhân, kỹ s, các nhà khoa học, các chuyên gia vào công cuộc CNH,
HĐH đất nớc.
Đô thị hóa cũng tác động mạnh đến thu hút đầu t phát triển kinh tế và cải
tạo kết cấu hạ tầng đô thị. Chính sự gia tăng lớn về quy mô hội tụ dân số trong
quá trình đô thị hóa đã làm gia tăng mạnh nhu cầu về những khoản đầu t mới
cho kết cấu hạ tầng đô thị và cải tạo kết cấu hạ tầng đô thị. Nhờ có sự cải thiện
đáng kể kết cấu hạ tầng đô thị và cải thiện môi trờng đầu t, cũng nh việc phát
huy lợi thế so sánh về vị trí địa lý, giao thông, Việt Nam nói chung, tỉnh
Quảng Nam nói riêng đã trở thành một trong số những địa bàn thu hút vốn
đầu t hấp dẫn đối với các nhà đầu t, nhất là các nhà đầu t nớc ngoài. Thu hút
vốn đầu t và cải tạo kết cấu hạ tầng đô thị sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ CNH,
HĐH.
Đô thị hóa còn tác động đến việc nâng cao trình độ KHKT và công nghệ
thông qua việc tiếp nhận sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ và kỹ năng quản
lý, tổ chức sản xuất hiện đại vào các đô thị lớn. Ngoài việc tiếp nhận chuyển
giao kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý của nớc ngoài, các doanh nghiệp
trong nớc, các đô thị lớn đã chủ động tích cực tham gia vào quá trình cải tiến,
nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và quản lý của mình dới nhiều hình
thức nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lợng sản phẩm và hạ giá
thành, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị

trờng trong nớc, khu vực và thế giới.
1.1.4. Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển công nghiệp
với hình thành đô thị mới
Về khái niệm đô thị mới, theo quy định tại Nghị định số 02/2006/NĐ-CP
ngày 05/01/2006 của Chính phủ về việc ban hành quy chế khu đô thị mới thì
dự án khu đô thị mới là dự án đầu t xây dựng một khu đô thị đồng bộ, có hệ
thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu dân c và các công
trình dịch vụ khác, đợc phát triển nối tiếp đô thị hiện có hoặc hình thành khu
đô thị tách biệt, có ranh giới và chức năng đợc xác định phù hợp với quy
hoạch xây dựng đô thị đã đợc cơ quan nhà nớc có thẩm quyền phê duyệt.
12
Khu đô thị mới có quy mô diện tích từ 50 ha trở lên. Trờng hợp đất để
dành cho dự án nằm trong quy hoạch đất đô thị nhng bị hạn chế bởi các dự án
khác hoặc bởi khu đô thị đang tồn tại thì cho phép lập dự án khu đô thị mới có
quy mô dới 50 ha nhng không đợc nhỏ hơn 20ha.
Khu vực quy hoạch đô thị mới thờng đợc chọn ở những nơi có điều kiện
thuận lợi về nguồn nhân công, về giao thông nh gần cảng, sân bay và các trục
giao thông quan trọng. Địa điểm mới cũng là nơi có quỹ đất và có khả năng
cung cấp điện, nớc đầy đủ.
- Khu đô thị mới là khu xây dựng mới tập trung theo dự án đầu t phát
triển hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, đồng bộ và phát triển của toàn khu đợc gắn
với một đô thị hiện có hoặc với một đô thị mới đang hình thành, có ranh giới
và chức năng đợc xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đợc cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền phê duyệt.
Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp trong đó bao gồm t vấn lựa
chọn vị trí xây dựng khu công nghiệp, quy mô khu công nghiệp, đặc điểm cơ
cấu loại hình ngành nghề sản xuất đến nhu cầu thu hút lao động phục vụ cho
sản xuất công nghiệp, đều là những nhân tố tác động làm nảy sinh những
mâu thuẫn trong quá trình hình thành đô thị mới.
Khu công nghiệp nằm xen kẽ với khu dân c, tuỳ theo tình hình cụ thể có

thể sử dụng phần lớn quỹ nhà ở các khu dân c đô thị này cho nhu cầu nhà ở
của công nhân, tất cả các dịch vụ phục vụ cho đời sống hàng ngày đều dùng
chung với khu dân c. Trờng hợp khu công nghiệp nằm cạnh các khu dân c, lúc
này khu công nghiệp có thể sử dụng một phần quỹ nhà ở và công trình dịch vụ
công cộng của khu dân c đô thị. Thế nhng, sẽ nảy sinh mâu thuẫn về ô nhiễm
môi trờng của các nhà máy đối với khu dân c. Trờng hợp khu công nghiệp
nằm ở ven thành phố, thị xã, khu công nghiệp chỉ sử dụng một phần nhỏ khu ở
dân c đô thị và các công trình phục vụ công cộng. Cho nên nhu cầu đòi hỏi
phải xây dựng khu ở cho công nhân và một số loại hình phục vụ công cộng
gắn liền với khu công nghiệp, tạo điều kiện cho ngời lao động có nhà ở và đi
lại tới nơi làm việc đợc thuận lợi. Khi khu công nghiệp nằm tách bạch với
thành phố, thị xã do yêu cầu thúc đẩy phát triển công nghiệp theo vùng, yêu
cầu tổ chức hoạt động hoặc do yêu cầu vận chuyển hàng hoá, lúc này khu
công nghiệp phát triển đòi hỏi hệ thống hạ tầng xã hội phát triển theo, hình
thành nên các khu ở cho công nhân; khu ở phát triển kéo theo dịch vụ phục
vụ đời sống văn hoá tinh thần của con ngời cũng nh các dịch khác, từ đó làm
tiền đề phát triển thành một đô thị mới hoàn chỉnh.
13
Quy mô khu công nghiệp ảnh hởng trực tiếp đến quy mô dân số khu dân
c thông qua nhu cầu thu hút lực lợng lao động do khả năng tạo việc làm nhờ
vào quy mô diện tích đất đai, số lợng xí nghiệp công nghiệp, vốn đầu t vào
khu công nghiệp. Lực lợng lao động tập trung đông và làm việc ổn định tại
khu công nghiệp sẽ làm tăng quỹ nhà ở công nhân.
Đặc điểm của loại hình sản xuất công nghiệp cũng ảnh hởng tới khu ở công
nhân do tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất mà quy mô lao động khác nhau, ngành
sản xuất cần nhiều lao động hơn sẽ dẫn đến nhu cầu về nhà ở sẽ lớn hơn.
Các nghiên cứu, thống kê gần đây cho thấy, thực tế phát triển các công
trình văn hoá, xã hội, một số thiết chế văn hoá cũng nh các công trình xã hội
khác ở các KCN, KCX cha tơng xứng với quy mô, tốc độ phát triển các cơ sở
sản xuất, các công trình hạ tầng kinh tế-kỹ thuật. ở nhiều KCN tập trung, lợng

lợng công nhân tại địa bàn và các tỉnh lân cận tập trung về rất lớn do yêu cầu
tuyển dụng ngành nghề. Từ đó hình thành một cách tự phát những hộ công nhân
mới trong và ngoài các KCN, KCX. Cuộc sống của những c dân công nghiệp
này diễn ra với tất cả những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: đi lại, ăn, ở, sinh
hoạt vật chất, văn hoá, hôn nhân gia đình. Những nhu cầu thiết yếu đó trên thực
tế đã không đợc đáp ứng một cách đồng bộ, thậm chí ở mức tối thiểu, ngay từ
khâu quy hoạch xây dựng và phát triển KCN ở mỗi địa phơng.
1.2. Sự cần thiết giải quyết hài hoà giữa phát triển công
nghiệp với hình thành đô thị mới
1.2.1. Phát triển công nghiệp gắn với sự hình thành đô thị mới và
những mâu thuẫn nảy sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng thành 2 đơn vị hành chính
trực thuộc Trung ơng (tháng 1/ 1997), tỉnh Quảng Nam có xuất phát điểm về
kinh tế rất thấp, hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp tập trung ở thành phố
Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng có giá trị sản xuất công nghiệp - GCĐ 1994 là
16.500 tỷ đồng; tỉnh Quảng Nam chỉ có 516 tỷ đồng). Trớc thực trạng này,
Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh xác định phơng hớng nhiệm vụ phát triển kinh
tế của tỉnh giai đoạn 1997 - 2005, tập trung mọi nguồn lực để phát triển công
nghiệp. Với các cơ chế, chính sách thu hút đầu t thoáng mở của tỉnh đã thúc
đẩy nhanh sự ra đời 5 khu công nghiệp tập trung và 18 cụm công nghiệp. Khu
kinh tế mở Chu Lai (Khu kinh tế mở đầu tiên của cả nớc-Bộ Chính trị cho
phép làm thí điểm về cơ chế mở, vợt trội) đã có 44 dự án hoạt động và nhiều
14
dự án đăng ký đầu t; Khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc đã có 27 dự án
hoạt động trong tổng số 53 dự án đợc cấp phép. Toàn tỉnh có trên 12.000 cơ sở
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các huyện, thị xã. Đã khởi công
xây dựng thuỷ điện A Vơng (công suất 210 MW), Sông Kôn (60 MW), Khe
Diên (15 MW), An Điềm II (9 MW), Sông Tranh II (197 MW). Sự phát
triển nhanh các khu, cụm công nghiệp góp phần tích cực vào việc tăng tr -
ởng GDP bình quân đạt 10,4%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình

quân 26,5% (đến năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.256 tỷ
đồng). Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên 34%, dịch vụ tăng lên
35% [20].
Sự phát triển nhanh của các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã
hình thành các khu đô thị tại Khu đô thị mới Điện Nam-Điện Ngọc (đã quy
hoạch và đang triển khai xây dựng, quy mô 2.700 ha), các khu đô thị trong
Khu kinh tế mở Chu Lai (Khu đô thị mới Tam Hoà, Tam Phú, quy mô 1.800
ha). Nâng cấp thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ lên thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã Hội
An lên đô thị loại 3, các thị trấn Vĩnh Điện, Núi Thành, Khâm Đức, Trà My.
Hình thành các khu tái định c tập trung Tam Hiệp, Tam Quang (huyện Núi
Thành), khu tái định c An Mỹ, An Sơn (thị xã Tam Kỳ) và các khu tái định c
hình thành bên cạnh các cụm công nghiệp. ở miền núi hình thành khu tái định
c của dự án nhà máy thuỷ điện A Vơng, Sông Kôn, Sông Tranh II.
Những mâu thuẫn nảy sinh, đó là việc giải quyết tái định c cho các hộ
giải toả trắng của các dự án công nghiệp rất thấp, toàn tỉnh đạt tỷ lệ 50,16%
(số liệu cuối năm 2005), quỹ đất ở dành cho bố trí tái định c thiếu và chậm đ-
ợc bổ sung. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của các khu tái định c tập
trung thiếu, không đồng bộ. Quy trình giải quyết, bố trí tái định c cho các hộ
thuộc diện giải toả trắng không đợc thực hiện một cách nhất quán, công khai,
minh bạch. Cha có kế hoạch cụ thể để đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho
lao động nông nghiệp mất đất sản xuất; các biện pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề,
giải quyết việc làm nhằm ổn định cuộc sống của bộ phận dân c sau giải toả
còn nhiều bất cập. Do việc phát triển nóng của các ngành công nghiệp (tốc độ
tăng trởng bình quân 26,5%/năm, cả nớc 15,5%/năm), cho nên dẫn đến tình
trạng ô nhiễm môi trờng ở các khu, cụm, điểm công nghiệp, làng nghề. Thực
tế cho thấy do ý chí chủ quan mong muốn phát triển nhanh về công nghiệp,
với việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách thông thoáng, vợt trội để thu hút
15
đầu t nên trong quá trình phê duyệt các báo cáo đầu t, công tác thẩm định,
đánh giá tác động môi trờng đợc xem nhẹ, hầu hết các dự án đều có đề cập

đến đánh giá tác động môi trờng (thể hiện trong báo cáo đầu t và cấp phép đầu
t), nhng đến giai đoạn triển khai thực hiện dự án đều không triển khai thực
hiện, chỉ có một số ít dự án có xử lý chất thải môi trờng một cách cục bộ (nh
nhà máy bia Larger, gạch Đồng Tâm, nhà máy tinh bột sắn, ); đã làm cho
nhân dân sống gần các nhà máy khiếu kiện đông ngời, kéo dài. Trong công tác
quy hoạch các khu, cụm công nghiệp và làng nghề cha chú ý đến bố trí không
gian cho khu dân c đô thị để giải quyết các nhu cầu về nhà ở cho cán bộ, công
chức, viên chức và ngời lao động, các khối dịch vụ phục vụ cho các ngành công
nghiệp.
Trên địa bàn của tỉnh đã hình thành nhiều khu tái định c, do quá trình
phát triển công nghiệp cần phải giải toả trắng mặt bằng. Thế nhng hầu hết các
khu tái định c của tỉnh đều bộc lộ một số vấn đề bất cập nh: Nhà ở bố trí theo
kiểu nhà ống, liền kề nhau, không có các công trình vệ sinh, văn hoá, và nhất
là không bố trí đất để cho ngời lao động canh tác; đặc biệt là cha chú trọng
đến phong tục, tập quán, tôn giáo của đồng bào trong diện phải thu hồi đất.
Thực tế đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về xã hội, an ninh do không đặt
vấn đề giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với việc hình
thành các khu nhà ở trong quá trình hình thành các khu đô thị mới.
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của phát triển công nghiệp gắn
với hình thành đô thị mới
* Thuận lợi:
Nớc ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, quá trình công nghiệp hoá
cũng là quá trình đô thị hoá. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và
lần thứ X đã khẳng định quyết sách chính trị của toàn Đảng, toàn dân tập
trung phát triển công nghiệp để đến năm 2020, nớc ta cơ bản trở thành nớc
công nghiệp. Đặc biệt, ngày nay do thành qủa của cuộc cách mạng KHCN,
công nghệ mới đem lại đã tạo ra khả năng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Theo quy định tại Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của
Chính phủ về việc ban hành quy chế khu đô thị mới thì khu đô thị mới phải đ-

ợc đầu t xây dựng một khu đô thị đồng bộ, có hệ thống các công trình hạ tầng
kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu dân c và các công trình dịch vụ khác, đợc phát
16
triển nối tiếp đô thị hiện có hoặc hình thành khu đô thị tách biệt, có ranh giới
và chức năng đợc xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đã đợc cơ
quan nhà nớc có thẩm quyền phê duyệt.
Nhịp độ đô thị hóa phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, nhng kinh tế
hàng hóa chỉ có thể phát triển khi có cơ sở hạ tầng đô thị phát triển. Có thể
nói, nếu không có phát triển kinh tế, giao lu, trao đổi hàng hóa thì không hình
thành các khu đô thị mới. Nhịp độ phát triển, tăng trởng kinh tế có xu hớng
tập trung về các đô thị lớn có điều kiện hoạt động kinh tế, dịch vụ và giao lu
văn hóa ngày càng phát triển.
Sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp sẽ tạo ra nhiều khu dân c đô
thị, làm cho tốc độ tăng trởng kinh tế ở đó cao hơn mức trung bình trên cùng
một địa bàn. Tốc độ phát triển nhanh của các khu, cụm công nghiệp tất yếu sẽ
dẫn đến nhu cầu rất lớn về lao động, nh vậy ngời lao động nhập c ngày càng
nhiều và có tốc độ gia tăng dân số sẽ tạo tiền đề để hình thành khu dân c đô
thị mới.
* Khó khăn: Kết cấu cơ sở hạ tầng ở các khu tái định c, khu nhà ở cho
công nhân đầu t không đồng bộ, chất lợng thấp cũng là những yếu tố tác động
đến đầu t xây dựng các khu đô thị mới. Một trong những yếu tố quan trọng
nữa vừa tác động đến đầu t xây dựng các khu đô thị mới đó là các chính sách
của Nhà nớc nh chính sách về quy hoạch xây dựng, chính sách về đất đai,
chính sách về tài chính, về nguồn lực cho đầu t phát triển. Những năm 90 của
thế kỷ XX chúng ta cũng đã tạo điều kiện về cơ chế, chính sách trong khuyến
khích đầu t, kêu gọi đầu t xây dựng các khu đô thị mới bằng việc giao đất cho
các doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự huy động vốn, vay vốn, góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất để đầu t xây dựng các khu đô thị mới đồng bộ
theo quy hoạch. Tuy nhiên, qua từng thời kỳ cũng có những vấn đề đợc đánh
giá, xem xét về mục tiêu, hiệu quả của sự phát triển các khu đô thị mới. ở đây

chúng tôi chỉ muốn nói rằng một trong những yếu tố quan trọng tác động đến
đầu t xây dựng các khu đô thị mới đó là cơ chế, chính sách của Nhà nớc. Nhà
nớc hoạch định chính sách cho sự phát triển đô thị tốt thì chúng ta sẽ có những
khu đô thị mới văn minh, hiện đại; đồng thời giải quyết hài hoà mối quan hệ
với cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp. Hiện nay, có hàng trăm KCN đã
đi vào hoạt động ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nớc. Bên cạnh những mặt
tích cực mà các KCN mang lại thì vấn đề bức xúc, phức tạp mà nhiều năm qua
cha đợc quan tâm giải quyết là nhà ở cho CNLĐ. Các KCN tập trung đều thiếu
17
nhà ở cho công nhân vì số lợng tăng nhanh, nhng trong quy hoạch phát triển
các KCN cha tính đến yêu cầu về chỗ ở cho ngời lao động. Theo kế hoạch
đến năm 2010, các KCN tập trung sẽ thu hút 70 - 80 vạn lao động, nhng chỉ
mới có khoảng 20% tổng số CNLĐ có chỗ ở ổn định, số còn lại vẫn cha có nơi
ở, hoặc phải thuê các nhà trọ t nhân với giá bình quân từ 50.000 - 150.000
đồng/tháng, diện tích sử dụng chật hẹp từ 2 - 3 m
2
/ngời. Chỉ có khoảng 2% số
công nhân đợc ở trong các nhà trọ do các doanh nghiệp sử dụng lao động và tổ
chức đoàn thể đầu t xây dựng. Ngời lao động ở các KCN phần lớn là lao động
ngoại tỉnh, đời sống khó khăn, thu nhập thấp, chỗ ở không có phải đi thuê m-
ớn. Trong khi đó, nhà trọ phần lớn là do ngời dân tự xây dựng, không đảm bảo
các điều kiện sống tối thiểu về vệ sinh, điện, nớc, nhếch nhác,
Từ vấn đề về dân số đến các vấn đề xã hội khác nh công ăn việc làm, cơ
hội tạo lập việc làm, giải quyết việc làm ở các đô thị nhỏ và nông thôn có
nhiều khó khăn hơn do sức sản xuất hàng hóa và dịch vụ kém hấp dẫn hơn.
Mặt khác dân số đô thị tăng nhanh và đời sống của ngời dân đợc cải thiện dẫn
đến nhu cầu về nhà ở là rất lớn, nhà ở trong đô thị cũ đang thiếu hụt về số lợng,
kém về chất lợng kiến trúc và xây dựng. Tình trạng cơi nới, chắp vá, manh mún
làm ảnh hởng đến cảnh quan kiến trúc, gây ô nhiễm môi trờng, thậm chí xây
dựng cơi nới, đè lấp lên cả các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật.

1.2.3. Thực chất của mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với
hình thành đô thị mới trong quá trình phát triển
Xã hội trớc công nghiệp hoá là xã hội nông nghiệp. Đặc điểm của xã hội
nông nghiệp là sản xuất tiểu nông, tái sản xuất giản đơn, tích luỹ ít. Trình độ
sản xuất thờng duy trì sự lao động ở mức thấp nhất của đời sống con ngời,
không có khả năng tích luỹ để mở rộng tái sản xuất. Lúc ấy cũng có đô thị,
nhng đô thị rất hẹp không phát triển, hoặc lúc phát triển lúc ngừng trệ, rất dao
động và luôn lặp lại. Nguyên nhân là lực lợng sản xuất xã hội thấp kém và
trong thời gian dài không đợc nâng cao. Nhng từ khi bắt đầu đô thị hoá, tình
hình khác hẳn. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp đòi hỏi nguồn lao động tập
trung, đặc điểm của tái sản xuất mở rộng đòi hỏi sự tập trung này không
ngừng mở rộng, hình thức của đô thị phát triển theo, kinh tế đô thị lấy công
nghiệp là chủ thể đợc hình thành sớm nhất. Tỷ lệ đô thị hoá các khu vực và
các nớc trên thế giới có quan hệ tỷ lệ thuận khá ổn định với tỷ trọng dân số lao
động công nghiệp trong tổng dân số lao động. Có thể thấy rằng, mối quan hệ
18
giữa công nghiệp hoá và đô thị hoá là tỷ trọng dân số lao động công nghiệp
tăng lên 1% có thể làm cho dân số đô thị tăng lên 1,8%. Tỷ lệ đô thị hoá tăng
nhanh hơn tỷ trọng dân số công nghiệp, chủ yếu do sự phát triển công nghiệp
đã kéo theo một số ngành nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là sự phát triển tơng
ứng của ngành sản xuất thứ ba. Cho nên, quan hệ tỷ lệ này tơng đối ổn định
trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhng bớc vào thời kỳ giữa và
sau này thì tơng đối rời rạc [13, tr.105].
Quan hệ công nghiệp hoá và đô thị hoá còn có thể thấy rõ mối quan hệ
giữa sản lợng công nghiệp và đô thị hoá. Tức chỉ số sản xuất công nghiệp tăng
trởng, chỉ số dân số đô thị tất yếu tăng lên tơng ứng. Điều khác nhau là tỷ lệ
tăng trởng công nghiệp cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trởng dân số đô thị,
nguyên nhân chủ yếu là năng suất lao động công nghiệp bình quân đầu ngời
đợc nâng cao nhanh hơn nhiều.
Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình nông nghiệp thoát khỏi kinh tế

tiểu nông đợc trang bị kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy năng suất nông nghiệp
không ngừng nâng cao, dân số nông nghiệp không ngừng d thừa, và thúc đẩy
quá trình lịch sử dân số nông nghiệp không ngừng chuyển biến thành dân số
công nghiệp và dân số đô thị. Nếu nói công nghiệp hoá là căn cứ bên trong
của đô thị hoá thì hiện đại hoá nông nghiệp là điều kiện bên ngoài chủ yếu
của đô thị hoá. Năng suất lao động nông nghiệp ngày càng nâng cao, dân số
quá thừa của nông nghiệp tất nhiên dần dần di chuyển vào đô thị. Cũng có thể
nói, dân số đô thị tăng lên và dân số nông nghiệp giảm đi là hai mặt của một
vấn đề.
Sự phát triển kinh tế đô thị không chỉ tuỳ thuộc sự phát triển của công
nghiệp và nông nghiệp, mà còn tuỳ thuộc vào sự phát triển của các ngành dịch
vụ. Sự phát triển chung của ba ngành sản xuất hình thành thực thể kinh tế tổng
hợp thúc đẩy đô thị phát triển. Sự thực hiện kinh tế tổng hợp này vừa tồn tại
trong nội bộ đô thị, vừa tồn tại ở bên ngoài đô thị, mức độ phát triển của nó
nói chung, có thể biểu thị bằng tổng giá trị sản phẩm quốc dân bình quân đầu
ngời. Đô thị là điểm của khu vực nhất định, sự phát triển của nó có quan hệ
trực tiếp với thực lực tổng hợp kinh tế của khu vực nhất định. Đơng nhiên, hai
bên cũng là quá trình tác động lẫn nhau: Kinh tế khu vực phát triển có thể thúc
đẩy kinh tế đô thị phát triển và ngợc lại.
19
Đối với nớc ta đang trong quá trình công nghiệp hoá thì vấn đề phát triển
đô thị là một trong những vấn đề trung tâm, quyết định sự phát triển của đất n-
ớc. Nếu hôm nay không nhận thức rõ để giải quyết đúng vấn đề này thì ngày
mai sẽ phải trả giá, và khó nói đến thành công thật sự của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X.
Trớc hết, xem xét mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành
đô thị mới là vấn đề tăng trởng kinh tế bền vững. Chính vì mục tiêu tăng trởng
kinh tế mà có sự tập trung sản xuất công nghiệp và thơng mại. Nhu cầu sản
xuất công nghiệp và thơng mại đòi hỏi tập trung dân c, khoa học, văn hoá,

thông tin ngày càng tăng. Những điều kiện đáp ứng đó là sự phát triển kết cấu
hạ tầng, nhà ở, các dịch vụ cho sản xuất và đời sống dân c đô thị. Trong điều
kiện tập trung phát triển sản xuất công nghiệp và dân c tạo ra lợi thế về kinh tế
cho đô thị. Có thể khẳng định mức độ tăng trởng của một quốc gia thờng phụ
thuộc vào mức độ phát triển kinh tế ở các đô thị. Trong khi đó GDP đầu ngời
đô thị thờng cao hơn 3 đến 5 lần GDP bình quân đầu ngời của cả nớc và cao
hơn nhiều lần so với nông thôn. Mức tăng trởng kinh tế không thể diễn ra
đồng đều ở mọi nơi, thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ có ở các trung tâm đô thị của
một vùng, với sự phát triển của các ngành công nghiệp có sức lan toả, những
trung tâm đô thị ấy là những cực tăng trởng kinh tế. Nh vậy, mối quan hệ giữa
phát triển đô thị lấy tăng trởng kinh tế bền vững làm trọng tâm, một mặt coi
các tổ hợp công nghiệp đóng vai trò động lực của sự phát triển đô thị; mặt
khác coi đáp ứng nhu cầu bên ngoài là cơ sở kinh tế chủ yếu của sự phát triển
đô thị. Tuy nhiên lấy tăng trởng làm trọng tâm và chỉ chú ý đến yêu cầu xã hội
phục vụ cho tăng trởng sẽ làm cho đô thị phát triển phiến diện. Quá trình phát
triển đô thị lấy tăng trởng kinh tế làm trọng tâm cũng đem lại một số tiến bộ
về mặt xã hội.
Thứ hai là mối quan hệ này thể hiện ở chiến lợc phát triển đô thị trong
các quốc gia công nghiệp hay quốc gia đang tiến hành công nghiệp hoá đất n-
ớc đều đứng trớc vấn đề mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và con ngời, phát
triển đô thị lấy con ngời làm trung tâm. Trớc đây, phát triển lấy tăng trởng làm
trọng tâm, nghĩa là đặt mục tiêu tăng trởng ở con ngời, coi con ngời là phơng
tiện của tăng trởng. Ngày nay, muốn thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng xã hội
20
đô thị thì phải lấy chất lợng cuộc sống của dân chúng làm mục tiêu của sự
phát triển.
Thứ ba là giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với sự hình
thành đô thị mới, tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển các khu công
nghiệp đặt trong quy hoạch chung phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vùng và
cả nớc, trong đó chú trọng đến quy hoạch hình thành các khu đô thị mới.

Xây dựng các khu đô thị mới là xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
đô thị bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội. Kết cấu hạ
tầng kỹ thuật gồm: Hệ thống giao thông gồm đờng bộ, đờng sắt, đờng thủy, đ-
ờng không; đờng bộ bao gồm các loại đờng phố: đờng chính (bề rộng từ 70
đến 80 mét), đờng liên khu vực (rộng từ 50 đến 60 mét), đờng khu vực (rộng
từ 35 đến 50 mét), đờng phân khu vực (rộng từ 25 đến 35 mét), đờng nhánh
(rộng từ 15 đến 20 mét) và đờng vào nhà. Hệ thống thông tin liên lạc, bu
chính viễn thông, truyền hình cáp. Hệ thống cung cấp năng lợng; điện chất
đốt, nhiệt sởi ấm. Hệ thống chiếu sáng công cộng. Hệ thống cấp nớc và hệ
thống thoát nớc. Hệ thống quản lý các chất thải, đảm bảo vệ sinh môi trờng.
Kết cấu hạ tầng xã hội gồm: Nhà ở, các công trình phục vụ, công sở, công
trình y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao, thơng mại, dịch vụ công cộng,
cây xanh, công viên, mặt nớc, sông hồ.
1.3. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
công nghiệp với hình thành đô thị mới ở một số tỉnh, thành
phố và ở một số nớc trên thế giới
1.3.1. Kinh nghiệm ở một số tỉnh, thành phố
* Tỉnh Bình Dơng: Tỉnh Bình Dơng bớc vào xây dựng và phát triển khu
công nghiệp ở những điểm xuất phát thấp và cũng là một tỉnh thuần nông, gần
nh cha có cơ sở hạ tầng về công nghiệp. Thực tiễn đó bắt buộc tỉnh Bình Dơng
phải có bớc đột phá trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố khách quan và
chủ quan trong các chiến lợc phát triển. Khi khởi lập sự nghiệp công nghiệp
hoá, tỉnh Bình Dơng quy hoạch dải đất Thuận An, Dĩ An nằm ở phía Bắc quốc
lộ 1A đợc coi nh ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Biên Hoà là
điểm thu hút các nhà đầu t. Vạn sự khởi đầu nan, bài học thành công của Khu
công nghiệp Sóng Thần có tác dụng nh một dấu ấn tạo lòng tin, mở màn để
Đảng bộ và nhân dân Bình Dơng bớc vào thời kỳ công nghiệp hoá. Từ những
điểm khởi mốc đầu tiên tại Khu công nghiệp Sóng Thần, từ tháng 9 năm 1995
21
đến thời điểm năm 2005, Bình Dơng đã có 12 khu công nghiệp tập trung, với

tổng diện tích 2.431 ha và 23 cụm công nghiệp, diện tích 3.573 ha; đã có
2.754 dự án đầu t trong nớc, tổng số vốn hơn 11 nghìn tỷ đồng và 871 dự án
đầu t nớc ngoài 4,1 tỷ USD đã lấp đầy diện tích hơn 80%, nhiều khu công
nghiệp lấp đầy 95% diện tích. Có 30 quốc gia vùng lãnh thổ đầu t vào Bình D-
ơng với các ngành nghề dệt may, da giày, chế biến thuỷ hải sản, gỗ, xe đạp,
phụ liệu may, vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử điện lạnh, Đã có 434 doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp đi vào hoạt động có doanh thu và hàng năm
đều tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Giá trị sản xuất công nghiệp của
tỉnh đạt 45 nghìn tỷ đồng, tỷ trọng công nghiệp trong GDP chiếm 82%. Số dự
án đầu t nớc ngoài đợc cấp phép ở Bình Dơng đứng thứ 2 sau thành phố Hồ
Chí Minh. Dân số thành thị từ 19,9% năm 1996 tăng lên 29,8% năm 2001 và
đến năm 2005 gần 42%, trong đó có các huyện trọng điểm về phát triển công
nghiệp, dân số thành thị chiếm gần 60% nh Thuận An, Dĩ An. So sánh với tỷ
lệ chung của cả nớc, tốc độ đô thị hoá của Bình Dơng thuộc loại cao nhất nớc,
chủ yếu do quá trình di dân nông thôn-đô thị, đô thị-đô thị đem lại.
Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dơng cho thấy: Việc hình thành và phát triển
khu công nghiệp là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của Bình
Dơng. Sự hình thành và phát triển lớn mạnh các mô hình khu công nghiệp
trong tỉnh cũng đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả kinh tế do khu công nghiệp mang lại,
vấn đề văn hoá xã hội cũng cần đợc tỉnh và các ngành hữu quan và các cấp
chính quyền quan tâm để phát triển đồng bộ. Chính vì lý do thiết thực ấy mà
những chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội phải đi liền với văn hoá, yêu cầu
phát triển bền vững là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
* Tỉnh Đồng Nai: Nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
giáp các tỉnh Lâm Đồng, Bình Dơng, Bình Phớc, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng
Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai có hệ thống giao thông thuỷ bộ, đ-
ờng sắt nối liền với các địa phơng khác trong cả nớc, có vị trí quan trọng trong
sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gắn kết với vùng Đông
Nam Bộ với Tây Nguyên. Với vị trí này, tỉnh đã tận dụng đợc những lợi thế so

sánh của vùng và của tỉnh trong công cuộc đổi mới và đã đạt đợc những thành
tựu đáng kể, nhất là trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Theo kết quả thống
kê của tỉnh có 607.128 ngời sống ở thành thị hay là 30,5% c dân sống tại các
đô thị, cao hơn mức bình quân chung của cả nớc (23,5%); cụ thể: năm 2000
22
dân số 2,044 triệu ngời, năm 2005 dân số 2,215 triệu ngời. Dân số đô thị của
tỉnh tăng nhanh, tốc độ bình quân 2,78% trong 7 năm gần đây. Đồng Nai có
hơn 350 dự án đầu t trực tiếp từ 24 quốc gia, vùng lãnh thổ với vốn đầu t hơn 5
tỷ USD, đứng thứ 3 sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hầu hết các dự án
đầu t tại Đồng Nai là 100% vốn nớc ngoài (281 dự án), liên doanh (68 dự án),
hợp đồng hợp tác kinh doanh (2 dự án). Các dự án đầu t nớc ngoài tại Đồng
Nai chủ yếu là công nghiệp và xây dựng (96,4%), dịch vụ thơng mại (2,6%),
nông nghiệp và lâm nghiệp (1%). Các doanh nghiệp đầu t nớc ngoài chiếm tỷ
lệ 26% cơ cấu kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 92%, giá trị sản lợng
công nghiệp 63%, ngân sách 21% và tiếp nhận 113.000 lao động. Trong quy
hoạch của tỉnh, sẽ hình thành 18 khu công nghiệp với 7.826 ha. Đời sống vật
chất của nhân dân trong tỉnh đã đợc cải thiện rõ rệt. Mức GDP bình quân đầu
ngời theo giá hiện hành đã tăng từ 755 nghìn đồng năm 1990 lên gần 3,7 triệu
đồng năm 1995, 6,7 triệu đồng năm 2000 và gần 10 triệu đồng năm 2005.
Nhờ tăng mức sống, điều kiện về nhà ở đã đợc cải thiện rõ rệt, 80% là nhà
kiên cố, bán kiên cố hoặc nhà khung gỗ lâu bền, tơng đơng với mức bình quân
của Đông Nam Bộ và cải thiện mức bình quân chung cả nớc (có tới 25% hộ
dân sống trong các khu nhà ở thô sơ). Hiện có gần 50% số hộ có diện tích nhà
ở bình quân đầu ngời trên 10m2 (ngang Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh),
80% số hộ đã có điện sử dụng, đạt mục tiêu đề ra.
Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai: Công tác quy hoạch đợc tỉnh quan tâm
đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu, tập trung giải quyết đợc mối quan hệ giữa
việc quy hoạch các khu công nghiệp gắn với bố trí không gian xây dựng các
khu đô thị mới, cho nên tốc độ đô thị hoá tơng đối nhanh.
* Tỉnh Quảng Ngãi: Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,

tỉnh Quảng Ngãi đã có chiến lợc phát triển công nghiệp theo hớng u tiên đầu
t kết cấu hạ tầng kỹ thuật của Khu kinh tế Dung Quất, Khu công nghiệp Tịnh
Phong, 19 cụm công nghiệp và một số làng nghề truyền thống. Tỉnh xác định
Khu kinh tế Dung Quất là điểm kích nổ về phát triển công nghiệp của cả tỉnh.
Khu kinh tế Dung Quất đợc Chính phủ quyết định ngày 21 tháng 3 năm 2005,
trên cơ sở đổi tên và tăng thêm nhiệm vụ của Khu công nghiệp Dung Quất.
Khu kinh tế này có quy mô 10.300 ha, đã hoàn thành các quy hoạch chi tiết
khu công nghiệp ở phía Đông, khu công nghiệp phía Tây; hệ thống cảng Dung
Quất: bao gồm cảng chuyên dùng cho dầu khí, đóng tàu, luyện thép; cảng
tổng hợp container; cảng thơng mại gắn với khu bảo thuế và các dịch vụ hậu
23
cần cảng, Hoàn thành quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết khu dân c và
chuyên gia nhà máy lọc dầu, khu trung tâm phía Bắc Vạn Tờng, khu du lịch
sinh thái biển và khu trung tâm phía Nam Vạn Tờng. Quy hoạch tổng thể môi
trờng và quy hoạch tổ chức bố trí dân c trong Khu kinh tế Dung Quất. Hoàn
chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Khu kinh tế Dung Quất. Đã cơ bản
hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội (giai đoạn 1) gồm: Giao thông
trục chính, điện, thông tin liên lạc, cấp nớc, cảng chuyên dùng, hạ tầng phân
khu công nghiệp, các khu dân c, trờng đào tạo nghề, trung tâm quan trắc giám
sát môi trờng. Đang triển khai xây dựng một số công trình và hoàn thiện khu
chuyên gia, trung tâm văn hoá thể thao, bệnh viện Dung Quất, trạm thu phát
sóng truyền hình và khu du lịch dịch vụ, Cảng nớc sâu Dung Quất với bến
chuyên dùng số 1 dầu khí đã đầu t và đa vào khai thác từ năm 2003, đáp ứng
cho tàu 20.000 DWT cập cảng. Tính từ năm 1997 đến cuối năm 2005, đã thực
hiện đợc 164 phơng án đền bù thiệt hại tái định c để giải phóng mặt bằng, với
tổng kinh phí đền bù, hỗ trợ là 194,4 tỷ đồng. Tổ chức di chuyển 1.611 hộ
dân/6.483 nhân khẩu ra khỏi mặt bằng cần giải toả đến các khu tái định c. Từ
năm 1996 - 2000, đã xây dựng 4 khu tái định c có quy mô 821 hộ dân với tổng
kinh phí đầu t 39,516 tỷ đồng; từ năm 2001 - 2005, xây dựng 8 khu tái định c
có quy mô tái định c cho 1.762 hộ, với tổng số vốn đầu t 67,677 tỷ đồng. Đến

nay, Khu kinh tế Dung Quất đã có 94 dự án đầu t đợc cấp phép, với tổng số
vốn là 3,4 tỷ USD (tính cả dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất); trong đó có 30
dự án đã đi vào hoạt động.
Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ngãi: Tỉnh tập trung cho công tác đền bù,
giải phóng mặt bằng, tái định c tạo ra mặt bằng thuận lợi cho các nhà đầu t. u
tiên các nguồn vốn đầu t hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ cho các khu công
nghiệp và khu dân c đô thị. Triển khai đồng bộ công tác quy hoạch giữa phát
triển công nghiệp, dịch vụ với việc xây dựng các khu tái định c góp phần hình
thành các đô thị mới. Tốc độ đô thị hoá trong Khu kinh tế Dung Quất rất
nhanh và bền vững.
* Thành phố Hà Nội:
Mục tiêu của xây dựng phát triển đô thị là tạo lập môi trờng sống an
toàn, vệ sinh và tiện nghi cho con ngời trong việc tổ chức không gian, phát
triển đồng bộ cơ sở hạ tầng đô thị hiện tại; sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực
(vốn, đất đai, tài nguyên khác); đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị theo hớng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
24
Mục tiêu của xây dựng phát triển đô thị là nhằm từng bớc xây dựng, hoàn
chỉnh đô thị của Thành phố Hà Nội, góp phần xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô
thị cả nớc, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trờng đô thị
trong sạch, đợc phân bố và phát triển hợp lý, đảm bảo mỗi đô thị, theo vị trí chức
năng của mình, phát huy đợc đầy đủ các lợi thế, thế mạnh, góp phần thực hiện tốt
hai nhiệm vụ chiến lợc là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc điểm của xây dựng các khu đô thị mới phải đồng bộ, hiện đại, phát
triển bền vững và trờng tồn, tập trung vào việc nâng cao chất lợng cuộc sống
cho con ngời và bảo vệ môi trờng sinh thái, vừa đảm bảo tăng trởng, phát triển
bền vững, vừa phát huy đợc các giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc.
Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với việc
xây dựng các khu đô thị mới ở Thủ đô Hà Nội cho thấy:
- Hình thành và phát triển các khu đô thị mới phải phù hợp với sự phân

bố và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, tập trung xây dựng cơ sở kinh
tế kỹ thuật vững chắc làm động lực phát triển cho từng đô thị.
- Bố trí hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ, tạo ra sự phát triển cân
đối giữa các vùng và lãnh thổ, kết hợp với việc đẩy mạnh đô thị hóa, hiện đại
hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
- Xây dựng các khu đô thị mới phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh
tế - xã hội và chiến lợc phát triển kinh tế-xã hội.
- Phát triển đô thị phải có cơ sở hạ tầng đồng bộ với trình độ thích hợp
hoặc hiện đại, tùy thuộc vào yêu cầu khai thác và sử dụng các khu vực trong
đô thị.
- Hình thành và phát triển đô thị phải trên cơ sở tổ chức hợp lý môi sinh
và bảo vệ môi trờng.
- Kết hợp cải tạo với xây dựng mới, coi trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa và
truyền thống dân tộc với việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ
thuật mới để tiến đến hiện đại.
- Phát huy đô thị đồng thời phải củng cố an ninh, quốc phòng, bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo ổn định.
- Huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn để cải tạo, xây dựng và phát triển
đô thị mới, tăng cờng giữ gìn trật tự kỷ cơng, tăng cờng kiểm soát, giám sát sự
phát triển đô thị theo đúng quy hoạch và pháp luật.
- Di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp ô nhiễm môi trờng ra khỏi
nội thành.
25

×