Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng trong dự án đầu tư xây dựng Trung tâm thương mại chợ Hôm – Đức Viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.94 KB, 98 trang )

Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo xu hướng hội nhập quốc
tế, Đảng và Nhà Nước đã và đang thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó Nhà nước
cần chú trọng phát huy nội lực đất nước, trong bối cảnh này, hoạt động đầu tư xây
dựng cơ bản được đánh giá là ngành kinh tế kỹ thuật hết sức quan trọng, bởi nó liên
quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, lại sử dụng nguồn tài chính và nhân lực hết sức to
lớn.
Thực tế cho thấy tại nước ta hoạt động đấu thầu trong xây dựng hết sức phổ
biến và có vai trò đặc biệt quan trọng. Đấu thầu trong xây dựng tuy còn mới, nhưng
qua nhiều bước hoàn thiện đã chứng tỏ sự phù hợp và tất yếu cần áp dụng trong nền
kinh tế, nó thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi phí đầu tư xây
dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân nhà thầu về năng lực và tổ chức để đảm
bảo đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư về chất lượng công trình cũng như tiến độ
thực hiện.
Pháp luật về đấu thầu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thực thi hiệu
quả công tác đấu thầu. Nhìn chung Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc ban hành và
từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu
thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
của Nhà nước nhưng có thể nói tư duy luật chưa đạt yêu cầu, các văn bản được ban
hành liên tiếp và thay đổi liên tục, có khi cùng một lúc áp dụng nhiều văn bản khác
nhau, có khi một văn bản mới ban hành đã sửa đổi, điều này gây khó khăn cho việc
áp dụng cũng như trong công tác kiểm soát hoạt động đấu thầu.
Là một thành phố Thủ đô, Hà Nội luôn là một trong những thành phố đi đầu
trong việc phát triển thương mại, thị trường Hà Nội đã và đang có những tiến bộ mới.
Để đáp ứng nhu cầu đó, Thành phố Hà Nội luôn quan tâm đến việc đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng. Hiện nay Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đang chú
trọng chuyển đổi mô hình quản lý kinh doanh khai thác chợ trên địa bàn thành phố.
11


Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Tại các quận nội thành, chủ trương thành phố chủ yếu thực hiện chuyển đổi mô hình
kết hợp với đầu tư xây dựng lại, thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế. Trong
số các dự án đó có dự án đầu tư xây dựng chợ Hôm thuộc quận Hai Bà Trưng thành
trung tâm thương mại Chợ Hôm – Đức Viên. Dự án này được đưa ra đấu thầu năm
2007 nhưng cho tới hiện nay vẫn chưa khởi công được do phải tổ chức đấu thầu lại.
Trong thời gian thực tập tại phòng Thanh tra – Sở Thương mại Hà Nội, tôi
được tiếp xúc nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn thành phố
Hà Nội, nhận thức được vai trò của đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng,
nhận thức được thực tiễn áp dụng pháp luật đấu thầu xây lắp trong việc đấu thầu dự
án đầu tư xây dựng Trung tâm thương mại Chợ Hôm – Đức Viên, trong phạm vi khóa
luận này tôi viết về “Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng trong
dự án đầu tư xây dựng Trung tâm thương mại chợ Hôm – Đức Viên”.
Khóa luận này gồm các nội dung chính sau:
Chương 1: Lý luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật đấu thầu xây lắp trong dự án đầu tư
xây dựng Trung tâm thương mại Chợ Hôm – Đức Viên - Nhìn từ góc độ Sở Thương
mại Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp, kiến nghị nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về đấu thầu xây lắp.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Ths
NGUYỄN HỮU MẠNH và Ths ĐỖ KIM HOÀNG đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành bài viết này. Và khóa luận của tôi cũng
không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ của các cán bộ phòng Thanh tra – Sở
Thương mại Hà Nội. Do kiến thức có hạn, khả năng tiếp xúc và nhận thức thực tiễn
còn hạn chế nên khóa luận này không tránh khỏi những sai sót, kính mong quý vị góp
ý để bài viết của tôi hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ

22
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
ĐẤU THẦU XÂY LẮP
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU
1. Khái niệm đấu thầu
Trên thực tế hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về đấu thầu. Theo từ điển
tiếng Việt thì “đấu thầu là việc tổ chức cuộc đọ sức công khai ai nhận làm, ai bán
với điều kiện tốt nhất thì được chấp nhận”
1
. Theo quan niệm này thì đấu thầu được
hiểu là cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức, cá nhân về kỹ thuật và tài chính, nó
giống như một sân chơi mà trong đó người cung ứng điều kiện tốt nhất sẽ chiến
thắng.
Xét trên khía cạnh pháp luật thì tại Việt Nam từ trước tới nay cũng đã có một
số văn bản pháp luật nêu định nghĩa về đấu thầu:
Theo quan niệm của bên mời thầu cũng như theo Quy chế đấu thầu ban hành
kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999 về ban hành
quy chế đấu thầu thì đấu thầu được hiểu là “quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng
được yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu”.
Theo quan niệm của nhà thầu thì đấu thầu giống như một phương thức kinh
doanh mà thông qua đó nhà thầu với các điều kiện và năng lực về tài chính, kỹ thuật
đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu có cơ hội dành được hợp đồng thực hiện
các công việc trong gói thầu. Quan niệm này thể hiện rõ tính chất của đấu thầu là việc
các nhà thầu cạnh tranh công bằng với nhau trên cơ sở năng lực về tài chính cũng như
kỹ thuật và uy tín thực tế của mình để được bên mời thầu chấp nhận giao gói thầu
cho mình thực hiện. Qua đây cũng thể hiện đấu thầu là một lĩnh vực nhạy cảm, sau
mỗi cuộc đấu thầu có nhà thầu trúng thầu và có nhà thầu không trúng thầu.
Như vậy, đứng trên quan điểm của bên mời thầu và nhà thầu thì đấu thầu được
hiểu là cuộc thi tuyển giữa các nhà thầu để thỏa mãn yêu cầu của chủ đầu tư, từ đó
lựa chọn nhà thầu thích hợp nhất.

1 Viện ngôn ngữ học, 2003, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Từ điển học, tr 302
33
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Theo Luật Đấu thầu năm 2005 thì đấu thầu được hiểu là quá trình lựa chọn
nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án
quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và
hiệu quả kinh tế. Các dự án đó bao gồm:
- Dự án sử dụng vốn Nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển,
bao gồm:
+ Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây
dựng;
+ Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
+ Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch
xây dựng đô thị, nông thôn;
+ Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
+ Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển;
- Dự án sử dụng vốn Nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn
vị vũ trang nhân dân;
- Dự án sử dụng vốn Nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải tạo,
sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước.
Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về đấu thầu nhưng về cơ bản thì có
thể hiểu đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên
mời thầu trên cơ sở đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh
tế của gói thầu.
2. Đặc điểm đấu thầu
Từ các quan niệm chung về đấu thầu, có thể thấy đấu thầu có những đặc điểm
sau:

Thứ nhất, chủ thể tham gia đấu thầu gồm có:
44
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Phía bên tổ chức đấu thầu gồm: (1) Bên mời thầu: có thể là chủ đầu tư hoặc tổ
chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức
đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu; (2) Chủ đầu tư: là người sở
hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp
quản lý và thực hiện dự án cần đấu thầu; (3) Người có thẩm quyền: là người được
quyền quyết định dự án theo quy định của pháp luật; (4) Tổ chuyên gia; (5) Tư vấn
Các chủ thể trên thực hiện những công việc nhất định trong quá trình lựa chọn
nhà thầu
Phía bên tham gia lựa chọn nhà thầu gồm có:
+ Nhà thầu: là các tổ chức, có thể là cá nhân, tổ chức trong nước hoặc nước
ngoài, thông thường là các doanh nghiệp và phải đáp ứng được những điều kiện nhất
định theo pháp luật đấu thầu quy định. Nhà thầu gồm có nhà thầu chính, nhà thầu
phụ, có thể là nhà thầu độc lập, nhà thầu liên danh
Thứ hai, mục đích của việc đấu thầu là tuyển chọn nhà thầu có đủ năng lực
đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu.
- Thứ ba, việc lựa chọn nhà thầu theo yêu cầu của bên mời thầu và phải tuân
theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Mỗi hình thức đấu thầu khác nhau
có một trình tự cũng như điều kiện áp dụng khác nhau …
3. Phân loại đấu thầu
Có nhiều cách thức phân loại đấu thầu, như phân loại theo nội dung đấu thầu,
phân loại theo phương thức đấu thầu, phân loại theo hình thức lựa chọn nhà thầu,
phân loại theo phạm vi chủ thể tham gia đấu thầu … Nếu xét theo nội dung đấu thầu
thì có thể phân loại đấu thầu thành 3 loại: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua
sắm hàng hóa, đấu thầu xây lắp.
3.1. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn
55
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46

Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình tuyển chọn các nhà tư vấn có đủ năng
lực, kinh nghiệm chuyên môn trong việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình
chuẩn bị và thực hiện dự án.
Nhà thầu tham gia đấu thầu tuyển chọn tư vấn là các nhà thầu tư vấn, tham gia
đấu thầu để cung cấp các sản phẩm của dịch vụ tư vấn, nó bao gồm các hoạt động
sau:
- Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án: bao gồm những công việc sau
+ Lập, đánh giá, báo cáo quy hoach
+ Tổng sơ đồ phát triển, kiến trúc
+ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi
+ Báo cáo nghiên cứu khả thi
- Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án: bao gồm những công việc sau
+ Khảo sát, lập thiết kế, lập tổng dự toán
+ Lập hồ sơ mời thầu
+ Đánh giá hồ sơ dự thầu
+ Giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị
- Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển
giao công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác
3.2. Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là phương thức đấu thầu nhằm tuyển chọn nhà
cung cấp hàng hóa, thiết bị công nghệ phù hợp, đáp ứng yêu cầu của dự án đầu tư.
Tham gia đấu thầu mua sắm hàng hóa là các nhà thầu cung cấp, họ tham gia đấu thầu,
nhận các gói thầu để cung cấp hàng hóa, bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,
hàng tiêu dùng và các dịch vụ không phải là dịch vụ tư vấn, ví dụ dịch vụ vận
chuyển, kiểm dịch.
3.3 Đấu thầu xây lắp
66
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Đấu thầu xây lắp là phương thức đấu thầu nhằm lựa chọn nhà thầu thực hiện
những công việc xây dựng và lắp đặt các công trình, hạng mục công trình, cải tạo,

sửa chữa lớn. Tham gia đấu thầu xây lắp là các nhà thầu xây lắp, tùy từng dự án khác
nhau mà nhà thầu tham dự phải đáp ứng được những điều kiện nhất định. Những vấn
đề pháp lý liên quan đến đấu thầu xây lắp sẽ được trình bày trong phần II dưới đây.
II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
1. Khái niệm đấu thầu xây lắp và pháp luật về đấu thầu xây lắp
1.1 Khái niệm về đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp được hiểu là hình thức đấu thầu lựa chọn nhà thầu để thực
hiện những công việc xây dựng và lắp đặt các công trình, hạng mục công trình, cải
tạo, sửa chữa lớn.
Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc áp dụng phương pháp xét hiệu quả
thực tế trong việc lựa chọn đơn vị thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi sự so
sánh giữa các đơn vị tham gia đấu thầu trên cùng một phương diện (như kỹ thuật, uy
tín của đơn vị tham dự đấu thầu, tài chính…) để chọn lấy một nhà thầu có đủ khả
năng để thực hiện gói thầu.
Về bản chất đấu thầu xây lắp cũng giống như hoạt động mua bán, tuy nhiên
nó khác những hợp đồng mua bán khác là hàng hóa ở đây là công việc, và chỉ có một
người bán nhưng lại có nhiều người mua. Người bán là chủ đầu tư, người mua là các
nhà thầu, người bán lựa chọn người mua theo nhiều tiêu chí khác nhau như năng lực
thực hiện. Trước đây việc lựa chọn nhà thầu phụ thuộc nhiều vào giá mà người mua
đưa ra tuy nhiên cho đến nay mức giá không ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà thầu,
mà chủ yếu là xét đến yếu tố kỹ thuật, năng lực của nhà thầu, còn mức giá có thể
thương lượng sau đó.
Trên thực tế thấy rằng việc lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng là một
công việc quan trọng bởi có lựa chọn được nhà thầu tốt, có đầy đủ năng lực thì mới
hoàn thành tốt, chất lượng công trình mới được đảm bảo. Trong mỗi một dự án có
những phần việc khác nhau như thiết kế, xây dựng, lắp đặt thiết bị …, việc tổ chức
77
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
đấu thầu có thể chia làm nhiều gói thầu khác nhau và tổ chức lựa chọn nhà thầu thích
hợp để thực hiện những gói thầu đó. Mặt khác, việc lựa chọn nhà thầu còn nhằm tìm

được nhà thầu có đủ điều kiện, năng lực để phù hợp với từng công trình, tuy nhiên
nhà thầu chính có thể giao một phần công việc của hợp đồng đấu thầu cho các nhà
thầu phụ, nhà thầu phụ này cũng phải có đầy đủ năng lực trong xây lắp, có thể thực
hiện tốt phần việc mà nhà thầu chính giao cho, việc này cần phải có sự chấp nhận của
chủ đầu tư, nhà thầu phụ không được giao toàn bộ hoặc phần việc chính trong hợp
đồng đấu thầu cho nhà thầu phụ khác.
Để lựa chọn được nhà thầu tốt nhất thì việc đấu thầu phải đảm bảo những yêu
cầu sau:
- Đáp ứng được hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình,
- Chọn được nhà thầu có đủ điều kiện, năng lực hoạt động xây dựng, năng lực
ngành nghề xây dựng (vấn đề này được trình bày cụ thể trong phần 2.2 dưới đây)
- Khách quan, công bằng, công khai, minh bạch.
1.2. Pháp luật về đấu thầu xây lắp
Pháp luật về đấu thầu xây lắp bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình tổ chức đấu thầu,
thực hiện hợp đồng đấu thầu và quá trình cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đấu thầu.
Pháp luật về đấu thầu xây lắp bao gồm những nhóm quy định cơ bản sau:
- Điều kiện áp dụng đấu thầu xây lắp
- Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia đấu thầu xây lắp
- Quy trình đấu thầu xây lắp
Việc đấu thầu xây lắp tuân theo pháp luật xây dựng, những vấn đề không
được quy định trong pháp luật xây dựng thì sẽ áp dụng pháp luật đấu thầu, đối với dự
án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA), việc đấu thầu được thực
hiện trên cơ sở nội dung điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên hoặc thỏa thuận quốc tế mà cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của
88
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết. Những vấn đề không được quy
định trong các loại văn bản pháp luật trên thì áp dụng các văn bản pháp luật quy định

các vấn đề chung như: Luật dân sự …
Xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Nhà
nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu trong xây lắp đi liền với
quá trình hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về đấu thầu.
Tại Việt Nam, đấu thầu và pháp luật đấu thầu nói chung, đấu thầu xây lắp nói
riêng thực sự hình thành từ khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trước đó cũng có những yêu cầu làm tiền đề cho
việc ban hành pháp luật đấu thầu sau này.
1.2.1. Giai đoạn trước khi có Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định số 43/1996/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 về ban hành Quy chế
đấu thầu
• Giai đoạn 1945 – 1946
Trong những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý Chính phủ nước Việt Nam cần phải hết sức tiết kiệm và
phải lựa chọn những vật phẩm từ nguồn cung cấp thích hợp nhất để không lãng phí
của cải của nhân dân.
Mặc dù khái niệm đấu thầu chưa hình thành tuy nhiên việc Chủ tịch Hồ Chí
Minh lưu ý là tiền đề cho hoạt động đấu thầu sau này.
• Từ năm 1946 - 1986
Giai đoạn này cũng có một số văn bản liên quan đến việc lựa chọn người bán
khi bán các tài sản công, tuy nhiên do đặc thù của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
chủ thể của nền kinh tế là các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước thành lập và
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động
trong hoạt động kinh doanh, mọi hoạt động của doanh nghiệp đều theo kế hoạch của
Nhà nước và mọi công trình xây dựng đều được thực hiện theo chỉ tiêu, pháp lệnh.
99
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Nhà nước chỉ định các đơn vị thực hiện xây lắp theo kế hoạch hoặc căn cứ vào mối
quan hệ giữa các đơn vị đó với cơ quan có thẩm quyền.
• Từ năm 1986 -1996

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đưa đất nước
bước vào thời kỳ kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế
mới này cạnh tranh là tất yếu, thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện tại Việt Nam và các
văn bản pháp luật về đấu thầu xây lắp đã hình thành và hoàn thiện cùng với quá trình
xây dựng và phát triển của hệ thống pháp luật về đấu thầu.
- Đầu năm 1990, Bộ Xây dựng ban hành “Quy chế đấu thầu trong xây dựng”
Kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/2/1990 nhưng trong văn bản này
chưa quy định rõ ràng về điều kiện áp dụng cũng như quy trình đấu thầu xây lắp.
- Ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày
7/3/1994 về tăng cường quản lý chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và
xây dựng. Theo đó các dự án dùng vốn Nhà nước đều phải thông qua đấu thầu, kết
quả đấu thầu có vốn đầu tư trên 10 triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc
gia thẩm định để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.
- Ngay sau Quyết định số 92/QĐ-TTg của Thủ tướng ngày 7/3/1994 về tăng
cường quản lý chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng, ngày
30/3/1994, Bộ Xây dựng ban hành “Quy chế đấu thầu xây lắp” kèm theo Quyết định
số 06/BXD-VKT ngày 17/3/1994, Quyết định này thay thế cho Quyết định 24/BXD-
VKT ngày 12/2/1990 trước đây. Đây là văn bản được coi là quy chế đầu tiên quy
định về đấu thầu.
Giai đoạn từ năm 1986 – 1996 là giai đoạn đầu tiên tại Việt Nam áp dụng đấu
thầu, do đó các văn bản quy phạm pháp luật Nhà nước ban hành chưa thực sự sát với
thực tế, tuy nhiên đó cũng là một khởi đầu để Nhà nước tiến tới hoàn thiện hơn pháp
luật đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng.
1010
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
1.2.2. Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
43/1996/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/7/1996 về ban hành Quy chế đấu thầu
và Nghị định số 93/1997/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/8/1997
Năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/1996/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 16/7/1996 về quy chế đấu thầu. Văn bản này mang tính pháp lý cao hơn và

phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với các Quy chế đấu thầu trước đây, theo đó “gói
thầu” lần đầu tiên đã trở thành đối tượng quản lý trong công tác đấu thầu.
Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 43/1996/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 16/7/1996 về quy chế đấu thầu ra đời, quy định điều kiện đấu thầu và quy
trình đấu thầu chặt chẽ hơn đã khiến cho việc thực thi pháp luật đấu thầu nói chung
và đấu thầu xây lắp nói riêng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên cùng với tiến trình phát
triển của nền kinh tế thì nó cũng không tránh khỏi những bất cập.
1.2.3. Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
số 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999 về ban hành quy chế đấu
thầu; Nghị định số 14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2000; Nghị định
số 66/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12.6.2003
Năm 1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999
về quy chế đấu thầu thay thế cho Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ngày 16/7/1996 về
quy chế đấu thầu
Năm 2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số
88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999 về quy chế đấu thầu và Nghị định số
14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2000
Hai văn bản trên ra đời đã điều chỉnh lĩnh vực đấu thầu rõ ràng hơn cơ chế cũ,
phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu khoa học hơn, chuẩn mực hơn …
Năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày
12/6/2003 sửa đổi, bổ sung Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số
88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1/9/1999 về quy chế đấu thầu và Nghị định số
1111
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2000, với 45% số điều sửa đổi, bổ sung,
Nghị định này đã tăng cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu thầu,
đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án, tăng cường một bước công tác thanh tra, quản lý
hoạt động đấu thầu và thực hiện hợp đồng, nâng cao công tác quản lý thông tin về
đấu thầu.

Năm 2003, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Xây dựng,
Luật này có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2004 thay cho Quy chế quản lý đầu tư xây dựng
được ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 8/7/1999
về quy chế quản lý đầu tư xây dựng. Trong Luật xây dựng 2003 có riêng Chương 16
quy định về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng xây dựng. Luật này ra đời đã thực sự là
bước tiến cơ bản trong công tác quản lý Nhà nước về đấu thầu, tạo cho hoạt động đấu
thầu ngày càng phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
Năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2005/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 7/2/2005 quy định về Quy chế quản lý đầu tư xây dựng.
Như vậy trong giai đoạn này pháp luật đấu thầu nói chung và pháp luật đấu
thầu xây lắp nói riêng đã có sự phát triển về chất lượng, hoàn thiện hơn so với giai
đoạn trước, điều đó cũng thể hiện ở thực tiễn áp dụng gặp ít bất cập hơn.
1.2.4. Giai đoạn áp dụng Luật đấu thầu ngày 29.11.2005 và các Nghị định
hướng dẫn thi hành (Giai đoạn hiện hành)
Trong những giai đoạn trước đây đã có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh
lĩnh vực đấu thầu nói chung, đấu thầu xây lắp nói riêng, tuy nhiên nó chỉ được quy
định tại những văn bản dưới luật. Năm 2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã
thông qua Luật đấu thầu, Luật này có hiệu lực kể từ ngày 1/4/2006 đã tạo hành lang
pháp lý cho các hoạt động đấu thầu sử dụng nguồn vốn Nhà nước. Văn bản này có
giá trị pháp lý cao nhất về đấu thầu nhằm tạo ra sự thống nhất trong quy trình đấu
thầu các dự án có sử dụng vốn Nhà nước
Năm 2006, Chính phủ ban hành các văn bản:
1212
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
- Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng.
- Nghị định số 112/206/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ
sung một số điều Nghị định số 16/2005/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý dự án đầu
tư xây dựng công trình.
- Thông tư số 13/2006/TT-BXD ngày 29/11/2006 của Bộ Xây dựng về việc

hướng dẫn thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa của nhà thầu trong nước và nhà thầu
nước ngoài quy định tại Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng.
Năm 2007, Bộ Xây dựng ban hành Thông tư số 02/2007/TT-BXD ngày
14/02/2007 về việc hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt dự án
đấu tư xây dựng công trình, giấy phép xây dựng và tổ chức quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình quy định tại Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 và Nghị
định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ.
Trong thời gian áp dụng Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây
dựng, về phía cơ quan Nhà nước cũng như các chủ thể khác tham gia đấu thầu thấy
văn bản này vẫn còn một số bất cấp. Ngày 5/5/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 58/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo
Luật Xây dựng. Qua đây nhiều bất cập của Nghị định 111/2006/NĐ-CP đã được sửa
đổi, tuy nhiên cho đến nay thời gian áp dụng còn ngắn nên chưa thấy rõ được vai trò
của nó.
Những văn bản pháp lý hiện hành đã thực sự là khung khổ pháp lý quan trọng
trong công tác quản lý kinh tế đầu tư xây dựng, tạo tiền đề thuận lợi cho công cuộc
phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. Hệ thống văn
bản pháp lý hiện hành đã thể hiện được những những nỗ lực của các cơ quan Nhà
nước trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực đấu
thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng, nó thể hiện sự hoàn thiện hơn hẳn so
với thời kỳ mới áp dụng đấu thầu, tuy nhiên một điều không thể tránh khỏi cùng với
1313
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
tiến trình phát triển kinh tế thì việc áp dụng các văn bản pháp luật đấu thầu nói chung
và đấu thầu xây lắp nói riêng vẫn còn một số bất cập, đó là lý do để các cơ quan có
chức năng cần nghiên cứu thực tiễn áp dụng để ban hành những văn bản mới, tạo
điều kiện tốt để phát huy hiệu quả đấu thầu.
2. Phạm vi, đối tượng áp dụng đấu thầu xây lắp

2.1 Phạm vi áp dụng đấu thầu xây lắp
Đối với đấu thầu nói chung, Nhà nước ta chỉ quy định một số dự án bắt buộc
phải tiến hành đấu thầu, còn các dự án khác Nhà nước khuyến khích áp dụng. Trong
đấu thầu xây lắp thì các dự án sau bắt buộc phải tổ chức đấu thầu tuyển chọn nhà
thầu:
- Các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng có quy
định phải thực hiện Quy chế đấu thầu
- Các dự án sử dụng vốn Nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát
triển bao gồm các dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư
xây dựng
2.2. Đối tượng áp dụng đầu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp áp dụng đối với các chủ thể sau:
- Tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu các
gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 Luật Đấu thầu 2005.
+ Đối với nhà thầu là tổ chức trong nước thì cần thỏa mãn những điều kiện sau:
(1) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp theo quy
định của pháp luật hoặc có quyết định thành lập đối với các tổ chức không có đăng
ký kinh doanh; (2) Hạch toán kinh tế độc lập; (3) Không bị cơ quan có thẩm quyền
kết luận về tình hình tài chính không lành mạnh, đang lâm vào tình trạng phá sản
hoặc nợ đọng không có khả năng chi trả; đang trong quá trình giải thể.
1414
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
+ Đối với nhà thầu là tổ chức nước ngoài, ngoài những điều kiện trên thì cần có
đăng ký hoạt động do cơ quan có thẩm quyền của nước mà nhà thầu mang quốc tịch
cấp.
+ Đối với nhà thầu là cá nhân thì cần có những điều kiện sau: (1) Có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật của nước mà cá nhân đó là công dân;
(2) Có đăng ký hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan
có thẩm quyền cấp; (3) Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Về phía bên mời thầu, cá nhân tham gia bên mời thầu cần có những điều kiện

sau: (1) Am hiểu pháp luật đấu thầu; (2) Có kiến thức về quản lý dự án; (3) Có trình
độ chuyên môn phù hợp với gói thầu theo các lĩnh vực kỹ thuật, tài chính, thương
mại, hành chính và pháp lý; (4) Có trình độ ngoại ngữ đáp ứng được yêu cầu đối với
gói thầu được tổ chức đấu thầu quốc tế, gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn ODA.
2
- Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự
án quy định tại Điều 1 Luật Đấu thầu 2005, ví dụ tổ chuyên gia đấu thầu về lĩnh vực
kỹ thuật, tài chính, thương mại, hành chính, pháp lý và các lĩnh vực liên quan. Thành
viên tổ chuyên gia đấu thầu phải có đủ điều kiện sau:
+ Có chứng chỉ tham gia khóa học đấu thầu,
+ Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu,
+ Am hiểu các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu,
+ Có tối thiểu ba năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế,
kỹ thuật của gói thầu.
3
- Tổ chức, cá nhân có dự án không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu
nhưng chọn áp dụng Luật Đấu thầu.
Nếu một nhà thầu tham gia đấu thầu thì cần phải có những điều kiện sau:
+ Có tư cách hợp lệ theo quy định của Luật Đấu thầu,
+ Chỉ được tham gia trong một hồ sơ dự thầu đối với một gói thầu với tư cách
là nhà thầu độc lập hoặc là nhà thầu liên danh. Trong trường hợp là nhà thầu liên
2 Theo Điều 9.1 Luật Đấu thầu 2005
3 Theo Điều 9.2 Luật Đấu thầu 2005.
1515
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
danh thì cần phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ
người đứng đầu liên danh, trách nhiệm chung và trách nhiệm của từng thành viên
trong liên danh.
+ Đáp ứng được yêu cầu nêu trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu của
bên mời thầu,

+ Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu theo quy định của Luật Đấu thầu.
4
3. Hình thức, phương thức đấu thầu xây lắp
3.1. Hình thức đầu thầu xây lắp
Trong đấu thầu xây lắp, có thể lựa chọn nhà thầu dưới các hình thức sau:
3.1.1. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham
dự. Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải thông báo thông tin mời
thầu và đăng tải trên các tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu của
cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ để
các nhà thầu biết thông tin tham dự. Bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời thầu cho
các nhà thầu có nhu cầu tham gia đấu thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất
cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho
một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng.
Do tính chất “rộng rãi” nên số lượng nhà thầu tham gia đông, do đó bên mời
thầu có cơ hội để lựa chọn nhà thầu có đủ tư cách, năng lực để thực hiện gói thầu.
Tuy nhiên do số lượng nhà thầu tham dự đông nên chi phí đánh giá hồ sơ dự thầu
cũng rất tốn kém. Hình thức đấu thầu này không thể áp dụng đối với những gói thầu
có yêu cầu kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến. Về nguyên tắc, đã đấu thầu là phải đấu
thầu rộng rãi, trong một số trường hợp cần thiết mới tổ chức đấu thầu theo hình thức
khác, nếu không chứng minh được những điều kiện cần thiết để đấu thầu theo hình
thức khác thì phải tổ chức đấu thầu rộng rãi
4 Theo Điều 10 Luật Đấu thầu 2005.
1616
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
3.1.2. Đấu thầu hạn chế
Nếu như đấu thầu rộng rãi tốn kém, khó có thể lựa chọn được nhà thầu có đủ
năng lực để thực hiện gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đấu thầu hạn chế khắc
phục được những nhược điểm đó. Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong các trường
hợp sau đây:

+ Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói
thầu;
+ Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu có
tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu
cầu của gói thầu.
Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, chủ đầu tư cần phải phê duyệt danh sách
các nhà thầu được coi là có đủ năng lực và kinh nghiệm để mời tham gia đấu thầu.
Tuy nhiên khi thực hiện đấu thầu hạn chế, phải mời tối thiểu năm nhà thầu được xác
định là có đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu; trường hợp thực tế có ít
hơn năm nhà thầu, chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định
cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác.
Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình, công trình sử dụng vốn Nhà nước thì
không cho phép hai doanh nghiệp trở lên thuộc cùng một công ty, tổng công ty với
công ty thành viên, công ty mẹ và công ty con, doanh nghiệp liên doanh với một bên
góp vốn trong liên doanh cùng tham gia đấu thầu hạn chế trong một gói thầu
5
3.1.3. Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức trực tiếp lựa chọn một nhà thầu có khả năng đáp
ứng được yêu cầu của gói thầu để thương thảo và ký hợp đồng. Trước khi thực hiện
chỉ định thầu, dự toán đối với gói thầu đó phải được phê duyệt và việc chỉ định thầu
phải tuân thủ quy trình do Chính phủ quy định.
Chỉ định thầu trong đấu thầu xây lắp được áp dụng trong các trường hợp sau
đây:
5 Điều 100 Luật Xây dựng
1717
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
- Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch họa, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ
đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định
ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách
nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành

thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ
ngày chỉ định thầu;
- Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài;
- Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an
ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng Chính phủ quyết định khi thấy cần thiết.
Khi áp dụng hình thức chỉ định thầu (mời trực tiếp một nhà thầu có đủ năng
lực thực hiện gói thầu) thì bên mời thầu không phải lập hồ sơ mời đấu thầu mà chỉ
lập bản yêu cầu đối với các gói thầu và các tài liệu có liên quan để nhà thầu xây dựng
bản chào thầu với các đề xuất về giá, tiến độ và các giải pháp thực hiện gói thầu. Nếu
đề xuất của nhà thầu được chấp thuận thì bên mời thầu tổ chức đàm phán, ký kết hợp
đồng
Theo Quyết định 49/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 11/4/2007
thì các trường hợp đặc biệt được chỉ định thầu quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều
101 của Luật Xây dựng, bao gồm:
+ Lập đồ án quy hoạch xây dựng;
+ Lập dự án đầu tư xây dựng công trình và thiết kế xây dựng công trình sau khi
thi tuyển phương án thiết kế kiến trúc công trình xây dựng.
Sau khi có kết quả thi tuyển, chủ đầu tư và tác giả của phương án thiết kế
kiến trúc được lựa chọn trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng để thực hiện việc lập dự
án đầu tư xây dựng công trình và thiết kế xây dựng khi tác giả của phương án thiết kế
kiến trúc có đủ điều kiện năng lực theo quy định; trường hợp tác giả phương án kiến
trúc không đủ điều kiện năng lực thì có thể liên danh với tổ chức tư vấn thiết kế có đủ
điều kiện năng lực để ký kết hợp đồng với chủ đầu tư. Nếu tác giả của phương án
thiết kế kiến trúc được lựa chọn từ chối thực hiện lập dự án đầu tư xây dựng công
1818
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
trình và thiết kế xây dựng thì chủ đầu tư tổ chức lựa chọn nhà thầu khác theo quy
định của pháp luật.
3.1.4. Tự thực hiện
Hình thức tự thực hiện được áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu

có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và
sử dụng. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức tự thực hiện, dự toán cho gói thầu phải
được phê duyệt theo quy định. Đơn vị giám sát việc thực hiện gói thầu phải độc lập
với chủ đầu tư về tổ chức và tài chính.
3.1.5. Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt mà không thể áp dụng các hình thức
lựa chọn nhà thầu như đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, tự thực hiện
thì chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm mục tiêu cạnh tranh và
hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Thực tế cho thấy hiện nay số lượng dự án được đấu thầu rộng rãi chỉ chiếm tỷ
lệ ít nhất, sau đó là đến đấu thầu hạn chế, và nhiều nhất là hình thức chỉ định thầu và
tự thực hiện. Do bên mời thầu trong một số trường hợp chưa am hiểu chuyên môn, ít
kinh nghiệm; chất lượng tư vấn đấu thầu còn hạn chế; chế tài xử phạt chưa rõ ràng và
cụ thể... khiến nhiều gói thầu bị lạm dụng. Đấu thầu hạn chế được thực hiện nhiều tạo
điều kiện cho các hành động tiêu cực như thông thầu, chỉ định thầu... phát sinh.
3.2. Phương thức đấu thầu xây lắp
Trong đấu thầu xây lắp có các phương thức đấu thầu sau:
3.2.1. Đấu thầu một túi hồ sơ
Đấu thầu một túi hồ sơ là phương thức đấu thầu mà nhà thầu tham gia nộp
một túi hồ sơ. Theo phương thức này nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất kỹ
thuật và đề xuất tài chính vào chung một túi hồ sơ, việc mở thầu chỉ được tiến hành
1919
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
một lần. Phương thức này áp dụng cho việc lựa chọn nhà thầu cho gói thầu xây lắp
không lớn.
3.2.2. Đấu thầu hai giai đoạn
Đấu thầu hai giai đoạn là phương thức đấu thầu trong đó việc thực hiện đấu
thầu thông qua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn một: Nhà thầu nộp hồ sơ có đề xuất kỹ thuật, tài chính nhưng
chưa có giá thầu. Trong giai đoạn này các bên tham gia đấu thầu trao đổi, thảo luận

và thống nhất yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật với nhau, trên cơ sở đó sẽ xác định hồ
sơ mời thầu giai đoạn hai.
+ Giai đoạn hai: Đây là giai đoạn các nhà thầu nộp hồ sơ chính thức với đề
xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ
nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu, biện pháp bảo đảm dự
thầu.
Phương thức đấu thầu hai giai đoạn áp dụng với hình thức đấu thầu rộng rãi,
đấu thầu hạn chế cho gói thầu xây lắp có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng.
4. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp
Trong quá trình đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng, các chủ thể
tham gia cần tuân theo một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo hoạt động đấu
thầu diễn ra nhất quán theo một quy chế chung, đảm bảo công bằng cho các nhà thầu
tham dự và đảm bảo tối đa lợi ích của việc tổ chức đấu thầu, đáp ứng tốt nhất các yêu
cầu về tiến độ, chất lượng, tài chính của dự án, bảo đảm lợi ích chính đáng cho cả
chủ đầu tư và nhà thầu tham dự.
4.1. Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang bằng
Đấu thầu là hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh mẽ, tuy nhiên nó cần phải
được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, như vậy bên mời thầu mới có thể tìm
được nhà thầu đáp ứng được tối ưu nhất yêu cầu của mình. Theo nguyên tắc này, mỗi
2020
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
gói thầu phải có sự tham gia của số lượng nhà thầu nhất định có năng lực, điều kiện
đặt ra đối với các đơn vị ứng thầu là thông tin cung cấp cho họ phải ngang nhau, nhất
thiết không có sự phân biệt đối xử, phải bình đẳng để tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các nhà thầu. Các nhà thầu tham gia cũng phải “độc lập về tổ chức, không phụ
thuộc vào một cơ quan quản lý về tài chính đối với chủ đầu tư của dự án và với nhà
thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu”.
6
4.2. Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Theo nguyên tắc này các nhà thầu cần phải được cung cấp đầy đủ các thông

tin từ bên mời thầu, các thông tin cần phải được chi tiết, rõ ràng và có hệ thống về
quy mô, khối lượng, quy cách yêu cầu chất lượng của công trình hay hàng hóa dịch
vụ cần cung ứng và tiến độ, điều kiện thực hiện, ngoài ra nếu có những sửa đổi bổ
sung thì bên mời thầu cũng cần phải cung cấp thông tin cho tất cả các nhà thầu tham
dự. Nguyên tắc này đảm bảo cho các nhà thầu tham dự nắm bắt rõ yêu cầu của gói
thầu và xem xét xem mình có khả năng thực hiện gói thầu đó không.
4.3. Nguyên tắc đánh giá khách quan công bằng
Cạnh tranh công bằng là tiêu chí hàng đầu trong đấu thầu, do đó các hồ sơ dự
thầu hợp lệ cần phải được xem xét, đánh giá khách quan, công bằng theo cùng một
chuẩn mực đã xây dựng sẵn để đáp ứng được gói thầu. Các tiêu chí đánh giá hồ sơ,
tiêu chuẩn xét hồ sơ phải được công bố trước trong hồ sơ mời thầu và được công bố
lại trong quá trình xét thầu.
4.4. Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm thích đáng
Việc cam kết quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đấu thầu là điều
bắt buộc, buộc các bên tham gia cần phải nỗ lực thực hiện trách nhiệm của mình, tuy
nhiên trong quá trình đấu thầu có thể xảy ra những nguyên nhân khách quan hay chủ
6 Tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua sắm thiết bị vật tư và xây dựng công trình theo thể thức hiệp hội
các kỹ sư tư vấn (FIDI), ngân hàng thế giới và ngân hàng phát triển liên Mỹ
2121
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
quan mà có thể có những sự cố như bên dự thầu rút lại hồ sơ dự thầu, bên trúng thầu
không thực hiện hợp đồng… làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia. Do
đó Luật đấu thầu có quy định cụ thể về vấn đề bảo lãnh, bảo đảm, bảo hành trong đấu
thầu. Việc bảo lãnh có thể bằng tiền hay bằng sự xác nhận của một ngân hàng có uy
tín dưới hình thức ký quỹ. Bên mời thầu còn phải mua bảo hiểm cho các công trình,
các dự án của mình. Nguyên tắc này bảo đảm cho bên dự thầu nỗ lực thực hiện trách
nhiệm của mình và bên mời thầu tránh khỏi những rủi ro.
5. Vai trò của đấu thầu xây lắp trong nền kinh tế
Thực tế trên thế giới hiện nay cho thấy đấu thầu không phải là thủ tục mang
tính chất hình thức, đó là một quá trình tạo ra một môi trường mang tính cạnh tranh

và hiệu quả cao. Trong lĩnh vực xây dựng, đấu thầu có vai trò đặc biệt quan trọng.
Đấu thầu trong xây dựng tuy mới được áp dụng ở nước ta, nhưng qua nhiều bước
hoàn thiện đã chứng tỏ sự phù hợp và tất yếu cần áp dụng trong nền kinh tế, nó thực
sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự
hoàn thiện của bản thân nhà thầu về năng lực và tổ chức để đảm bảo đáp ứng được
yêu cầu của chủ đầu tư về chất lượng công trình cũng như tiến độ thực hiện.
• Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chủ thể của nền kinh tế là các doanh
nghiệp quốc doanh được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. Các
doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi hoạt
động của doanh nghiệp đều theo kế hoạch của Nhà nước và mọi công trình xây dựng
đều được thực hiện theo chỉ tiêu, pháp lệnh. Nhà nước chỉ định các đơn vị thực hiện
xây lắp theo kế hoạch hoặc căn cứ vào mối quan hệ giữa các đơn vị đó với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Với cơ chế này cạnh tranh không tồn tại trong tất cả các
ngành, lĩnh vực nói chung và trong thương mại, đầu tư xây dựng nói riêng, đây là
những hạn chế của đất nước trong thời kỳ đầu sau giải phóng.
2222
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
• Trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất,
nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp song song tồn tại. Các doanh
nghiệp đều tự chủ về tài chính, bình đẳng, tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp
luật, thời kỳ này cạnh tranh là tất yếu. Trong hoạt động đầu tư xây dựng cũng không
nằm trong ngoại lệ, các doanh nghiệp đều có cơ hội tham gia các công trình xây
dựng, hoạt động đấu thầu càng trở nên phổ biến, nó tạo ra một mội trường cạnh tranh
lành mạnh, các doanh nghiệp xây dựng có cơ hội được thể hiện mình một cách tốt
nhất.
Đấu thầu có ý nghĩa rất lớn đối với các bên tham gia đấu thầu và Nhà nước.
Hoạt động đấu thầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đấu thầu dựa trên cơ sở cạnh
tranh lành mạnh giữa các đơn vị tham gia sẽ thúc đẩy các đơn vị tích cực nâng cao

trình độ và hiệu quả về mọi mặt, nhờ đó mà hiệu quả các dự án được nâng cao, tiết
kiệm cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra đấu thầu còn góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng, hạn chế các tình trạng lãng phí,
thất thoát vốn đầu tư và các hiện tượng tiêu cực khác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi
nhận, việc thực hiện Luật Đấu thầu 2005 và các Nghị định hướng dẫn thi hành (trước
đây là Nghị định 111/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/9/2006 hướng dẫn thi
hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng, nay được thay thế
bằng Nghị định 58/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2008 hướng dẫn thi hành
Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng) không chỉ giúp chủ đầu tư,
bên mời thầu lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói
thầu mà còn giúp tiết kiệm được cho Nhà nước 6.058,9 tỷ đồng ngay trong năm đầu
tiên thực hiện theo Luật Đấu thầu 2005. Nếu theo số liệu tổng hợp từ báo cáo của bộ,
ngành và địa phương trong cả nước năm 2006, số tiền tiết kiệm từ đấu thầu tương
đương với mức vốn để xây dựng một nhà máy điện trên 400MW hoặc 100km đường
cao tốc, trong đó 70% tổng mức tiết kiệm đạt được từ hình thức đấu thầu rộng rãi.
Đấu thầu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung, đối với những
chủ thể tham dự đấu thầu, đấu thầu cũng có những vai trò nhất định
2323
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
- Đối với chủ đầu tư
Khi một dự án được phê duyệt, công việc tiếp theo là triển khai thực hiện dự
án. Để thực hiện dự án đó cần phải làm nhiều công việc như: tư vấn, thiết kế kỹ thuật,
thi công, mua sắm thiết bị, xây lắp… Nếu chủ đầu tư làm tất cả các công việc bằng
các nguồn lực sẵn có mà không thuê đối tác bên ngoài thì hiệu quả công việc sẽ
không cao. Đó là một điều tất yếu bởi trong một nền kinh tế phát triển luôn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp thực hiện những công việc chuyên
môn, họ có thế mạnh khác nhau và có những nhược điểm khác nhau, giữa những
doanh nghiệp này luôn có sự cạnh tranh gay gắt. Do đó để đạt hiệu quả cao hơn và để
thực hiện dự án với tiến độ nhanh hơn thì chủ đầu tư thường lựa chọn phương thức
thuê đối tác bên ngoài. Khi đó chủ dự án sẽ lựa chọn hình thức đấu thầu (khi đó chủ

dự án là chủ đầu tư, các đối tác là nhà thầu) để lựa chọn nhà thầu thích hợp, có năng
lực để đảm bảo thực hiện tốt dự án của mình. Bằng phương thức này chủ đầu tư có
nhiều cơ hội để lựa chọn cho mình đối tác tốt nhất để thực hiện cho mình toàn bộ hay
một phần dự án, chủ đầu tư không nhất thiết phụ thuộc vào một nhà thầu mà có thể
lựa chọn nhiều nhà thầu khác nhau, mỗi nhà thầu đảm bảo thực hiện một lĩnh vực
chuyên môn, thực hiện một phần dự án. Điều này tạo điều kiện cho chủ đầu tư quyền
chủ động trong việc chuẩn bị các thủ tục pháp lý trước khi tiến hành mời thầu và
trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu. Mặt khác với hình thức đầu thầu, hiệu quả
quản lý vốn đầu tư cũng được tăng cường, tình trạng thất thoát vốn đầu tư ở mỗi
khâu trong quá trình thực hiện dự án hạn chế hơn. Và một điều đặc biệt ngoài chất
lượng dự án tăng là tăng cường các mối quan hệ giữa các nhà đầu tư và các doanh
nghiệp.
- Đối với nhà thầu.
Những dự án được đưa ra đấu thầu thường là những dự án lớn, các nhà thầu
tham gia đấu thầu luôn xác định trước cho mình khả năng thực hiện hợp đồng, trong
một mức giá hợp lý mà nhà thầu nhận định rằng mình có thể thực hiện được dự án thì
đó là một cơ hội cho các nhà thầu, việc giành được những dự án đó mang lại cho nhà
thầu nhiều lợi ích.
2424
Nguyễn Thị Thu Trang Lớp: Luật kinh doanh K46
Việc tổ chức đấu thầu giúp các nhà thầu phát huy được tính chủ động, linh
hoạt, chủ động tìm kiếm các thông tin liên quan đến dự án, các thông tin liên quan
đến các đối tượng cạnh tranh, các thông tin liên quan đến thị trường nói chung để dự
tính trước khả năng thực hiện dự án trong một giá hợp lý.
Ngoài ra các nhà thầu còn phải nỗ lực nâng cao uy tín của mình để có thể nắm
bắt được nhiều cơ hội. Để có thể nắm bắt được nhiều cơ hội trúng thầu, đáp ứng
được yêu cầu của chủ đầu tư, nhà thầu luôn phải tích cực phát triển, nâng cao kỹ
thuật công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để làm được điều đó, nhà thầu còn
cần phải phát huy năng lực về mọi mặt: Tổ chức quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý và nhân viên, công nhân, không ngừng đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng

mạng lưới thông tin…
Bên cạnh những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng giao thầu, việc
trúng thầu giúp cho nhà thầu đáp ứng được công ăn việc làm cho công nhân viên của
mình, giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, ngày càng khẳng định mình, nâng
cao năng lực cạnh tranh trong môi trường trong nước và quốc tế.
Mặt khác nếu doanh nghiệp trúng thầu đăng ký niêm yết trên thị trường chứng
khoán thì uy tín của nhà thầu tăng, do đó giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
tăng.
6. Quy trình đấu thầu xây lắp
Hoạt động đấu thầu xây lắp cần được thực hiện theo các bước sau:
- Chuẩn bị đấu thầu
- Tổ chức đấu thầu
- Đánh giá hồ sơ dự thầu
- Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu
- Thông báo kết quả đấu thầu
- Thương thảo hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng
7
7 Điều 4.4 Luật Đấu thầu
2525

×