Tải bản đầy đủ (.doc) (221 trang)

pháp luật về hợp đồng lao động và thực trạng áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.68 KB, 221 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ lao động trong thị trường là một loại quan hệ đặc biệt, nó vừa
là quan hệ kinh tế đồng thời lại là quan hệ có tính xã hội và nhân văn sâu sắc
bởi nó liên quan mật thiết đến yếu tố con người; nó vừa là quan hệ thỏa thuận
vừa là quan hệ phụ thuộc; nó là quan hệ bình đẳng song bởi khả năng nảy sinh
giá trị khi sử dụng nên dễ dẫn đến sự bất công và bóc lột trong quan hệ; nó là
quan hệ cá nhân đồng thời lại bị chi phối của quan hệ có tính tập thể Chính
vì vậy, việc trao đổi hàng hóa sức lao động không thể giống như các giao dịch
hàng hóa thông thường khác mà cần thiết phải có một hình thức pháp lý vừa
tạo ra sự lưu thông bình thường, thuận tiện vừa đảm bảo được quyền và lợi
ích hợp pháp các bên trong quan hệ lao động. Hình thức pháp lý đó chính là
hợp đồng lao động (HĐLĐ).
Trong hệ thống pháp luật lao động, HĐLĐ là một chế định chiếm vị
trí rất quan trọng do đó đây là nội dung sớm được quy định và giữ vai trò
trung tâm trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật lao động nhằm điều
chỉnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường. Một trong những văn bản
pháp luật kinh tế có hiệu lực pháp lý cao trong thời kỳ đầu đổi mới là Pháp
lệnh Hợp đồng lao động ngày 30/8/1990. Sau đó, trước sự phát triển của thị
trường lao động, nhằm đáp ứng những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội
và trên cơ sở rút kinh nghiệm sau mấy năm thực hiện - ngày 23/6/1994, Bộ
luật Lao động được Quốc hội thông qua là sự đánh dấu cho bước phát triển
không chỉ về số lượng mà còn về chất lượng của pháp luật lao động nói chung
và pháp luật HĐLĐ nói riêng. Song, sau một thời gian đáng kể thực hiện pháp
luật HĐLĐ, bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận như đảm bảo quyền
tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc cho công dân; quyền tự định đoạt của
người sử dụng lao động trong việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí lao động ;
1
đảm bảo quyền và lợi ích các bên trong quan hệ; góp phần giải quyết việc làm
và một số các vấn đề xã hội thì pháp luật HĐLĐ đã bộc lộ một số vấn đề bất
hợp lý, chưa đáp ứng được những yêu cầu có tính bản chất của quan hệ lao


động trong điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Chính vì vậy, ngày 2/4/2002 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động và có hiệu lực từ 1/1/2003
trong đó chương HĐLĐ được sửa đổi nhiều nhất (8/17 điều). Tuy nhiên, ngay
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động cũng chưa giải quyết
hết được những vấn đề đang còn tồn tại của pháp luật HĐLĐ. Mâu thuẫn lớn
nhất hiện nay của chúng ta trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật lao động
nói chung, HĐLĐ nói riêng là giữa mong muốn ban hành một Bộ luật Lao
động tiến bộ, văn minh với xuất phát điểm còn thấp của cơ sở kinh tế với những
đặc thù của quan hệ lao động đang trong quá trình chuyển đổi và ý thức pháp
luật còn hạn chế của các chủ thể trong quan hệ lao động. Vì vậy, việc nghiên
cứu những vấn đề lý luận về HĐLĐ, thực trạng quy định và thực hiện pháp
luật HĐLĐ thông qua đó tìm ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật HĐLĐ là một nhu cầu bức thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét về phương diện lịch sử, HĐLĐ là một chế định pháp lý luôn được
thừa nhận và quy định trong hệ thống pháp luật lao động nước ta kể từ khi lập
nước đến nay. Song, chỉ từ khi chúng ta thừa nhận và phát triển nền kinh tế
theo mô hình kinh tế thị trường thì HĐLĐ mới thật sự là hình thức pháp lý
phổ biến, chủ yếu để tuyển dụng lao động. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
HĐLĐ chỉ được các nhà khoa học pháp lý nước ta quan tâm từ khi xuất hiện
thị trường lao động trong điều kiện của nền kinh tế đa thành phần. Ở các mức
độ khác nhau đã có nhiều công trình trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu về
HĐLĐ. Đã có một số sách chuyên khảo về HĐLĐ như: "Hợp đồng lao động
là gì" của Nguyễn Phương và Nguyễn Viết Thơ (năm 1988), "Thị trường lao
2
động - Thực trạng và giải pháp" của TS Nguyễn Quang Hiển (năm 1995),
"Thị trường lao động trong kinh tế thị trường" của nhiều tác giả (năm 1999).
Bên cạnh sách chuyên khảo còn có nhiều bài viết trong các tạp chí
chuyên ngành của giới nghiên cứu khoa học pháp lý bàn về những vấn đề liên

quan đến HĐLĐ như: "Đổi mới chính sách tuyển dụng và sa thải lao động
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", "Những vấn đề
pháp lý về tạo và đảm bảo việc làm cho người lao động" của PGS.TS Nguyễn
Như Phát, "Về xây dựng pháp luật bảo đảm việc làm cho công dân ở nước ta
hiện nay" của PGS.TS Hoàng Thế Liên, "Hợp đồng lao động - một trong
những chế định chủ yếu của luật Lao động", "Một số vấn đề lý luận về quan
hệ lao động và sự điều chỉnh pháp luật quan hệ lao động" của TS Phạm Công
Trứ, "Mấy ý kiến về hợp đồng lao động vô hiệu" của TS Đào Thị Hằng, "Khái
lược về sự phát triển của hợp đồng lao động Việt Nam", "Quá trình duy trì và
chấm dứt hợp đồng lao động", "Hợp đồng lao động theo pháp luật lao động
Việt Nam" của TS Lưu Bình Nhưỡng, "Mấy ý kiến về chế định hợp đồng lao
động" của Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Phụng, "Về phương hướng hoàn thiện
chế độ hợp đồng lao động ở Việt Nam" của thạc sĩ Lê Hoài Thu , luận văn
của thạc sĩ Lê Hoài Thu: "Hợp đồng lao động ở các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay", luận văn của thạc sĩ Nguyễn Văn Bình: "Hợp
đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam", luận văn của thạc sĩ Phạm
Thị Thúy Nga: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng lao động"
Các công trình nghiên cứu nói trên của các tác giả đã tiếp cận HĐLĐ
và một số vấn đề liên quan từ nhiều góc độ khác nhau là những tài liệu vô
cùng quý giá cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy
nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận và
đánh giá một cách toàn diện thực trạng của các quy định cũng như áp dụng
pháp luật HĐLĐ và trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và
hoàn thiện pháp luật HĐLĐ.
3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Xuất phát từ những đặc điểm của thị trường lao động Việt Nam và
những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển và xây dựng nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mục đích chính của luận án là
nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về HĐLĐ, thực trạng quy

định và áp dụng pháp luật HĐLĐ trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật HĐLĐ. Từ những mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về HĐLĐ như: đặc thù của
sức lao động với tư cách là hàng hóa, đặc trưng của thị trường lao động Việt
Nam, đặc trưng của quan hệ HĐLĐ, mối quan hệ của cơ chế thị trường ở Việt
Nam và pháp luật lao động, mối quan hệ của HĐLĐ với các vấn đề khác liên
quan Từ đó cho thấy những yêu cầu của việc điều chỉnh pháp luật đối với
quan hệ HĐLĐ.
- Nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện thực trạng các quy định
và thực tiễn áp dụng pháp luật HĐLĐ. Thông qua đó nêu lên những tồn tại,
hạn chế, bất cập của pháp luật HĐLĐ hiện hành.
- Đề ra các định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về HĐLĐ.
4. Phạm vi nghiên cứu
HĐLĐ là nội dung trung tâm của Bộ luật Lao động, nó có quan hệ mật
thiết với hầu hết các quy định của pháp luật lao động. Vì vậy, nó là một vấn
đề rất rộng có thể nghiên cứu, tiếp cận từ rất nhiều góc độ. Tuy nhiên, luận án
chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi: làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
về HĐLĐ, thực trạng của việc quy định và áp dụng pháp luật HĐLĐ, trên cơ
sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật HĐLĐ.
Những vấn đề của luận án chủ yếu tiếp cận theo chiều rộng và toàn
diện của vấn đề cần nghiên cứu. Song, tác giả của luận án cũng nhận thức
được rằng HĐLĐ chỉ tồn tại và phát huy tác dụng trong mối liên hệ mật thiết,
4
biện chứng với các quy định khác của Bộ luật Lao động. Mặt khác, Việt Nam
đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có lĩnh vực lao động.
Do đó, nghiên cứu về HĐLĐ cũng cần đặt trong mối liên hệ biện chứng, hài
hoà với các quy định khác của pháp luật lao động, so sánh với pháp luật nước
ngoài từ đó củng cố những vấn đề về mặt lý luận cũng như hoàn thiện các quy
định của pháp luật HĐLĐ.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được trình bày trên cơ sở của lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước
ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế đa
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với những đặc thù của quan hệ lao động trong thị trường lao động nói
chung và thị trường Việt Nam nói riêng. Nội dung của luận án được nêu và
phân tích dựa trên cơ sở các quy định hiện hành về pháp luật HĐLĐ, các
tài liệu hội thảo khoa học, báo cáo tổng kết thực tiễn, các bản án lao động
và các tài liệu pháp lý khác liên quan.
Phương pháp nghiên cứu của luận án là vận dụng phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin mà chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử,
phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về lý luận, luận án có những đóng góp sau:
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện về HĐLĐ, nhằm tạo cơ sở lý luận cho việc xây dựng, ban hành, thực
hiện pháp luật HĐLĐ như: đặc trưng của sức lao động với tư cách là hàng
hóa, đặc thù của quan hệ lao động trong thị trường lao động Việt Nam, khái
niệm HĐLĐ, đặc trưng của HĐLĐ
5
- Luận án đã phân tích, đánh giá toàn bộ thực trạng quy định và áp
dụng pháp luật HĐLĐ về giao kết, thực hiện, thay đổi, tạm hoãn, chấm dứt
HĐLĐ và một số vấn đề khác liên quan.
- Luận án đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về HĐLĐ trên cơ sở tôn trọng quyền tự do HĐLĐ, đảm bảo quyền
và lợi ích các bên trong quan hệ
Về thực tiễn: Những nghiên cứu, đề xuất của luận án có ý nghĩa trong
việc góp phần hoàn thiện pháp luật về HĐLĐ nhằm nâng cao hiệu quả điều

chỉnh của HĐLĐ đối với quan hệ lao động trong cơ chế thị trường Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 11 mục.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1.1. ĐẶC TRƯNG CỦA SỨC LAO ĐỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ HÀNG HÓA
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Thị trường lao động là một bộ phận của nền kinh tế thị trường. Cũng
giống như bất cứ thị trường nào, các yếu tố cấu thành thị trường lao động bao
gồm: Người mua - người bán - hàng hóa. Hàng hóa được mang ra trao đổi
trên thị trường lao động chính là sức lao động. Xét về mặt lịch sử, việc thừa
nhận sức lao động là hàng hóa đã có từ hàng trăm năm nay, song trong một
thời gian rất dài người ta coi sức lao động tương tự như tất cả các hàng hóa
thông thường khác và trao đổi về nó cũng giống như bất cứ một thứ hàng hóa
nào mang tính tài sản trong thị trường. Chẳng hạn, ở Pháp trước năm 1973
hình thức pháp lý để mua bán sức lao động được dẫn chiếu đến hai điều luật
của Bộ luật Dân sự năm 1804: khoản 1, điều 1779 - hợp đồng thuê dịch vụ và
điều 1780 - hợp đồng thuê nhân công. Từ năm 1973, với quan niệm coi sức
lao động là hàng hóa đặc biệt, theo nghĩa "sức lao động không chỉ thuần túy
mang tính tài sản mà còn mang ý nghĩa xã hội" [63, tr. 2,3] nước Pháp đã ban
hành Bộ luật Lao động năm 1973 để điều chỉnh việc mua bán sức lao động
(quan hệ lao động) trong thị trường lao động và từ năm 1973 trở đi người ta
không dẫn chiếu đến hai điều luật trên nữa. Hệ thống pháp luật điều chỉnh
quan hệ lao động của Anh, Mỹ cũng tiếp cận với quan niệm tương tự. Tuy
nhiên, cũng có những nước không đặt ra việc nghiên cứu vấn đề này - chẳng
hạn ở Đức người ta không quan tâm tranh luận về việc sức lao động có phải là
hàng hóa hay không nhưng vẫn thừa nhận sự tồn tại của thị trường lao động.

Ở nước ta, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sức lao động
được coi là một giá trị xã hội và tinh thần không thuộc phạm trù trao đổi. Tuy
7
nhiên, kể từ khi thừa nhận nền kinh tế thị trường, trong đó có thị trường lao
động thì sức lao động chính thức được coi là hàng hóa. Đồng thời, cũng như
hầu hết các hệ thống pháp luật thị trường, chúng ta cũng coi sức lao động -
bên cạnh những thuộc tính như bất cứ một loại hàng hóa nào, nó còn là một
loại hàng hóa đặc biệt. Và chính sự đặc biệt của hàng hóa sức lao động dẫn
đến yêu cầu phải có một quy chế pháp lý có tính đặc thù để điều chỉnh loại
quan hệ mua bán này. Sự đặc biệt của hàng hóa sức lao động thể hiện ở các
khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất: Hàng hóa sức lao động luôn tồn tại gắn liền với cơ thể
NLĐ (người bán). Chính vì vậy, đây là thứ hàng hóa mà người ta không thể
nhìn thấy, đo, đếm được như những loại hàng hóa thông thường. Hay nói cách
khác, đây là thứ hàng hóa mà người ta không thể định tính hoặc định lượng nó
được. Cũng chính vì vậy, việc xác định giá trị đích thực của nó (chi phí giáo
dục, chi phí khôi phục sức lao động ) là rất khó khăn. Tuy nhiên, cần chú ý,
sức lao động nằm trong con người nhưng nó không đồng nhất với con người
xét về nhiều mặt nhân cách, tư tưởng, tình cảm, đạo đức, ý thức và trên thị
trường, khi NLĐ (người bán) tham gia quan hệ lao động thì cái họ mang trao
đổi đó là sức lao động được chuyển tải thông qua quá trình lao động với sự
tiêu hao về thời gian, trí tuệ, cơ bắp tức họ bán một thứ hàng hóa trừu tượng
và do đó, người mua (NSDLĐ) cũng được sở hữu một loại hàng hóa trừu
tượng tức sở hữu một quá trình lao động. Vì vậy, quá trình mua bán này
thường diễn ra trong một thời gian, có thể rất dài (hàng chục năm) nhưng
không bao giờ NLĐ bị bán bản thân mình một cách vĩnh viễn như kiểu quan
hệ trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ trước đây (chủ nô bán nô lệ). Chính vì đặc
điểm này, nên khi tham gia quan hệ lao động, pháp luật lưu ý các chủ thể -
đặc biệt là NSDLĐ - phải chú ý mặt nhân cách của hàng hóa sức lao động
trong quá trình lao động.

8
- Thứ hai: Sức lao động là một loại hàng hóa mà khi sử dụng nó sáng
tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đây là đặc điểm
rất đặc trưng của hàng hóa sức lao động. Giá trị hàng hóa sức lao động trên
thị trường được biểu hiện thông qua tiền lương, khi người mua sử dụng sức
lao động (kết hợp với các yếu tố khác được gọi là đầu vào của quá trình sản
xuất), tạo ra được sản phẩm. Sau khi bán sản phẩm, trừ đi các chi phí còn lại
một khoản dư - đó là lợi nhuận. Phần lợi nhuận này (hay giá trị sáng tạo thêm)
rõ ràng là do sức lao động sáng tạo ra bởi công cụ lao động và đối tượng lao
động không thể tự liên kết, vận động. Như vậy, sức lao động là yếu tố chi phí
của quá trình sản xuất, đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình
đó. Chính từ đặc điểm này của hàng hóa sức lao động mà trong quá trình sử
dụng dễ dẫn đến sự bóc lột, bất công, lạm dụng Vì vậy, ở đây sự điều chỉnh
của pháp luật lao động phải đạt được hai yêu cầu - một mặt, đảm bảo lợi ích
của NSDLĐ thông qua sự gia tăng không ngừng phần giá trị sáng tạo thêm
(tức năng suất lao động), mặt khác, phải kiểm soát và hạn chế đến mức thấp
nhất sự đối xử không công bằng, bóc lột thậm tệ (như tăng vô hạn độ giờ
làm việc, cúp lương, điều kiện lao động không đảm bảo ) của NSDLĐ đối
với NLĐ trong quá trình lao động.
- Thứ ba: Sức lao động với tư cách là hàng hóa, khi quá trình trao đổi
được thực hiện nó tạo lập nên mối quan hệ có tính cá nhân giữa NLĐ và
NSDLĐ. Tuy nhiên, tương quan cá nhân này chịu sự chi phối, ảnh hưởng rất
lớn của tập thể lao động bởi sự liên kết giữa những NLĐ trong cộng đồng của
họ dường như là một sự liên kết có tính tất yếu khách quan nhất là trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, thực tế cho thấy đây là "vũ khí" quan trọng nhất mà
những NLĐ với tư cách là kẻ yếu trong quan hệ có thể sử dụng để bảo vệ
quyền lợi của mình. Mặt khác, quá trình mua bán và sử dụng sức lao động còn
mang tính xã hội rất sâu sắc. Thực tiễn cho thấy, trong rất nhiều trường hợp
mâu thuẫn, xung đột trong quá trình sử dụng sức lao động không chỉ liên quan
9

đến bản thân NLĐ mà còn ảnh hưởng đến gia đình họ, thậm chí còn tác động
lớn đến sự ổn định và trật tự xã hội. Đó là những vấn đề như: thất nghiệp, đình
công Như vậy, mua bán trao đổi sức lao động về mặt bản chất là quan hệ có
tính cá nhân nhưng đồng thời lại mang tính tập thể, tính xã hội và nhân văn sâu
sắc. Do đó, ở một khía cạnh nào đó có thể nói rằng quan hệ mua bán sức lao
động là sự tổng hòa của các quan hệ xã hội. Vì vậy, sự điều chỉnh của pháp luật
một mặt đảm bảo những yêu cầu trực tiếp trong quan hệ, mặt khác còn phải
phúc đáp những đòi hỏi dường như nằm bên ngoài, không liên quan trực tiếp
nhưng lại có tính khách quan của quan hệ trao đổi, mua bán sức lao động.
- Thứ tư: Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động
đều có giá trị và giá trị sử dụng. Song việc xác định các giá trị này cũng có
những khía cạnh đặc thù nhất định. Trước hết, nói về giá trị sức lao động.
Người ta đo giá trị ấy bằng thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sức lao
động đó. Để sản xuất sức lao động, trước hết phải tiêu dùng một lượng của cải
vật chất nhất định nhằm sản sinh và nuôi dưỡng NLĐ mà cụ thể là chi phí để
tạo ra năng lực lao động. C.Mác coi đây là chi phí để sản xuất ra sức lao động
mới, chi phí duy trì vĩnh viễn sức lao động trên thị trường (tái sản xuất sức lao
động), "những người sở hữu sức lao động đều có thể chết đi. Muốn luôn luôn
có những NLĐ trên thị trường như sự chuyển hóa không ngừng của tư bản,
thì phải làm cho họ sống vĩnh viễn như mỗi cá nhân sống vĩnh viễn bằng cách
sinh con đẻ cái" [6, tr. 238]. Trong quá trình lao động, NLĐ phải tiêu hao trí
tuệ, sức lực. Để duy trì, khôi phục sức lao động đã hao phí, NLĐ phải được
ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý và như vậy phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh
hoạt cần thiết.
Sức lao động là năng lực hoạt động của con người, bao gồm cả thể lực
và trí lực. Vì vậy, sản xuất sức lao động không chỉ khôi phục lại sức lao động
đã hao phí về mặt thể lực mà cần tạo cho con người có khả năng hiểu biết
nhất định cả về văn hóa và chuyên môn. C.Mác viết: "Để cho sức lao động phát
10
triển theo hướng nhất định phải có sự giáo dục nào đó, mà chính sự giáo dục

này lại tốn một lượng hàng hóa ngang giá" [6, tr. 240].
Như vậy, giá trị sức lao động bao gồm:
1. Giá trị của những chi phí để nuôi dưỡng con người trước và sau
tuổi có khả năng lao động.
2. Giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để bù đắp lại sức lao
động đã hao phí trong quá trình lao động.
3. Giá trị của những chi phí cần thiết cho giáo dục nhằm tích lũy khả
năng chuyên môn, kiến thức xã hội.
Giá trị sức lao động không phải là một yếu tố cố định, nó có thể thay
đổi, khác nhau giữa các khu vực, các vùng tùy từng giai đoạn phát triển nhất
định. Tuy vậy, trong mỗi thời kỳ nhất định, tại một thị trường lao động cụ thể,
giá trị sức lao động có thể xác định được và tương đối ổn định. Trong kinh tế
thị trường, giá trị sức lao động có thể dao động quanh giá trị của nó tùy thuộc
vào quan hệ cung cầu sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện rõ trong quá
trình NSDLĐ (người mua) sử dụng sức lao động của NLĐ (người bán). Và
như trên đã trình bày, giá cả của sức lao động khi trao đổi được biểu hiện
thông qua tiền lương. Như vậy, với tư cách là giá cả sức lao động, tiền lương
phải được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận tự nguyện của các bên. Tuy
nhiên, sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt vì vậy việc xác định chính
xác giá trị của nó để từ đó đưa ra giá cả (mức tiền lương) phù hợp là không
đơn giản. Hơn nữa, với thuộc tính nảy sinh giá trị khi sử dụng, trong điều kiện
khan hiếm việc làm và người mua (NSDLĐ) thường là kẻ mạnh trong quan
hệ, vì vậy, người bán (NLĐ) dễ bị ép giá, thiệt thòi trong quá trình trao đổi
này. Chính vì vậy, pháp luật HĐLĐ một mặt phải đảm bảo quyền tự do thỏa
thuận, bình đẳng giữa các chủ thể về giá cả (tiền lương) khi mua bán sức lao
động, mặt khác cần có các quy định nhằm kiểm soát, can thiệp và hỗ trợ khi
11
các bên thương lượng về giá cả sức lao động, sao cho giá cả hàng hóa sức lao
động nếu không phản ánh đầy đủ thì cũng tiệm cận gần nhất với giá trị và giá

trị sử dụng của hàng hóa sức lao động.
1.2. QUAN HỆ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN
ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nằm trong bối cảnh chung của sự hình thành và ra đời nền kinh tế thị
trường, quan hệ lao động trong thị trường lao động ở nước ta mới chỉ xuất
hiện và phát triển trong những năm gần đây. Trước đó, như chúng ta đều biết,
trong một thời gian dài, nước ta duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp trên cơ sở của chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất với sự
thống trị độc tôn của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Khi đó, được làm
việc trong khu vực nhà nước là giấc mơ ngự trị trong tâm tư, nguyện vọng của
đại bộ phận NLĐ, bởi đồng nghĩa với việc làm lúc đó là sự đảm bảo, bao cấp
suốt đời về chế độ, quyền lợi cho NLĐ. Trong điều kiện và cơ sở kinh tế như
vậy, không thể có sự tồn tại hợp pháp của thị trường lao động cũng như quan
hệ lao động mang yếu tố của thị trường.
Từ sau Đại hội VI, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần cũng có nghĩa rằng thừa nhận sự tồn tại và phát triển của
kinh tế thị trường. Với nguyên tắc "tự do kinh doanh" đã được Hiến pháp
1992 quy định, lần đầu tiên quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc của
NLĐ, quyền chủ động tuyển chọn, bố trí lao động sử dụng lao động của người
thuê mướn lao động được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Bên cạnh đó, do sắp
xếp tổ chức lại lao động trong khu vực nhà nước, do nhu cầu việc làm của
NLĐ, do nhu cầu về sức lao động cho các thành phần kinh tế khác , tất cả
những yếu tố đó cùng với một môi trường pháp lý thuận lợi đã tạo điều kiện
cho sự ra đời và phát triển của thị trường lao động. Theo đó, quan hệ lao động
trong thị trường cũng được thừa nhận và phát triển.
12
Tuy nhiên, do phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở của nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, bao cấp mà ở đó trong một thời kỳ dài các quan hệ
kinh tế, xã hội trong đó có quan hệ lao động (cho nên: việc làm, tiền lương,
phúc lợi ) được nhà nước bao cấp toàn bộ. Từng quen với quan niệm coi lao

động là một giá trị xã hội và tinh thần cao nhất, một giá trị tự thân, thoát ra
ngoài sự trao đổi, từng quen với quan niệm giải quyết việc làm cho mọi công
dân là trách nhiệm của nhà nước, nhiều người không khỏi bỡ ngỡ khi phải
thay đổi cách nhìn của mình. Bởi vì từ nay, lao động cũng không thể nằm bên
ngoài các quan hệ thị trường. Dù có coi sức lao động mang những phẩm chất
đặc biệt như thế nào đi chăng nữa, thì nó vẫn là một thứ hàng hóa để mua bán
theo giá trị của nó trên thị trường, xét trong mối tương quan với hàng hóa
khác và ngay cả với chính nó. Mặt khác, do được thừa nhận tương đối muộn
hơn, nên có thể nói rằng, hơn ở bất cứ lĩnh vực nào, thị trường lao động nói
chung và quan hệ lao động nói riêng hình thành chậm và yếu hơn [57, tr. 7,8].
Hơn nữa, mô hình kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả những điều đó tạo ra những nét đặc trưng của
quan hệ lao động ở Việt Nam. Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa rất quan
trọng, bởi nó là cơ sở để chúng ta hoạch định chính sách lao động và việc
làm, đồng thời là căn cứ để xây dựng thể chế pháp lý điều chỉnh quan hệ lao
động trong thị trường lao động.
Quan hệ lao động ở Việt Nam có những đặc trưng chính sau đây:
- Các yếu tố tạo lập quan hệ lao động chưa đồng bộ, phân tán và mang
tính tự phát.
- Quan hệ lao động ở nước ta được thiết lập và thực hiện trong tình
trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động.
- Quan hệ lao động đang trong quá trình phân hóa, biến đổi.
- Mang đặc điểm chung của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị
trường nước ta - đó là tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
13
1.2.1. Đặc trưng thứ nhất: Các yếu tố tạo lập quan hệ lao động
chưa đồng bộ, phân tán và mang tính tự phát.
Các yếu tố chủ yếu để quan hệ lao động hình thành, vận động và phát
triển bao gồm: Người mua, người bán, hàng hóa, sự di chuyển lao động, nhận
thức của các chủ thể khi tham gia thị trường và các thể chế pháp lý Các yếu

tố nói trên đã xuất hiện và được thừa nhận trong thị trường lao động nước ta
nhưng chưa đồng bộ, còn mang tính tự phát và bị phân tán. Cụ thể:
- Thứ nhất: NLĐ, NSDLĐ là các chủ thể trực tiếp tham gia quan hệ
trên thị trường nhưng nhận thức của họ về quan hệ lao động với tư cách là
quan hệ mua bán hàng hóa trên thị trường, về địa vị pháp lý của họ trong
quan hệ, về quy định pháp luật rất đáng lo ngại. Điều này được cắt nghĩa
bởi các lý do: Trước hết, thị trường lao động ở nước ta được xây dựng trên cơ
sở của chế độ lao động, việc làm được nhà nước bao cấp, kế hoạch hóa từ
tuyển dụng, bố trí, sắp xếp công việc đến chế độ, quyền lợi của NLĐ và
trong quan hệ đó NLĐ, NSDLĐ đều được coi là chủ của quá trình lao động,
sản xuất - kinh doanh. Trong khi đó mối quan hệ lao động trong thị trường là
mối quan hệ chủ - thợ, giữa người thuê mướn và người làm thuê. Chính vì
vậy, khi tham gia quan hệ trong nhiều trường hợp các chủ thể không xác định
đúng vị thế của mình dẫn đến các hành vi xử sự hoặc đòi hỏi không đúng
mức, gây ra sự hiểu lầm đáng tiếc thậm chí xung đột trong quan hệ. Mặt khác,
do chưa có thói quen lấy pháp luật làm chuẩn mực cho hành vi xử sự, làm
công cụ để bảo vệ mình - do đó, sự nhận thức, hiểu biết pháp luật lao động
của các chủ thể còn rất hạn chế - ví dụ: Theo báo cáo sơ kết việc thi hành
Bộ luật Lao động của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng liên
đoàn Lao động Việt Nam tháng 7/1998 thì một bộ phận NLĐ cho rằng ký
HĐLĐ hay không ký cũng giống nhau vì việc làm, tiền lương và các quyền
lợi khác cũng không thay đổi ?! còn đại bộ phận NSDLĐ hầu như chưa đọc
hoặc mới chỉ xem qua Bộ luật Lao động vì cho rằng không cấp thiết so với
14
các yêu cầu khác trong sản xuất, kinh doanh hoặc đã có bộ phận chuyên môn
giải quyết vấn đề này. Tất nhiên, tình trạng này còn do nhiều nguyên nhân
khác nhau nhưng nó ảnh hưởng đáng kể đến sự vận động bình thường của thị
trường
lao động.
- Thứ hai: Sự thích ứng, linh hoạt, nhạy bén của NLĐ (nguồn cung lao

động) trong thị trường còn nhiều hạn chế. Nhìn chung tâm lý NLĐ Việt Nam là
mong muốn có một công việc và thu nhập ổn định (an phận) ít dám mạo hiểm và
chấp nhận thách thức. Vì vậy, bản thân NLĐ khi đã có việc làm, rất ít thay đổi
nghề nghiệp "72% lực lượng lao động chưa bao giờ thay đổi việc làm và 84,5%
số NLĐ đang có việc làm hiện hành chưa bao giờ đổi nghề (Henaff, Martin,
1999)" [29, tr. 99]. Ngoài ra, họ tương đối thụ động trong việc tham gia thị
trường (tìm kiếm việc làm), trong số những người đi tìm việc làm năm 1997 bao
gồm người làm thuê, người thất nghiệp, hay người đi xin việc làm nhưng không
có kinh nghiệm nghề nghiệp thì "61% mong muốn kiếm được một việc làm
được trả lương, trong đó 48% trong khu vực nhà nước, 18% trong khu vực tư
nhân, và 18% trong khu vực hành chính sự nghiệp, 27% không bày tỏ nguyện
vọng gì và 12% mong tự tạo việc làm" [29, tr. 63]. Điều này cho phép ta đánh
giá rằng, NLĐ không sẵn sàng làm việc theo hình thức tự tạo việc làm. Về vấn
đề này, Giáo sư kinh tế Geoffrey B. Hainsworth giám đốc Trung tâm nghiên cứu
Đông nam Á, trường Đại học Tổng hợp Columbia Anh quốc nhận xét:
Việt Nam đã có một thị trường lao động chắp vá, nơi mà
hầu hết người dân nhìn chung vẫn giữ nguyên công việc và nơi sinh
sống suốt cuộc đời và tập quán giữ nguyên ngành nghề như vậy
không thay đổi nhiều trong thời kỳ đổi mới, mặc dầu đã có sự nhấn
mạnh đến việc mở rộng sự lựa chọn phát triển con người, tính sáng
tạo cá nhân và tự lực cánh sinh [29, tr. 100].
15
Thực trạng này cho thấy một nghịch lý là nguồn cung lao động ở nước
ta rất dồi dào nhưng nguy cơ xơ cứng của quan hệ lao động trong thị trường là
rất đáng báo động. Mặt khác, nó cũng cho thấy vấn đề tự học tập, đào tạo của
NLĐ nói riêng và của xã hội nói chung nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị
trường là đáng lo ngại.
- Thứ ba: Hiện nay, do tác động của thị trường cùng với những quy
định nhằm đảm bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc của công dân
nên sự di chuyển các dòng lao động trên thị trường lao động nước ta tương

đối dễ dàng và thuận tiện. Sự vận động này là cần thiết cho sự thiết lập quan
hệ lao động trong thị trường và bước đầu đã tuân theo các quy luật của thị
trường, góp phần điều chỉnh từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm giảm sức ép việc
làm trong cả nước. Tuy nhiên, ở nước ta, nhìn chung thị trường chưa thống
nhất nên việc di chuyển lao động là không bình thường, mang tính tự phát lớn
và sự kiểm soát từ cơ quan quản lý nhà nước còn rất hạn chế. Chủ yếu các
dòng di chuyển lao động là từ nông thôn ra thành thị, từ đồng bằng Bắc Bộ
vào khu vực Tây Nguyên Sự di chuyển này, như trên đã trình bày chủ yếu
mang tính tự phát - do đó, đã gây áp lực rất lớn, không bình thường về lao
động, việc làm cũng như các vấn đề xã hội khác cho thị trường. Nguyên nhân
của tình trạng trên có nhiều, song chủ yếu vẫn do nhu cầu bức xúc về việc
làm, do sự hấp dẫn của vùng đất mới, sự phồn vinh của các đô thị và công tác
quản lý nhà nước còn nhiều bất cập
Để hạn chế các tồn tại nói trên, nhằm thiết lập đồng bộ các yếu tố để
đảm bảo tính thống nhất, sự vận động ổn định của quan hệ lao động, nhà nước
cần có các chính sách việc làm, chính sách đầu tư, kế hoạch di dân xây dựng
vùng kinh tế mới, cung cấp thông tin, giáo dục, tuyên truyền, giải thích về
quan hệ lao động, về thị trường lao động đồng thời cần có những quy định
cần thiết của pháp luật lao động đảm bảo quyền lợi đồng thời ràng buộc chặt
16
chẽ trách nhiệm của các bên nhằm tạo sự ổn định lâu dài của quan hệ lao
động trong một thị trường lao động thống nhất.
1.2.2. Đặc trưng thứ hai: Quan hệ lao động ở nước ta được thiết
lập và thực hiện trong tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và
cầu lao động
Trạng thái của quan hệ lao động phụ thuộc rất nhiều vào tương quan
cung cầu trong thị trường lao động, tức mối quan hệ giữa nguồn cung và cầu
sức lao động. Nếu cung, cầu cân đối thì quan hệ lao động diễn ra ổn định,
bình đẳng, giá cả phản ánh đúng giá trị sức lao động. Tuy nhiên, trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường, hơn nữa ở nước ta quan hệ lao động lại đang

trong quá trình chuyển đổi vì thế hiện đang có sự mất cân đối rất lớn giữa
cung và cầu lao động, sự mất cân đối này không chỉ là số lượng mà còn cả về
chất lượng sức lao động và hiện tượng này được dự báo là còn kéo dài trong
nhiều năm nữa. Vì thế, làm rõ mối quan hệ này không chỉ có ý nghĩa về mặt
xã hội, về giải quyết việc làm mà còn là cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật
lao động nhằm làm hạn chế sự căng thẳng của tình trạng mất cân đối nói trên.
Quá trình hình thành nguồn lao động gắn với quy mô, cơ cấu và tốc độ
tăng dân số. Vì thế, cần làm rõ mối quan hệ giữa phát triển dân số, các nguồn lao
động với cung về sức lao động. Dân số nước ta đứng thứ 13 trên thế giới, tốc
độ tăng dân số tự nhiên là 1,4% [16, tr. 151] ở nước ta hiện nay vẫn là một trong
những nước có tỷ lệ tăng dân số vào loại cao. Hiện nay, dân số nước ta là
khoảng 80 triệu người (năm 1999 là 76.323.173 người [28, tr. 3]). Theo Báo
cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010
nếu chúng ta giảm được tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,5%0 thì đến năm
2010 dân số nước ta khoảng 88 - 89 triệu người với 56, 8 triệu người trong
lứa tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000 [16, tr. 210]. Còn với
17
tốc độ tăng dân số như hiện nay thì con số đó sẽ cao hơn nhiều. Thực tế đó đặt
chúng ta trước một sự lựa chọn quyết liệt bởi vấn đề dân số đang là vấn đề
nóng bỏng và tạo sức ép về nhiều mặt không chỉ là lao động và việc làm. Cơ
cấu dân số nước ta thuộc loại hình dân số trẻ, dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 50%, trên độ tuổi lao động 13%, dưới độ tuổi lao động 37% [21, tr. 66].
Lực lượng lao động tăng tự nhiên mỗi năm ở nước ta là khoảng 1,2 triệu
người [16, tr. 255]. Vì vậy, áp lực về việc làm rất lớn. Hiện tại số lao động
chưa có việc làm ở nước ta nói chung, ở thành thị nói riêng và đặc biệt ở một
số thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung rất lớn (tỷ lệ thất nghiệp năm
2000 ở thành thị là 6,4%) [16, tr. 256]. Trong số người chưa có việc làm thì
80% thuộc lứa tuổi thanh niên, phần lớn họ là người chưa có nghề, thiếu vốn
để tổ chức làm ăn, một số còn lại là những người tốt nghiệp ở các trường

chuyên nghiệp và dạy nghề, là người bị mất việc làm, bộ đội xuất ngũ, lao
động từ nước ngoài trở về. Nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và 70% số
dân làm nghề nông [26, tr. 88]. Tuy nhiên, cầu về lao động ở nông thôn còn rất
yếu bởi việc áp dụng khoa học kỹ thuật, tốc độ phát triển, diện tích canh tác
hạn chế. Hiện nay, đất đai canh tác bình quân trên một lao động ở nông thôn
rất thấp (0,3 ha/1 lao động), "tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông
thôn mới đạt 73,8% đang trở thành vấn đề gay gắt, nổi cộm nhất hiện nay"
[16, tr. 256]. Nghèo đói và thiếu việc làm là nguyên nhân dẫn tới việc di cư
của người nông dân ra thành thị, không những làm dân số đô thị tăng nhanh
(bình quân khoảng 4,3% năm) [27, tr. 28] mà còn gia tăng sức ép về lao động.
Cung về lao động như vậy, còn cầu thì sao? Thị trường lao động nước
ta thể hiện rất rõ nét tình trạng mất cân bằng và cơ cấu lạc hậu. Trước hết,
quan hệ cung cầu lao động của chúng ta vừa thừa lại vừa thiếu. Theo thống
kê, đại bộ phận những NLĐ ở nước ta là lao động có trình độ giản đơn - kết
quả thu được thông qua cuộc tổng điều tra dân số 1999 liên quan đến trình độ,
18
nghề nghiệp đã được cấp chứng chỉ hay có văn bằng của dân số trong độ tuổi
từ 13 trở lên cho thấy: Lao động không có tay nghề 92,2%, công nhân kỹ
thuật 2,5%, kỹ thuật viên 2,8%, đại học - cao đẳng 2,5% [29, tr. 23]. Như vậy,
thị trường chúng ta lao động phổ thông "thừa tương đối", lao động chất lượng
cao "thiếu tuyệt đối" nhất là số lao động kỹ thuật, thợ lành nghề, quản lý còn
rất thiếu (hiện thị trường lao động nước ta có khoảng hơn 6000 người nước
ngoài vào làm việc [3, tr. 19] trong đó rất nhiều người là các cố vấn, chuyên
gia, cán bộ quản lý, kỹ thuật do lao động Việt Nam không đảm đương được).
Khu vực kinh tế nhà nước trước đây là "cái túi" chứa đựng, giải quyết phần
lớn nhu cầu lao động của xã hội thì hiện nay, sau một thời kỳ đổi mới, sắp
xếp, tổ chức lại, tinh giản biên chế chỗ làm việc giảm rất mạnh. Điều này là
hợp lý và cần thiết, bởi doanh nghiệp nhà nước cũng chỉ nên đảm nhiệm một
số ngành then chốt mà không nên và không cần thiết có mặt ở mọi lĩnh vực.
Khu vực kinh tế tập thể cũng đang thu hẹp dần vì hiệu quả thấp nên cũng

chuyển hướng kinh doanh thành các loại hình kinh tế khác (đặc biệt khu vực
nông nghiệp cung rất lớn nhưng lại luôn trong tình trạng thiếu việc làm, năng
suất lao động thấp có nghĩa là cầu rất hạn chế). Thực tế hiện nay, nơi có nhu
cầu lao động, khả năng giải quyết việc làm nhiều nhất là khu vực kinh tế tư
nhân. Năm 1998, khu vực nhà nước chiếm 46% sản phẩm và 24% tổng số
việc làm trong khu vực công nghiệp, trong khi tổng sản phẩm của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài là 32% và việc làm là 12% và khu vực ngoài quốc
doanh nội địa chiếm 24% tổng sản phẩm và 64% tổng số việc làm. Khu vực
năng động nhất là hàng triệu doanh nghiệp hộ gia đình và hàng ngàn doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra hơn 75% tổng sản phẩm công nghiệp ngoài quốc
doanh và chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng số việc làm của khu vực công
nghiệp tư nhân [29, tr. 107]. Các số liệu trên cho thấy, với tốc độ phát triển
kinh tế như hiện nay, khả năng giải quyết việc làm ở khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh hiện nay và trong tương lai là một tiềm năng rất lớn. Và điều đó
19
cũng cho phép ta suy nghĩ phải chăng hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ
lao động nước ta cũng cần phải chú ý hướng tới việc điều chỉnh quan hệ lao
động trong khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp hộ gia đình nơi
mà lao động thường xuyên biến động, thời gian thực hiện quan hệ ngắn, việc
làm bấp bênh nhưng khả năng tạo và giải quyết việc làm tức nguồn cung lao
động của khu vực này là rất cao (hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng dường
như pháp luật lao động mới chỉ chú ý đến việc điều chỉnh quan hệ lao động
trong các doanh nghiệp có quy mô lớn với tiềm lực kinh tế, năng suất lao
động, việc làm tương đối ổn định).
Trên đây là bức tranh không mấy sáng sủa về quan hệ cung cầu của
quan hệ lao động trong thị trường lao động Việt Nam. Mặc dù nhiều chuyên
gia cho rằng nước ta lực lượng lao động thông minh, cần cù, trẻ, số lượng
trong độ tuổi lao động lớn là một thế mạnh - song, có lẽ hiện tại và kể cả một
vài năm tới chúng ta nên nhìn nhận điều đó như một khó khăn cần giải quyết
nhiều hơn là một lợi thế cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.

Để giải quyết một cách hữu hiệu và hạn chế sức ép quá lớn về cung
cầu lao động để từ đó quan hệ lao động có thể vận động và phát triển lành
mạnh, rõ ràng vai trò của nhà nước ở đây rất quan trọng. Một cách tổng quát
là nhà nước cần có sự tác động cả vào cung cầu lao động, dần dần làm cho
cung và cầu lao động đạt trạng thái cân bằng. Mặt khác, trước thực trạng của
cung, cầu lao động như vậy các quy định pháp luật về thiết lập, thực hiện
quan hệ lao động phải chăng cần chú ý hướng đến mục đích cao nhất là giải
quyết việc làm, hạn chế sự căng thẳng và sức ép của tình trạng mất cân đối về
cung cầu lao động trong thị trường lao động ở nước ta?.
1.2.3. Đặc trưng thứ ba: Quan hệ lao động đang trong quá trình
phân hóa, biến đổi
20
Trong một thời gian rất dài, ở nước ta quan hệ lao động về cơ bản chỉ
được thừa nhận trong khu vực kinh tế quốc doanh. Hình thức pháp lý để thiết
lập quan hệ lao động từ doanh nghiệp đến cơ quan nhà nước chủ yếu thông
qua chế độ tuyển dụng vào biên chế. Có nghĩa rằng, tất cả các quan hệ lao
động được hành chính hóa và được nhà nước bao cấp tuyệt đối như nhau. Sau
khi thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường, chúng ta tiến hành sắp xếp
và tổ chức lại các quan hệ lao động trong xã hội. Quyết định 217/HĐBT ngày
14/11/1987 quy định tất cả các quan hệ lao động trong các doanh nghiệp nhà
nước (trừ giám đốc, kế toán trưởng - sau này các văn bản pháp luật khác bổ
sung thêm chức danh phó giám đốc, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, thành
viên hội đồng quản trị doanh nghiệp nhà nước) đều thiết lập quan hệ thông
qua hình thức HĐLĐ. Quan hệ tuyển dụng vào biên chế nhà nước chủ yếu chỉ
áp dụng với công chức nhà nước, người làm việc chuyên trách trong các tổ
chức chính trị - xã hội. Khi chuyển sang ký HĐLĐ, thì những người thuộc
chế độ biên chế được chuyển sang ký với loại HĐLĐ không xác định thời
hạn, những đối tượng khác được ký hợp đồng với loại thời hạn phù hợp với
yêu cầu công việc. Sau đó, Pháp lệnh HĐLĐ ngày 30/8/1990 cũng quy định
với nội dung tương tự. Tuy nhiên, việc giao kết HĐLĐ trong thời gian này ở

doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập. Đến nay, với sự hỗ trợ của các quy
định có hiệu lực pháp lý cao hơn (Bộ luật lao động ngày 23/6/1994) việc triển
khai, tổ chức ký HĐLĐ trong các doanh nghiệp nhà nước đạt tỷ lệ tương đối
cao (năm 1997 là 82% [3, tr. 6], tại thành phố Hồ chí Minh năm 2000 là
90,7% [45, tr. 5]). Tuy nhiên, do lịch sử của vấn đề mà quan hệ lao động
trong khu vực nhà nước chưa thực sự mang bản chất quan hệ thuê mướn lao
động với những nội dung kinh tế, pháp lý đích thực của nó. Điều này thể hiện
rất rõ trong quá trình tuyển dụng, quản lý lao động, xử lý kỷ luật, chấm dứt
hợp đồng, giải quyết việc làm và nó làm ảnh hưởng đáng kể đến việc tinh
giản biên chế, sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, có một
thực tế là mặc dù quy định của pháp luật không có sự phân biệt giữa NLĐ làm
21
việc trong các khu vực kinh tế khác nhau, nhưng về mặt tâm lý NLĐ vẫn
thích làm việc trong khu vực nhà nước và khi làm việc ở khu vực tư nhân
thường với thái độ tạm bợ, không yên tâm, không toàn tâm, toàn ý gắn bó với
doanh nghiệp - đây cũng là một trong những bức xúc của doanh nghiệp tư
nhân hiện nay trong vấn đề sử dụng lao động. Điều này cho thấy tính phức tạp
của quá trình chuyển đổi, phân hóa quan hệ lao động ở nước ta và những yêu
cầu đặt ra với hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động. Đối với khu
vực kinh tế tư nhân chúng ta vừa buông lỏng quản lý lại vừa thiếu quan tâm,
nên quan hệ lao động diễn biến rất phức tạp. Tại thành phố Hồ Chí Minh, một
trong những nơi thị trường lao động hoạt động sôi động nhất ở nước ta - thì
năm 2000 tỷ lệ ký HĐLĐ ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nước
chỉ là 66,42% [45, tr. 5], nhưng trong số HĐLĐ đã được ký kết còn có nhiều
vi phạm về hình thức, thời hạn, nội dung [45, tr. 8] nói cách khác nguy cơ
vô hiệu của hợp đồng là tương đối phổ biến mặc dù hợp đồng vẫn đang được
thực hiện. Có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến tình trạng nói
trên - tuy nhiên, có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất, do sự chuyển đổi từ quan
hệ lao động hành chính, bao cấp (với sự đảm bảo của nhà nước về quyền lợi,
chế độ, việc làm ) sang quan hệ lao động thuê mướn trong thị trường (do hai

bên thỏa thuận và chịu sự điều tiết của thị trường) nên không thể tránh khỏi
có sự hạn chế trong nhận thức về bản chất đích thực của quan hệ hợp đồng
dẫn đến sự dè dặt, e ngại khi xác lập và thực hiện quan hệ lao động theo hợp
đồng, đặc biệt từ phía NLĐ. Thứ hai, do sự triển khai và áp dụng thiếu đồng
bộ hệ thống pháp luật lao động (Bộ luật Lao động có hiệu lực từ 1/1/1995 đến
thời điểm tháng 4/2002 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11 sửa đổi, bổ
sung nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa triển khai được vì thiếu văn bản
hướng dẫn). Ngoài ra, các quy định của Bộ luật còn nhiều bất cập, thiếu tính
khả thi làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh của luật Lao động. Có thể nói, chúng
ta có thị trường lao động nhưng chưa có hệ thống pháp luật đồng bộ, chưa có
các chủ thể hoàn hảo xét cả về tư cách cũng như ý thức pháp luật. Như vậy,
22
sự phân hóa và chuyển đổi của quan hệ lao động trong thị trường lao động
nước ta dường như là tất yếu và nhiệm vụ của pháp luật lao động là phải thúc
đẩy quá trình chuyển đổi này nhanh chóng, triệt để hơn, sâu sắc và toàn diện
hơn nhằm trả lại các giá trị đích thực cho các quan hệ lao động trong điều
kiện nền kinh tế thị trường.
1.2.4. Đặc trưng thứ tư: Quan hệ lao động mang đặc điểm chung
của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường nước ta - đó là tính
định hướng xã hội chủ nghĩa
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức mới của Đảng về con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là chế độ kinh tế, trong đó mọi năng
lực được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể, cộng đồng dân tộc
được khai thác nhằm phục vụ mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [16,
tr. 22]. Từ những thất bại phổ biến về mặt phát triển kinh tế ở hàng loạt nước
lựa chọn mô hình kinh tế hiện vật, có thể rút ra kết luận: không phải chế độ
kinh tế xã hội chủ nghĩa thua kém chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa mà là kinh
tế hiện vật thua kém kinh tế hàng hóa. Phủ định quan hệ thị trường, kinh tế thị

trường, chủ nghĩa xã hội trước đây đã trả giá đắt cho cuộc thử nghiệm của
mình. Tuy nhiên, phải nói chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là bước chuyển rất phức tạp, chưa hề có trong tiền lệ lịch sử.
Mấy năm qua bên cạnh những thành tựu của đổi mới, chúng ta đã thấm thía
những hậu quả tiêu cực mà kinh tế thị trường đem lại. Chúng ta cũng gặp
nhiều thiếu sót, sai lầm, lệch lạc trong các chính sách xã hội, thậm chí không
những chúng ta không phát huy, không nhân lên mà còn đánh mất một số
thành quả đã đạt được trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, trong chính
23
sách đối với nhân dân, với đồng bào miền núi, với các gia đình có công với
cách mạng.
Với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thị trường, thị trường lao
động cũng nằm trong lộ trình chung của nền kinh tế. Thừa nhận phạm trù sức
lao động là hàng hóa đã mở đường cho sự ra đời của thị trường lao động, tuy
nhiên, chúng ta cũng nhận thức rằng hàng hóa sức lao động là một loại hàng
hóa đặc biệt, nó luôn gắn liền với cơ thể, cuộc sống của NLĐ. Quá trình sử
dụng lao động luôn liên quan chặt chẽ đến các vấn đề như danh dự, nhân
phẩm, nhân cách của NLĐ, đến việc tổ chức, sắp xếp, quản lý lao động của
NSDLĐ. Mặt khác, trước sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, nhóm lao
động yếu thế (lao động chưa thành niên, lao động nữ, lao động tàn tật) dễ bị
tổn thương, rất khó tìm kiếm việc làm. Hơn nữa, với sự mất cân đối nghiêm
trọng về cung cầu lao động vấn đề việc làm và ổn định việc làm là mối lo
thường trực và là sự thách thức rất lớn với NLĐ. Chính vì vậy, với mục tiêu
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi con người là trung tâm của sự phát triển trên
cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp các bên, các quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ lao động phải hướng tới việc đảm bảo và giải quyết việc
làm cho NLĐ, ổn định lực lượng lao động cho đơn vị sử dụng lao động, ngăn
cấm và nghiêm khắc xử lý các hành vi phân biệt đối xử, ngược đãi, xúc phạm
NLĐ, vi phạm kỷ luật lao động, chấm dứt quan hệ trái pháp luật Chúng ta
coi sự mua bán sức lao động là khách quan trong thị trường, song cũng khẳng

định: "Thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động
nhưng không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn tới sự phân hóa xã hội
thành hai thái cực đối lập" [15, tr. 92].
1.3. CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
Khi thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước
ta chủ trương phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường kết hợp với sự quản
24
lý nhà nước theo mô hình định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng này thể hiện ở
các mức độ khác nhau trong các văn kiện của Đại hội Đảng. Chúng ta chủ
trương và quyết tâm: "Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với vai trò tăng cường quản lý của Nhà nước
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái" [15,
tr. 72]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định:
"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [16, tr. 86]. Sự
đúc kết trên đây không phải là một kết quả nhất thời mà nó phản ánh sự phát
triển về mặt nhận thức thông qua thực tế thực hiện công cuộc đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta. Trên cơ sở đó và tổng kết 15 năm đổi mới, Văn kiện
Đại hội IX của Đảng đã xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Về mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
+ Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
+ Nâng cao đời sống nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới, phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
- Về các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế: Nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế
tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
25

×