Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở bến tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.66 KB, 137 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là chủ trơng
lớn của Đảng ta, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu và là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc. Từ trớc đến nay, Đảng và Nhà nớc ta luôn rất quan tâm đến sự phát
triểon nông nghiệp, nông thôn và đã có những chủ trơng, chính sách đúng đắn
để đẩy nhanh sự phát triển của khu vực này.
Trong nông nghiệp và nông thôn, vấn đề nông dân luôn có vị trí đặc
biệt quan trọng và đợc Đảng ta xác định là vấn đề chiến lợc của cách mạng
Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, nông dân đã có những đóng
góp to lớn, góp phần cùng toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là lực lợng đông đảo, nòng cốt và
chủ yếu tham gia trực tiếp vào quá trình này. Những thành tựu đạt đ ợc trong
quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa qua
là thành quả của toàn Đảng, toàn dân nhng đặc biệt trong đó có một phần
đóng góp đáng tự hào của nông dân.
Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp nằm trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long. Cùng với xu thế chung của cả nớc, Bến Tre cũng đã đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện, trong đó
kinh tế thuỷ sản và kinh tế vờn đợc xác định là hai ngành kinh tế mũi nhọn,
là khâu đột phá của tỉnh. Đến nay, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Bến Tre ngày càng đi đúng hớng và gặt hái đợc nhiều thắng lợi quan
trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đợc, nông nghiệp và nông
thôn Bến Tre vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Đặc biệt nông dân Bến Tre,
mặc dù đóng một vai trò vô cùng to lớn trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, nhng cho đến nay đời sống của đa số nông dân vẫn còn
nghèo, vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre đi vào
chiều sâu, tiếp tục đạt đợc những thành tựu to lớn hơn nữa trong những năm


đầu của thế kỷ XXI, đòi hỏi Bến Tre phải nỗ lực xây dựng, hoàn thiện một
hệ thống những chủ trơng, chính sách, phơng hớng, giải pháp đồng bộ
11
nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hớng CNH, HĐH. Với t cách
là chủ thể, là lực lợng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự nghiệp
này, điều quan trọng hơn hết là phải khơi dậy cho đợc sự cố gắng, lòng
nhiệt tình, tính năng động, tích cực sáng tạo của nông dân Bến Tre. Bởi mỗi
bớc phát triển của nông nghiệp và nông thôn suy cho cùng cũng là nhằm
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân. Nông dân là mục tiêu,
là động lực phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp
và nông thôn là do nông dân và vì nông dân. Vai trò của nông dân trong sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn. Nhng chỉ có
một mình lực lợng nông dân không thôi thì vẫn cha đủ làm nên một kỳ tích.
Hơn nữa, quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
dới tác động của nền kinh tế thị trờng tất yếu buộc nông dân phải đối mặt
với những thách thức không dễ gì tránh khỏi đó là hiện trạng nông dân
không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; hiện tợng phân hóa giàu nghèo, mất
đoàn kết trong nội bộ nông dân; tình trạng ô nhiễm môi trờng, tệ nạn xã
hội, Đây là những vấn đề lớn đang ảnh hởng trực tiếp đến đời sống của
ngời nông dân. Vì vậy, sức mạnh của nông dân chỉ có thể nhân đôi và phát
huy mạnh mẽ khi có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ trợ kịp thời và thờng xuyên
của các cấp, các ngành địa phơng, của cả hệ thống chính trị. Chỉ với tinh
thần nh thế mới có thể "Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện
nay", đây chính là một trong những vấn đề cấp thiết đang đợc đặt ra có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đối với Bến Tre.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
và vấn đề nông dân luôn tạo đợc sự quan tâm, chú ý của nhiều cấp, bộ
ngành, nhiều nhà khoa học. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của

tập thể cũng nh của các nhà khoa học về nông nghiệp, nông thôn và nông
dân ở những góc độ khác nhau tiêu biểu nh:
+ Các công trình khoa học của tập thể:
- "Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nớc ta", Viện Nghiên
cứu Chiến lợc và Chính sách khoa học và công nghệ - Trung tâm Hỗ trợ
khoa học và công nghệ phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997.
21
- Tài liệu tập huấn: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hớng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tập I và II), Hội khoa học kinh tế Việt Nam
- Ban đào tạo và phổ biến kiến thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998.
- "Con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam", Ban T tởng - Văn hóa Trung ơng - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Nhìn chung, các công trình khoa học này đã đề cập đến những nội
dung nh: vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình CNH, HĐH nông
thôn Việt Nam; thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam; tổng kết những
kinh nghiệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của một số nớc và vùng lãnh
thổ trên thế giới; hệ thống hóa những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; những vấn đề đặt ra và đề xuất
những phơng hớng, giải pháp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn. Tuy nhiên, các công trình khoa học này mặc dù nghiên cứu về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nhng cha đi sâu vào vấn đề nông dân.
- Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có đất hoặc
thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp, GS.TS
Nguyễn Đình Hơng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Đây
là công trình khoa học đợc nghiên cứu công phu do tập thể cán bộ khoa học
Trờng Đại học Kinh tế quốc dân chủ trì phối hợp cùng Hội Nông dân Việt
Nam thực hiện theo Công văn số 6553/KTN ngày 20 - 12 - 1997 của Thủ t-
ớng Chính phủ. Nội dung cuốn sách bớc đầu cố gắng làm rõ thực chất, nguyên

nhân cơ bản và sâu xa của tình trạng các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu
đất sản xuất. Trên cơ sở đó đề xuất và kiến nghị một số quan điểm và giải
pháp nhằm bảo đảm công ăn việc làm và đời sống cho các hộ nông dân không
có đất hoặc thiếu đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nh vậy, công trình
khoa học này nghiên cứu về hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long nhng
không nghiên cứu sâu về vai trò của nông dân và việc phát huy vai trò của
nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ:
- "Sự chuyển hớng của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Đức Hớng, Luận án tiến sĩ Triết
học, Hà Nội, 1991.
31
- "Đặc điểm và xu hớng biến đổi của giai cấp nông dân nớc ta
trong giai đoạn hiện nay" của Bùi Thị Thanh Hơng, Luận án tiến sĩ Triết
học, Hà Nội, 2000
Các đề tài này bớc đầu đi vào nghiên cứu sự phân hóa giàu nghèo,
đặc điểm của giai cấp nông dân trong giai đoạn đổi mới đất nớc, làm rõ xu h-
ớng biến đổi khách quan của giai cấp nông dân Việt Nam trong thời gian tới,
trình bày một số phơng hớng đa giai cấp nông dân Việt Nam phát triển theo h-
ớng XHCN, Các đề tài, luận án này tuy bàn đến đối tợng là nông dân nhng
cha đi sâu vào vai trò của nông dân cũng nh việc phát huy vai trò của nông
dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Gần đây có luận văn thạc sĩ Triết học: "Phát huy vai trò của nông
dân Thái Bình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn" của Đặng Thị Phơng Duyên, Hà Nội, 2001. Luận văn đã đề cập
đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Thái Bình trên con đờng
CNH, HĐH; thực trạng và giải pháp phát huy vai trò của nông dân trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Thái Bình. Tuy nhiên, vai trò
của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nh thế nào;
những điều kiện để phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn nói chung, ở một tỉnh nói riêng là vấn đề cần phải đi sâu
hơn nữa.
+ ở Bến Tre có:
- "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI " (5/1996).
- "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII"
(12/2000)
- Nghị quyết số 13 Ctr/TU của Tỉnh uỷ Bến Tre về "Chơng trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 15 - NQ/TW (Hội nghị Trung ơng 5 -
khóa IX) "Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn thời kỳ 2001 - 2010"" (7/2002).
Nhìn chung, các văn kiện, Nghị quyết này đều có đề cập đến vấn đề
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân, nhng cho đến nay
cha có công trình nghiên cứu khoa học nào ở cấp tỉnh làm rõ vai trò của
nông dân Bến Tre và việc phát huy vai trò của nông dân Bến Tre trong quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hớng CNH, HĐH. Vì vậy, vấn
41
đề phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở Bến Tre hiện nay rất cần đợc quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Phân tích, làm rõ vai trò của nông dân Bến Tre với t cách là chủ thể,
là lực lợng nòng cốt và chủ yếu trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở Bến Tre. Đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất những quan điểm,
giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát tầm quan trọng và phơng hớng của quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp đổi mới đất nớc nói chung và
ở Bến Tre nói riêng.
- Phân tích làm rõ vai trò của nông dân với t cách là chủ thể, là lực

lợng nòng cốt và chủ yếu trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở Bến Tre. Đồng thời chỉ ra những nhân tố tác động và điều kiện để
phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
Bến Tre.
- Phân tích những yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn đối với nông dân Bến Tre trên cơ sở đối chiếu và đánh giá thực trạng
nêu lên những vấn đề đặt ra cần đợc giải quyết trong giai đoạn trớc mắt.
- Đề xuất những quan điểm định hớng và giải pháp cơ bản phát huy
vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Bến Tre.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những vấn đề lớn và rất
rộng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả giới hạn ở đối tợng
nghiên cứu là nông dân Bến Tre, nội dung nghiên cứu là xác định vai trò và
việc phát huy vai trò của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
51
Luận văn đợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và t tởng Hồ Chí Minh đặc biệt là nguyên lý của CNDVLS về vai trò
của quần chúng nhân dân.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phơng pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử -
lôgíc; sử dụng t liệu thực thế của các công trình nghiên cứu đã có nhất là
của các cơ quan ban ngành tỉnh Bến Tre.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ vai trò của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre.
- Đa ra một số quan điểm định hớng, giải pháp cơ bản phát huy vai trò

của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc tạo đợc sự nhận thức đúng đắn về vai
trò của nông dân Bến Tre. Từ đó giúp lãnh đạo địa phơng đa ra những chủ
trơng, giải pháp giúp cho việc phát huy vai trò của nông dân trong sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay.
Luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy ở trờng Chính trị tỉnh, có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu tham
khảo ở các cấp uỷ đảng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Nông
dân Việt Nam tỉnh Bến Tre.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chơng, 4 tiết.
61
Chơng 1
CÔNG NGHIệP HOá, HIệN ĐạI HOá NÔNG NGHIệP, NÔNG THÔN
Và VAI TRò Của NÔNG DÂN Bến Tre
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, trong đó có nông
dân. Nhng cách mạng là vấn đề rất rộng và rất lớn. ở mỗi giai đoạn lịch sử,
vai trò của quần chúng nhân dân mà đặc biệt là nông dân luôn đợc khẳng định
và thể hiện với những tính chất khác nhau. Ngày nay, cùng với xu thế chung
của cả nớc, Bến Tre đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn một cách toàn diện. ý nghĩa và tầm vóc của việc thực hiện sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn, yêu cầu đặt ra
ngày một cao. Vì vậy, trong quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng này, lại
một lần nữa không thể thiếu vai trò của nông dân. Bởi lẽ, vai trò của nông dân
là một nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần đảm bảo cho sự thành công của
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay.
1.1. Phơng hớng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.1.1.Tầm quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nớc
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận
hữu cơ và luôn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH
của nớc ta hiện nay. Thành tựu đạt đợc của CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn nh thế nào sẽ tác động, ảnh hởng rất lớn đến thành tựu chung của cả quá
trình CNH, HĐH đất nớc. Xuất phát từ điều kiện khách quan nớc ta vốn là
một nớc nông nghiệp lạc hậu gắn với nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, quá
trình đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tất yếu đòi hỏi Đảng ta
phải tiến hành CNH, HĐH đất nớc. Chỉ có tiến hành CNH, HĐH chúng ta mới
tạo dựng đợc một lực lợng sản xuất mới phát triển cao làm tiền đề vững chắc
để phát triển KT-XH, cải thiện đời sống cho nhân dân. ở nớc ta trong quá
trình CNH, HĐH đất nớc, một nhiệm vụ to lớn, có ý nghĩa cơ bản luôn phải đ-
ợc coi trọng là tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bởi vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng. Vai trò của nông nghiệp đợc Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất
sớm, trong th gửi điền chủ, nông gia Việt Nam ngày 11 - 4 - 1946, Ngời viết:
Việt Nam là một nớc sống về nông nghiệp. Nền kinh tế nớc ta lấy canh nông
71
làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nớc nhà, Chính phủ trông mong vào nông
dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nớc ta
giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nớc ta thịnh [35, tr.215]. Thật vậy, vai trò của
nông nghiệp đợc thể hiện trong những mặt sau đây:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành trực tiếp cung cấp lơng thực, thực phẩm
đáp ứng đợc nhu cầu ăn - một nhu cầu thiết yếu nhất của con ngời mà cho đến
nay và trong tơng lai vẫn cha có ngành nào, lĩnh vực nào thay thế đợc vai trò
của nông nghiệp. Chính vì thế, việc Đảng ta ngày nay xác định phải bảo đảm
an ninh lơng thực trong mọi tình huống là hoàn toàn có cơ sở.
Thứ hai, nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển
các ngành kinh tế của đất nớc, trong đó trớc hết là công nghiệp. Bởi nông nghiệp

là nơi cung cấp nguồn nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến. Không có nông nghiệp với tính cách là nguồn cung cấp đầu
vào thì công nghiệp chế biến không thể tồn tại và phát triển đợc.
Thứ ba, nông thôn nớc ta là một địa bàn rộng lớn với gần 80% dân số sẽ
là thị trờng to lớn cho việc tiêu thụ các sản phẩm quan trọng của các ngành
công nghiệp và dịch vụ.
Nh vậy, đối với nớc ta giữa nông nghiệp và công nghiệp luôn có một
mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, luôn tác động và làm tiền đề cho nhau,
công nghiệp và nông nghiệp nh hai chân của con ngời. Hai chân có mạnh thì
đi mới vững chắc. Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không
phát triển đợc. Ngợc lại, không có công nghiệp thì nông nghiệp cũng khó khăn.
Công nghiệp và nông nghiệp quan hệ với nhau rất khắng khít[37, tr.619]. Bất kỳ
một sự phát triển không tơng xứng, cân đối, hài hoà giữa nông nghiệp và công
nghiệp đều gây những khó khăn nhất định cho sự phát triển của nền kinh tế
chung của đất nớc.
Xuất phát từ vai trò của nông nghiệp, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng của mình luôn quan tâm đến phát triển nông nghiệp nớc nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(1986) đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn
diện của Đảng ta đã xác định: trớc hết là đổi mới về kinh tế, thực hiện ba ch-
ơng trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc
đáp ứng những yêu cầu cấp bách về lơng thực, thực phẩm, nguyên liệu sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Phấn đấu đa nông nghiệp nớc ta trở
thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá XHCN. Văn kiện Đại hội chỉ rõ
trong những năm còn lại của chặng đờng đầu tiên, trớc mắt là trong kế hoạch
81
5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức ngời, sức của vào việc thực hiện
cho đợc ba chơng trình mục tiêu về lơng thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu[9, tr.47].
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng với
Báo cáo Chính trị, với "Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội", với "Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000"
lại một lần nữa khẳng định rõ hơn quan điểm đó là phát triển nông, lâm, ng
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; phát triển toàn diện nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình
kinh tế - xã hội[10, tr.63].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng là Đại hội quyết định
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nớc. Trong đó Nghị quyết Trung -
ơng bốn và Nghị quyết sáu của Bộ Chính trị khoá VIII tiếp tục cụ thể hoá hơn về
nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết khẳng định phải đặc
biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, chỉ rõ nội dung cơ bản của
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ng nghiệp, hình thành các vùng
tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có
sản phẩm hàng hoá nhiều về số lợng, tốt về chất lợng, bảo đảm an
toàn về lơng thực trong xã hội, đáp ứng đợc yêu cầu của công
nghiệp chế biến và của thị trờng trong và ngoài nớc. Thực hiện thuỷ
lợi hoá, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa, phát triển công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao,
phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bớc hình thành nông thôn mới văn
minh, hiện đại [11, tr.87].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng mà đặc biệt là Nghị quyết
Trung ơng năm (khoá IX) về Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 đã tiếp tục làm rõ hơn nữa những quan
điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết Trung ơng
năm đã đa ra quan niệm tổng quát về CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH
nông thôn. Nhiệm vụ của CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn có
quan hệ chặt chẽ và khăng khít, hoà quyện vào nhau. Trên cơ sở khẳng định rõ
những thành tựu cũng nh những khuyết điểm, yếu kém và nguyên nhân của
những khuyết điểm, yếu kém đó, Nghị quyết Trung ơng năm tiếp tục xác định

91
các mục tiêu, phơng hớng, quan điểm và nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn nớc ta lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra một bớc đột phá, nhảy vọt
mạnh mẽ để khai thác hết mọi tiềm năng và nội lực của đất nớc.
Qua gần 20 năm đổi mới, tiến hành CNH, HĐH nền nông nghiệp nớc ta
về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tơng đối toàn diện và
có bớc tăng trởng khá. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn từng bớc đợc phục hồi và phát triển; kết cấu hạ tầng KT-XH đợc quan
tâm đầu t xây dựng; đời sống nhân dân từng bớc đợc cải thiện và nâng lên rõ
rệt; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn đợc đảm
bảo. Những thành tựu đạt đợc nh thế rất đáng tự hào đã góp phần quan trọng
vào sự ổn định và phát triển KT-XH, tạo tiền đề đẩy nhanh CNH, HĐH đất n-
ớc đi đến thắng lợi.
Là một nớc đi lên từ nông nghiệp, thế mạnh và tiềm năng lớn nhất đều
nằm trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Thực tế trong những năm qua
thành tựu đạt đợc của nông nghiệp nớc ta rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, nhìn
chung trình độ sản xuất trong nông nghiệp hiện nay vẫn còn trong tình trạng
lạc hậu, nông sản hàng hoá cha đủ sức cạnh tranh trên thơng trờng quốc tế,
thậm chí ngay trên "sân nhà", sức mua của nông dân vẫn còn thấp. Nông thôn
Việt Nam hiện vẫn là địa bàn sinh sống của gần 80% dân số, gần 70% lực l-
ợng lao động. Nh vậy, lao động trong nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ cao,
trình độ lao động lại thấp, mới chỉ có 8% qua đào tạo. Vấn đề lao động nông
nhàn và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang là gánh nặng cho xã
hội. Kinh tế nông nghiệp trong những năm qua tuy có bớc tăng trởng khá,
song tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm. Mặt khác, trình độ ứng
dụng khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học vẫn còn nhiều hạn
chế. Do vậy năng suất, chất lợng, hiệu quả của nông sản hàng hoá cha cao.
Bên cạnh đó trình độ và mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp ở tất cả các
khâu vẫn còn thấp. Mặt khác, vấn đề giải quyết đầu ra cho hàng hoá nông sản
thiếu tính ổn định và còn nhiều bất cập bởi năng lực của công nghệ chế biến

và tổ chức lu thông còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng KT-XH trên địa bàn
nông thôn trong những năm qua đợc quan tâm đầu t xây dựng nhng trên thực
tế vẫn còn yếu kém cha trở thành động lực thúc đẩy cho quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn tăng tốc mạnh mẽ.
101
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp đối với
nền kinh tế quốc dân, Đảng ta từ khi thành lập cho đến nay, xuyên suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng đã luôn coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Ngày nay, vai trò đó không những không mất đi mà càng đợc củng
cố và khẳng định. Chính vì vậy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải
đợc tiếp tục quan tâm hàng đầu và nội dung của nó phải thật sự đi vào chiều
sâu, phải có những bớc bứt phá tăng tốc mạnh mẽ, góp phần to lớn vào sự
nghiệp CNH, HĐH đất nớc để phấn đấu đến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại và vì mục tiêu dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.2. Phơng hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay
Bến Tre là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long tiếp
giáp biển Đông với 65km chiều dài bờ biển. Địa hình Bến Tre bị chia cắt
mạnh bởi bốn nhánh sông Cửu Long đó là các sông Tiền, Ba Lai, Hàm Luông
và Cổ Chiên với tổng chiều dài hơn 300 km. Từ đó tạo nên vùng đất Bến Tre
thành ba dải cù lao: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hoá. Với một mạng
lới sông ngòi chằng chịt, trải qua nhiều thế kỷ những dòng sông đã cần mẫn
chuyên chở phù sa từ thợng nguồn của dòng MêKông hùng vĩ để tạo nên vùng
đất Bến Tre ngày nay phì nhiêu, màu mỡ với những cánh đồng bát ngát, những
vờn cây ăn trái sum suê, những vờn dừa bạt ngàn. Có thể nói những dòng sông
đi qua địa phận Bến Tre đã và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân trong tỉnh đó là cung cấp nớc ngọt cho
sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, cung cấp nguồn lợi thuỷ sản phong phú và
đa dạng, đồng thời góp phần làm tơi đẹp cảnh quan, điều hoà khí hậu của một

vùng đất cù lao bốn bề sông nớc.
Mặt khác, khí hậu Bến Tre mang tính chất nhiệt đới gió mùa có một chế
độ nhiệt độ cao quanh năm ít khi biến động và có hai mùa rõ rệt là mùa ma và
mùa khô. Nhìn chung, thời tiết ở Bến Tre ổn định ít biến động thất thờng rất
thích hợp cho phát triển sản xuất nông nghiệp bởi ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
lợng ma rất thuận lợi cho sự sinh trởng của các loại cây trồng, vật nuôi. Trở
ngại đáng kể trong sản xuất nông nghiệp là vào mùa gió chớng nớc biển thờng
xâm nhập sâu vào trong đất liền làm một số vùng bị nhiễm mặn, ảnh hởng đến
năng suất cây trồng cho nhà nông. Độ mặn xâm nhập trên ba dải cù lao Bến
111
Tre trong xu hớng ngày càng lên cao đã tác động làm thay đổi giống cây trồng
của tỉnh, cần đợc khảo sát và lãnh đạo kịp thời để tránh thiệt hại [15, tr.44 -
45].
Hơn nữa, trong những năm chiến tranh, Bến Tre là tỉnh bị tàn phá khốc
liệt và nặng nề nhất so với các tỉnh khác ở miền Tây Nam bộ. Không những
các cơ sở kinh tế bị tàn phá mà ngay cả cơ sở vật chất của địch để lại sau ngày
giải phóng dờng nh không có gì. Ngoài những cơ sở dịch vụ sửa chữa cơ khí
nhỏ và vài xởng sửa xe cơ giới, cùng một ít phơng tiện giao thông vận tải thuỷ
bộ cũ kỹ, không có một cơ sở sản xuất nào đáng kể. Bởi lẽ, dới mắt kẻ thù,
Bến Tre là một mảnh đất không an toàn nên chúng không đầu t xây dựng một
cơ sở sản xuất nào trong suốt hơn hai mơi năm chiến tranh.
Nh vậy, từ những điều kiện tự nhiên và lịch sử đã quy định Bến Tre là
một tỉnh lấy nông nghiệp làm chủ yếu. Cho nên trong giai đoạn hiện nay để
xây dựng và phát triển KT-XH của tỉnh nhà, Bến Tre không còn con đờng nào
khác hơn là phải xuất phát từ nông nghiệp, đi lên từ nông nghiệp nhng không
phải là một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cấp, tự túc, khép kín, sản xuất nhỏ lẻ
nh trớc đây mà phải là một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn tức là phải
tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chỉ có thực hiện CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn mới phá thế biệt lập giữa Bến Tre với các tỉnh trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mới có thể đa nông nghiệp tỉnh nhà thoát

khỏi tình trạng trì trệ; diện mạo nông thôn mới trở nên khởi sắc qua đó rút
ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, làm cho nông thôn ngày càng
văn minh, tiến bộ, đặc biệt đời sống của dân c nông thôn ngày một trở nên
sung túc, khá giả hơn.
Trớc đây Bến Tre có phong trào Đồng khởi trong chống Mỹ cứu nớc đi
vào lịch sử mở ra bớc ngoặt mới chuyển cách mạng miền Nam từ thế bị động
phòng ngự sang thế chủ động tiến công trên khắp các chiến trờng Nam bộ nh
cố Tổng bí th Lê Duẩn đã viết làn sóng Đồng khởi nh nớc vỡ bờ lan ra toàn
tỉnh Bến Tre và khắp các tỉnh Nam bộ, Tây Nguyên và Trung trung bộ [7,
tr.397]. Ngày nay tiếp nối truyền thống năm xa, Tỉnh uỷ Bến Tre đã đề ra Nghị
quyết 08 vào cuối năm 1999 phát động phong trào Đồng khởi mới - một
phong trào Đồng khởi phát huy mọi tiềm lực, mọi sức mạnh của các tầng lớp
nhân dân để tiến công vào mặt trận phát triển KT-XH, quyết tâm xây dựng
121
quê hơng Bến Tre ngày một giàu đẹp, từng bớc thu hẹp khoảng cách với các
tỉnh trong khu vực.
Với tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết tâm chiến thắng nghèo nàn
lạc hậu, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre trong những năm qua luôn chú trọng đẩy
mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện. Văn
kiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Bến Tre lần thứ VI (5/1996) khẳng định:
Bến Tre là tỉnh nông nghiệp, trong những năm trớc mắt phải rất
quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Phát triển toàn diện nông, ng nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, thuỷ sản; xây dựng có chọn lọc công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; mở rộng thơng nghiệp,
du lịch, dịch vụ ở các thành thị và nông thôn [15, tr.48].
Thành tựu đạt trong những năm đầu thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là rất căn bản, đã tạo dựng nền tảng ban đầu cho những bớc
phát triển tiếp theo. Nên trong phơng hớng của Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng
bộ Bến Tre lần thứ VII (12/2000) đã tiếp tục khẳng định:

Cần tiếp tục đầu t phát triển nông nghiệp toàn diện theo h-
ớng thâm canh, chuyên canh, xen canh thích hợp, tận dụng mặt đất,
mặt nớc làm tăng giá trị trên một đơn vị sản xuất, tăng hiệu quả
cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Từng bớc công nghiệp hóa - hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu tạo mức tăng trởng bình
quân từ 5,5% - 6%/năm. Tập trung đầu t khai thác hai thế mạnh:
kinh tế thuỷ sản và kinh tế vờn, tạo những bớc đột phá mới thúc đẩy
nền kinh tế phát triển [16, tr.52].
Từ phơng hớng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mà Nghị
quyết của Đại hội của Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI, VII đã khẳng định và
tiếp tục đợc cụ thể hoá trong các Nghị quyết tiếp theo, có thể khái quát CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của Bến Tre với những nội dung sau đây:
Một là, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là quá trình phát
triển toàn diện chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu tự cấp, tự túc khép kín, sản
xuất nhỏ sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn đem lại hiệu quả kinh tế
cao; phá thế biệt lập của một tỉnh cù lao, mở ra cơ hội giao lu, hội nhập với
các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và của cả nớc.
131
Hai là, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là quá
trình không ngừng đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nhất là công nghệ
sinh học đem lại năng suất, chất lợng cao; là quá trình đẩy mạnh thuỷ lợi hoá,
điện khí hoá đặc biệt là đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá.
Đến năm 2010, phấn đấu cơ giới hoá 100% khâu làm đất và
tuốt lúa, tới tiêu bằng máy 90% diện tích lúa và 80% diện tích cây ăn
trái ở các vùng sản xuất tập trung. Từng bớc cơ giới hoá khâu gieo
trồng, gặt lúa và bảo vệ cây trồng; cải tiến phần lớn thiết bị chế biến đ-
ờng thủ công, thiết bị sản xuất chỉ xơ dừa trong tỉnh [17, tr.5].
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng nâng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông - lâm - thuỷ sản trong
GDP của tỉnh để đến năm 2005 còn 55% và năm 2010 còn 45% [17, tr.2].

Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp. Chú trọng công
nghiệp và phát triển công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, đảm bảo đầu ra
cho nông sản hàng hoá. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhiều
loại dịch vụ ở nông thôn, trớc hết là các dịch vụ kỹ thuật, tín dụng, thơng mại,
dịch vụ phục vụ đời sống, phát triển mạnh du lịch nhất là du lịch sinh thái để
tạo nhiều việc làm tăng thu nhập cho nông dân.
Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn trên
cơ sở huy động mạnh mẽ các nguồn lực để đẩy mạnh đầu t, đến năm 2000 giải
quyết cơ bản các yêu cầu về thuỷ lợi, giao thông nhất là giao thông nông thôn,
về cấp nớc sinh hoạt nông thôn và vệ sinh môi trờng, về phát triển hệ thống
mạng lới điện, Nội dung này đợc cụ thể hoá xây dựng thành chơng trình lớn
Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật chủ yếu trên địa bàn nông thôn tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2001 - 2005. Dự kiến đến năm 2005 có 80% dân c nông thôn
đợc hởng thụ những thành quả do chơng trình này mang lại. Từ đó tạo bớc đột
phá hình thành nên động lực mới thúc đẩy làm biến đổi về chất đối với sự phát
triển KT-XH nhằm đạt mục tiêu chung là khắc phục sự tụt hậu về kinh tế, xoá
đói giảm nghèo. Từng bớc tạo dựng một diện mạo nông thôn mới ngày càng
văn minh, hiện đại, phát triển bền vững nhng vẫn giữ đợc nét văn hoá độc đáo
riêng của miền quê sông nớc.
1.2. Vai trò của nông dân trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre
Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre trong giai
đoạn hiện nay là một quá trình đầy khó khăn và không kém phần gian khổ. Để
141
đảm bảo cho việc thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng này đòi hỏi phải
khai thác tối đa tất cả các nguồn lực hiện có; phải có sự tham gia tích cực, đầy
trách nhiệm của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Trong
đó vai trò của nông dân Bến Tre với tính cách là chủ thể tham gia trực tiếp, là
lực lợng nòng cốt tham gia vào quá trình này phải đợc khẳng định một cách rõ
nét và sâu sắc nhất.

1.2.1. Các nguồn lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre
Nguồn lực bên ngoài
Khi đề cập đến nguồn lực bên ngoài thực chất là đề cập đến các nguồn
vốn đầu t của Trung ơng, của các doanh nghiệp trong nớc và ngoài nớc. Đối
với Bến Tre trong quá trình tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì
một trong những vấn đề đợc quan tâm hàng đầu là cần có nguồn vốn lớn phục
vụ cho đầu t và sản xuất. Trong những năm qua, Bến Tre luôn mời gọi vốn đầu
t từ nhiều nguồn khác nhau góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trong đó đặc biệt là nhanh chóng phát triển hai thế mạnh kinh tế
thuỷ sản và kinh tế vờn.
Tổng vốn đầu t toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 3 năm qua tăng liên tục cả
thời kỳ đạt 8.642 tỷ đồng: năm 2002 đạt 1.912 tỷ đồng, năm 2003 đạt 2.867 tỷ
đồng, năm 2004 đạt 3.863 tỷ đồng. Trong cơ cấu vốn đầu t thì đầu t của dân c
và khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng và có mức tăng trởng cao nhất;
nếu năm 2002 là 811 tỷ đồng bằng 42%, năm 2003 là 1.595,5 tỷ đồng bằng
56% thì năm 2004 là 2.674 tỷ đồng bằng 69%. Riêng đối với đầu t nớc ngoài,
so với thời kỳ 1996 - 2000 thì khu vực này có bớc tăng trởng đáng kể, năm
2002 đạt 45,1tỷ đồng, năm 2003 đạt 90 tỷ đồng và năm 2004 đạt 123 tỷ đồng.
Trong đó lĩnh vực đợc quan tâm đầu t nhiều nhất là nuôi trồng chế biến thuỷ
sản, công nghiệp chế biến sản phẩm từ dừa, sản xuất và kinh doanh cây giống,
cây cảnh, Hằng năm có trên một trăm đoàn doanh nghiệp, nhà đầu t trong và
ngoài nớc (kể cả Việt kiều) đến Bến Tre để tìm cơ hội đầu t.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 6 dự án của FDI còn hiệu lực với tổng vốn
đầu t là 18,49 triệu USD, kể cả 2 dự án đầu t 100% vốn nớc ngoài với tổng vốn
đăng ký 7,9 triệu USD đợc cấp phép đầu t cuối năm 2004 và đầu năm 2005.
Hiện có 8 dự án sử dụng vốn ODA đang triển khai trên địa bàn tỉnh với tổng
vốn cam kết tài trợ 31,9 triệu USD, đã giải ngân tính đến cuối tháng 6/2004 là
151
11,4 triệu USD tơng đơng 35,7% tổng vốn cam kết tài trợ. Các dự án ODA đợc

thực hiện chủ yếu trong các lĩnh vực nh cung cấp nớc sạch và vệ sinh môi tr-
ờng ở nông thôn, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, y tế, giáo dục, xây dựng giao
thông thuỷ lợi trên địa bàn nông thôn.
Bên cạnh đó nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs)
huy động hàng năm đều tăng, trung bình thu hút từ khoảng 200.000 đến
300.000 USD/năm đã góp phần đáng kể vào các hoạt động xoá đói, giảm
nghèo, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Ngoài ra còn có vốn liên doanh, liên kết, ngoài dự án của cầu Rạch
Miễu đang triển khai theo hình thức BOT trong nớc với tổng vốn đầu t ớc
khoảng 800 tỷ đồng, còn lại tập trung vào một số lĩnh vực nh: gia công chế
biến hạt điều, nuôi thuỷ sản, xây dựng chợ nông thôn, chế biến bột cá, ớc
tính trên 200 tỷ đồng.
Nhìn chung tổng vốn đầu t toàn xã hội trên địa bàn tỉnh các năm qua
tăng liên tục. Cơ cấu nguồn vốn huy động ngày càng đợc cải thiện theo hớng
tăng tỷ trọng đầu t nớc ngoài và liên doanh, liên kết ngoài tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt đợc, tình hình thu hút vốn đầu t của Bến
Tre thời gian qua cha thật sự tơng xứng với tiềm năng của tỉnh. Nguyên nhân
là do: kết cấu hạ tầng KT-XH còn nhiều yếu kém, ngay cả các khu công
nghiệp cũng cha đợc chuẩn bị tốt về hạ tầng, nguồn nhân lực thiếu và yếu,
chính sách u đãi đối với nhà đầu t đã ban hành và thực tiễn còn có một khoảng
cách, quỹ đất dành cho nhà đầu t cha đợc chuẩn bị sẵn, cha quan tâm đúng
mức đến công tác hỗ trợ sau giấy phép đầu t, sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp trong tỉnh còn nhiều bất cập,
Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn đầu t, khai thác các lợi thế sẵn có góp
phần đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bến Tre cần
thực hiện ngay các biện pháp nh: đẩy mạnh đầu t phát triển kết cấu hạ tầng
KT-XH; tập trung đầu t cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo; thực hiện mạnh mẽ
công tác cải cách hành chính; điều chỉnh các chính sách đầu t theo hớng thông
thoáng hơn, cụ thể hơn ở từng địa bàn và lĩnh vực; đẩy mạnh tiếp thị về chính
sách và môi trờng đầu t đến các nhà đầu t trong và ngoài nớc, trong đó chú

trọng giới thiệu chính sách u đãi và danh mục dự án cụ thể, không kêu gọi
chung chung và tập trung thực hiện thật tốt những cam kết với nhà đầu t.
Nguồn lực bên trong
161
+ Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:
Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn trên bản
đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà đầu nhọn nằm ở thợng nguồn, còn các
nhánh sông lớn giống nh nan quạt xoè rộng ra về phía Đông. Diện tích tự
nhiên của tỉnh là 2.232 km
2
, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang có ranh giới chung là
sông Tiền, phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh có ranh giới
chung là sông Cổ Chiên, phía Đông giáp biển với 65 km chiều dài bờ biển.
Là một tỉnh bốn bề sông nớc bao bọc, Bến Tre có một hệ thống đờng
giao thông thuỷ rất phức tạp. Ngoài bốn con sông chính chảy vào địa phận
Bến Tre tạo nên ba dải cù lao, Bến Tre còn có một mạng lới sông, rạch, kênh
đào chằng chịt nối liền nhau với tổng chiều dài khoảng 6000 km. Trung bình
đi dọc theo các sông chính, cứ cách khoảng 1 đến 2 km là có một con rạch
hay kênh. Bến Tre có hàng trăm sông, rạch và kênh trong đó có trên 60 con
sông, rạch, kênh rộng từ 50 - 100m [39, tr.147]. Với một mạng lới sông ngòi
chằng chịt đan vào nhau nh những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao rất
thuận lợi cho giao thông vận tải đờng thuỷ cũng nh cung cấp một lợng nớc dồi
dào cho sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, đất đai ở Bến Tre khá đa dạng và phong phú chủ yếu bao
gồm các nhóm đất nh: đất cát, đất phù sa, đất phèn, đất mặn. Nhìn chung, Bến
Tre là tỉnh có tiềm năng dồi dào về đất đai, trên 66% diện tích thuộc loại thuận
lợi, hoặc ít hạn chế đối với các loại cây trồng chính. Các loại đất có nhiều hạn
chế đối với một số cây trồng nh: lúa, dừa, cây công nghiệp ngắn ngày chỉ
chiếm 19%, trong đó số diện tích có hạn chế quan trọng thực sự chỉ khoảng
10%. Do tiếp giáp với biển lại có nhiều sông ngòi bồi đắp phù sa nên đất Bến

Tre hình thành nên ba vùng tự nhiên: vùng nớc ngọt chiếm 37% diện tích,
vùng nớc lợ chiếm 27% diện tích và vùng nớc mặn chiếm 36% diện tích. Mỗi
một vùng đất có một lợi thế nhất định và đều có vai trò quan trọng trong phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện. Đối với vùng có nớc ngọt quanh năm đất
đai phì nhiêu màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển vùng chuyên canh cây ăn
trái nh huyện Châu Thành, Chợ Lách, Thị xã. Đối với vùng nớc mặn lại có
tiềm năng rất lớn cho phát triển nuôi thuỷ sản nhất là nuôi tôm công nghiệp.
Từ điều kiện về tự nhiên thì tài nguyên của Bến Tre đó chính là các loại
cây trồng vật nuôi mà Bến Tre có tiềm năng và lợi thế để phát triển. Đối với
các chủng loại cây trồng ở Bến Tre thì cây dừa không thể không đợc nhắc đến
171
đầu tiên bởi ca dao có câu Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Từ lâu, Dừa không chỉ
trở thành biểu tợng của Bến Tre trong văn học mà còn thật sự là một thế mạnh
trong phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh nhà. Cho đến nay, Bến Tre vẫn là
tỉnh dẫn đầu cả nớc về dừa trên cả hai mặt diện tích và sản lợng. Tính đến cuối
năm 2004 diện tích vờn dừa ở Bến Tre là 35.885 ha với sản lợng ớc khoảng
241,66 triệu quả [5, tr.78].
Các giống dừa trồng phổ biến ở địa phơng có dừa ta, dừa dâu, dừa lửa,
dừa nhiếm, dừa xiêm, dừa cỏ, dừa Tam quan. Do biên độ sinh trởng khá rộng,
dừa có khả năng phát triển ở cả ba vùng sinh thái: ngọt, lợ, mặn. Riêng vùng
nớc lợ đã tỏ ra có ảnh hởng tốt đến việc sinh trởng của cây dừa và hàm lợng
dầu của quả. Từ cây dừa đã mở ra triển vọng rất lớn cho ngành công nghiệp
chế biến và tiểu thủ công nghiệp, các sản phẩm từ dừa nh: sản xuất dầu dừa,
bột sữa dừa, thạch dừa, than thiêu kết, than hoạt tính, chỉ xơ dừa và hàng thủ
công mỹ nghệ từ cọng lá dừa, thân dừa, Do nền công nghiệp chế biến còn
non trẻ, nên việc chế biến các sản phẩm từ quả dừa ở Bến Tre thời gian qua
còn nhiều hạn chế. Cho nên rất cần sự đầu t hơn nữa mới tạo đợc nhiều sản
phẩm hàng hoá từ dừa với chất lợng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và
xuất khẩu.
Song song với cây dừa, Bến Tre còn nổi tiếng về cây ăn trái tập trung ở

các huyện Chợ Lách, Châu Thành và một phần Thị xã, đặc biệt là huyện Chợ
Lách. Đây là vùng nớc ngọt quanh năm, đất đai phì nhiêu màu mỡ. ở đây,
nông dân đã tạo nên những vờn cây ăn trái có năng suất cao, giàu về chủng
loại, có nhiều loại trái cây có chất lợng cao đã đợc khẳng định trong ca dao
sầu riêng, măng cụt Cái Mơn nh là thơng hiệu riêng có của Bến Tre. Nói
chung, nửa phần đất phía trên của cù lao Bảo nh Giồng Trôm, Thị xã, Châu
Thành và cù lao Minh nh Mỏ Cày, Chợ Lách, đều thích hợp với cây ăn trái. Có
các loại cây trồng chủ yếu với giá trị kinh tế cao nh sầu riêng, măng cụt, bởi
da xanh, trên một diện tích tính đến cuối năm 2004 là 40.451 ha với sản l-
ợng là 375.147 tấn. Từ việc chăm trồng cây ăn trái những ngời làm vờn nhất là
ở Chợ Lách đã tạo nên một nghề mới - nghề chiết ghép cây, ghép cành, lai tạo
các giống cây mới, các giống hoa, cây cảnh, bon sai. Do vậy, Bến Tre không
chỉ là nơi cung cấp những loại trái cây quý và ngon mà còn là nơi sản xuất cây
giống cho các tỉnh Tây Nam bộ, Đông Nam bộ và Tây Nguyên.
Cùng với kinh tế vờn thì thuỷ sản cũng là ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh. Với 65 km bờ biển cộng với mạng lới sông ngòi chằng chịt là môi trờng
181
lý tởng cho sự sinh trởng của 208 loài động vật thuỷ sản, trong đó có 122 loài
cá, 18 loài tôm và 24 loài giáp xác, nhuyển thể 2 mảnh vỏ có giá trị kinh tế
cao. Nh vậy, đối với Bến Tre đây là tiềm năng vô cùng to lớn cho việc nuôi
trồng, đánh bắt thuỷ sản trên cả ba vùng nớc ngọt, nớc mặn và nớc lợ. Do điều
kiện tự nhiên đa dạng nên nuôi trồng thuỷ sản cũng phải phù hợp với điều kiện
sinh thái của từng vùng. Đối với vùng nớc ngọt rất thuận lợi cho việc nuôi tôm
càng xanh trong mơng vờn và các loại cá nớc ngọt có giá trị kinh tế cao [39,
tr.478]. Đối với vùng mặn và lợ lại thuận lợi cho việc hình thành các khu vực
nuôi tôm công nghiệp tập trung. Đến nay diện tích nuôi thuỷ sản đạt 42.371
ha với tổng sản lợng là 140.692 tấn [46].
+ Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng KT-XH:
Phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH là tiền đề, điều kiện quan trọng không
thể thiếu trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Riêng

đối với Bến Tre, việc phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH lại càng có ý nghĩa to
lớn, không chỉ là động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn tiến nhanh hơn mà còn nhằm nâng cao các phúc lợi xã hội cho dân c
nông thôn, bởi lẽ một nông thôn hiện đại thì ngời dân sẽ có nhiều điều kiện
thuận lợi và cơ hội để sản xuất và sinh hoạt tốt hơn.
Về thuỷ lợi: trong những năm qua, Bến Tre bớc đầu đã xây dựng đợc hệ
thống các công trình thuỷ lợi quan trọng nh cống đập Ba Lai, Cầu Sập, hệ
thống đê biển Bình Đại, đê bao Chợ Lách, Nhìn chung, các công trình thuỷ
lợi khi đa vào hoạt động đều phát huy tác dụng trong việc ngăn mặn, chống lũ,
dẫn ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích thâm canh tăng vụ,
cải tạo vờn tạp, tăng năng suất cây trồng, cung cấp nớc sinh hoạt và kết hợp
với giao thông nông thôn. Đến nay các công trình thuỷ lợi sẵn có đã phục vụ t-
ới tiêu cho 77.290 ha và ngăn mặn cho 66.988 ha đất nông nghiệp. Tuy nhiên,
hệ thống thuỷ lợi ở Bến Tre hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế đó là sự không
đồng bộ đặc biệt là thiếu hệ thống thuỷ lợi nội đồng hoàn chỉnh và nhìn chung
là cha ngang tầm với yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn đang đặt ra.
Về giao thông: đối với Bến Tre mạng lới vận tải đờng thuỷ so với các
tỉnh trong khu vực là một thế mạnh do đợc thiên nhiên u đãi với cả một hệ
thống sông ngòi chằng chịt. ở thị xã Bến Tre có thể di chuyển đến các huyện,
xã, thậm chí đến các xóm ấp bằng phơng tiện sà lan hoặc ghe thuyền có trọng
tải từ 100 - 200 tấn; từ Bến Tre có thể đi đến các tỉnh miền Tây Nam bộ bằng
191
đờng thuỷ. đối với mạng lới giao thông đờng bộ bao gồm quốc lộ, đờng tỉnh,
đờng huyện, đờng xã có tổng chiều dài 4.037 km. Trong đó có 2 tuyến đờng
quốc lộ với chiều dài 131 km, 6 tuyến đờng tỉnh với chiều dài 170,6 km, 28
tuyến đờng huyện với chiều dài 419,9 km, đờng vào UBND xã, đờng xã và đ-
ờng trong xóm ấp có tổng chiều dài 3.309 km. Đến nay các đờng quốc lộ, đ-
ờng tỉnh, đờng huyện đều đợc thông suốt. Đờng xã và liên xã về cơ bản đã đợc
nhựa hoá, bê tông hoá nhng vẫn còn 5 xã cha có đờng giao thông đến trung

tâm xã. Tuy nhiên do địa hình Bến Tre có rất nhiều sông rạch chia cắt, cho nên
giao thông đờng thuỷ thuận lợi bao nhiêu thì giao thông đờng bộ khó khăn
bấy nhiêu. Vì vậy, muốn có một hệ thống giao thông đờng bộ thông suốt thì
phải có một hệ thống cầu nối liền đờng bộ tơng ứng. Vì vậy, hiện nay, việc xây
cầu Rạch Miễu vợt sông Tiền và tiếp theo xây cầu Hàm Luông thay thế các
bến phà hiện hữu nhằm phá thế biệt lập giữa Bến Tre với các tỉnh trong khu
vực; đồng thời quá trình xoá cầu khỉ ở vùng nông thôn thay thế bằng cầu thép
không gian, cầu treo cho cả hệ thống sông, kênh rạch khắp địa bàn nông thôn
Bến Tre đang là một thách thức đối với Bến Tre trong phát triển KT-XH, CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Về điện lực: Để CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhu cầu về điện là
cực kỳ quan trọng. Từ cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu tiếp quản từ chế độ cũ,
sau 30 năm củng cố và xây dựng ngành điện lực Bến Tre không ngừng phấn
đấu nỗ lực vợt qua khó khăn từng bớc phát triển mạng lới điện cao thế, trung
thế, hạ thế trên cả ba dải cù lao. Với sản lợng điện sản xuất không ngừng tăng
nhanh. Nếu năm 1980 sản lợng điện sản xuất chỉ đạt 6,4 triệu KWh thì năm
1985 là 17,25 triệu KWh; năm 1990 là 33,3 triệu KWh; năm 1995 là 60,7
KWh; năm 2000 là 140 triệu KWh và tính đến cuối năm 2004 sản lợng điện
đạt tới 267 triệu KWh. Đến nay Bến Tre là một trong những tỉnh ở khu vực
đồng bằng sông Cửu Long sớm hoàn thành mục tiêu đa điện lới quốc gia phủ
khắp 100% xã, phờng và hiện có 81% số hộ sử dụng điện. Việc thực hiện tốt quá
trình điện khí hoá nông thôn sẽ là động lực to lớn góp phần thúc đẩy sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tăng tốc nhanh hơn.
Nhìn chung cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng KT-XH ở Bến Tre nhiều năm
qua luôn đợc chú trọng đầu t và bớc đầu đã đạt đợc những kết quả đáng trân
trọng. Tuy nhiên xét về tổng thể cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng ở Bến Tre hiện
nay vẫn còn trong tình trạng yếu kém, cha thật sự trở thành động lực thúc đẩy
201
phát triển CNH, HĐH, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khó thu
hút đợc các nhà đầu t. Vì vậy, vấn đề đầu t xây dựng, phát triển kết cấu KT-

XH ở Bến Tre hiện nay vẫn là vấn đề mang tính sống còn, cần đợc u tiên hàng
đầu.
+ Nguồn nhân lực:
Trong tất cả các nguồn lực cùng tác động đến quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thì nguồn nhân lực (nguồn lực về con ngời) có vị trí đặc biệt
quan trọng luôn giữ vai trò quyết định và là nguồn lực của các nguồn lực. ở nớc
ta khái niệm nguồn lực con ngời đợc sử dụng tơng đối rộng rãi kể từ đầu thập
niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng nh
các Từ điển Tiếng Việt cha thấy đa ra định nghĩa về nguồn lực con ngời. Dù vậy,
các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn
lực con ngời. GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng: "Nguồn lực con ngời là số
dân và chất lợng con ngời, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất" [22, tr.328]. GS.TS Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng:
"Nguồn lực con ngời là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo,
chất lợng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con ngời" [2,
tr.14]. Theo tác giả Hoàng Chí Bảo, "Ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn
lực con ngời là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực
tiếp của con ngời, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh
nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, cách tân các hoạt động, sáng
tạo ra các giải pháp mới đối với công việc nh một sự sáng tạo văn hóa" [2, tr.15].
Xét theo ý nghĩa đó, nguồn lực con ngời bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú,
sự sâu sắc, đổi mới thờng xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức
và quản lý, Trong quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của
nguồn lực con ngời.
Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng
(khóa VIII) nguyên Tổng Bí th Đỗ Mời khẳng định: Nguồn lực con ngời là
quý báu nhất. Nguồn lực đó là ngời lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành
thạo, có phẩm chất tốt đẹp, đợc đào tạo, bồi dỡng và phát huy bởi một nền
giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học - công nghệ hiện đại. Quan
niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của ngời lao động -

nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia.
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu:
Nguồn lực con ngời là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là
211
chất lợng ngời với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm nên sức
mạnh của nó trong sự phát triển xã hội.
Với cách hiểu này, khái niệm nguồn lực con ngời có nội dung rộng, đề
cập tới những mặt cơ bản sau:
- Thứ nhất, nguồn lực con ngời đợc biểu hiện ra là ngời lao động, là lực
lợng lao động (với con ngời trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động), là
ngời lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến nguồn lực con ngời
còn nói đến quy mô dân số và tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định
của một quốc gia, một địa phơng.
- Thứ hai, nguồn lực con ngời phản ánh cơ cấu dân c, nhất là cơ cấu lao
động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế,
- Thứ ba, nguồn lực con ngời chủ yếu nói lên chất lợng dân số, đặc biệt
là chất lợng của lực lợng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong tơng lai.
- Thứ t, nguồn lực con ngời còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn
nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng nh sự tác động qua lại giữa
nguồn lực con ngời với các nguồn lực khác và với môi trờng xung quanh.
Bến Tre trong quá trình phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo
hớng CNH, HĐH có đợc thuận lợi là dân số đông. Tính đến cuối năm 2004
dân số Bến Tre là 1.345.637 ngời, trong đó dân c chủ yếu sinh sống ở nông
thôn lên đến 1.215.110 ngời. Dân số đông đã giúp cho Bến Tre có nguồn lao
động dồi dào, đến cuối năm 2004 số ngời trong độ tuổi lao động là 893.670
ngời (trong đó số ngời lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là 539.706
ngời, còn lại là ở các lĩnh vực khác) [5, tr.16-19].
Xét về cơ cấu nguồn nhân lực, hiện nay ở Bến Tre còn nhiều bất cập. Để
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre đạt đợc nhiều thành tựu
to lớn đòi hỏi phải có đội ngũ đông đảo cán bộ làm công tác quản lý, công tác

khoa học và công tác chuyên môn có trình độ cao. Thế nhng hiện nay ở Bến Tre
lực lợng này còn quá mỏng. Trong số cán bộ làm công tác quản lý, công tác khoa
học và công tác chuyên môn có tăng lên hàng năm. Trong 5 năm (2000-2005) đã
đào tạo, bồi dỡng 17.909 cán bộ các loại, trong đó có 2 tiến sĩ, 176 thạc sĩ, 1.697
ngời có trình độ đại học, cử nhân, cao đẳng [20, tr.4]. Riêng Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre với chức năng, nhiệm vụ của mình đã và đang
giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đa nền nông nghiệp tỉnh nhà phát
triển toàn diện theo hớng CNH, HĐH. Nhng hiện nay đội ngũ cán bộ trong toàn
221
ngành chỉ có 457 ngời. Trong đó số cán bộ có trình độ sau đại học chỉ có 2 ngời
(0,43%). Số cán bộ có trình độ đại học là 140 ngời (30,63%). Trình độ trung cấp
là 152 ngời (32,26%). Số còn lại là sơ cấp. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ khoa học
ở Bến Tre còn nhiều bất cập, ít về số lợng, yếu về chất lợng, cha đủ sức làm đầu
tàu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và nhất là cán bộ khoa học
- công nghệ là một thực tế. Đây lại là lực lợng nòng cốt tham gia vào quá trình
hoạch định chiến lợc, đề ra mục tiêu, phơng hớng, giải pháp cũng nh tổ chức,
triển khai CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói
riêng. Có thể nói, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn diễn ra với tốc độ nhanh
hay chậm, hiệu quả cao hay thấp một phần phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ
cán bộ này.
Trong những năm gần đây Bến Tre rất quan tâm đến việc trọng dụng
nhân tài đợc thể hiện bằng những chính sách, chế độ đãi ngộ cao, tạo sự hấp
dẫn thu hút, mời gọi ngời tài từ các địa phơng khác đến Bến Tre công tác theo
tinh thần của Quyết định số 4051/2001/QĐ-UB của UBND tỉnh Bến Tre "Về
việc ban hành Quy định về chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công
chức có trình độ, năng lực tốt". Nhng do Bến Tre là tỉnh cù lao, biệt lập với
các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, kết cấu hạ tầng KT-XH
kém phát triển, nên không có nhiều cơ hội để phát huy tài năng. Vì vậy, hiện
nay số cán bộ có trình độ cao từ các nơi khác đến Bến Tre công tác là rất ít.

Cho nên, để có nguồn cán bộ chất lợng cao, đáp ứng đợc yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Bến Tre cần
hớng vào việc lựa chọn số cán bộ u tú đang công tác tại địa phơng tiếp tục đa
đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. Bằng tình yêu và sự gắn bó với quê
hơng cộng với năng lực chuyên môn đợc nâng lên rõ rệt, đây sẽ là lực lợng
quan trọng đa Bến Tre có bớc phát triển mạnh mẽ về KT-XH.
- Đối với đội ngũ công nhân lao động trong lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng trên toàn tỉnh đến cuối năm 2004 chỉ có 47.128 ngời chủ yếu là lao
động phổ thông cha qua đào tạo, số lao động qua đào tạo có tay nghề cao
chiếm một tỷ lệ rất thấp năm 2004 chỉ có 22%. Số lợng đội ngũ công nhân đã
ít, chất lợng lao động lại thấp thể hiện ở trình độ tay nghề, tác phong, Điều
này phần nào cho thấy nền công nghiệp ở Bến Tre hiện nay vẫn còn rất non
trẻ, quy mô nhỏ bé cha đủ sức làm đầu tàu trong nền kinh tế của tỉnh nhà.
231
- Trong khi đó số ngời trong độ tuổi lao động trên địa bàn nông thôn
tham gia sản xuất trong các lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là rất cao 539.706
ngời (năm 2004). Thực chất đây chính là nông dân. Nh vậy có thể thấy, trong
nguồn lực con ngời để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến
Tre hiện nay thì nông dân đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi chính nông
dân là lực lợng lao động hùng hậu để sản xuất ra một khối lợng hàng hoá nông
sản đồ sộ tạo ra giá trị rất cao cho nền kinh tế của tỉnh nhà: năm 2004 chiếm
60,82% GDP; trong khi đó giá trị sản xuất của ngành công nghiệp và xây
dựng chỉ chiếm có 15,65%, dịch vụ là 23,53% [5, tr.29]. Hạn chế lớn nhất
hiện nay đối với nông dân Bến Tre đó chính là trình độ dân trí. Mặt bằng dân
trí thấp đã và đang gây khó khăn cho nông dân trong việc nhận thức về Nghị
quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc; cũng nh trong việc tiếp
cận, ứng dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ trong quá trình sản xuất.
Rõ ràng qua thực tế cho thấy sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn là do quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Bến Tre, là sự huy động tối đa
các nguồn lực nhng trong đó nguồn lực con ngời là đặc biệt quan trọng. Trong

nguồn lực con ngời tham gia vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn thì nông dân Bến Tre trong hiện tại và tơng lai vẫn là nguồn nhân lực cơ
bản nhất giữ vai trò nòng cốt quyết định sự thành công của CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
1.2.2. Vai trò của nông dân Bến Tre với tính cách là nguồn nhân lực
cơ bản nhất
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
vùng đất Bến Tre là địa bàn trọng điểm đánh phá ác liệt luôn bị bom đạn của
kẻ thù cày xới, tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, nhân dân Bến Tre trong đó đặc
biệt là nông dân luôn có niềm tin vững chắc vào Đảng, một lòng một dạ theo
Đảng làm cách mạng. Với tinh thần một tấc không đi, một li không rời nhân
dân Bến Tre đã bám đất, bám làng, là lá chắn vững chắc bảo vệ các cơ sở cách
mạng. Bản thân nhân dân Bến Tre luôn đi đầu trong các phong trào cách mạng
đấu tranh trực diện với kẻ thù, bằng sự cống hiến và hy sinh vô cùng to lớn với
35.000 liệt sĩ, 21.000 thơng binh, 2.067 mẹ Việt Nam anh hùng. Đặc biệt với
phong trào Đồng khởi năm 1960 của nhân dân Bến Tre đã đánh dấu cho việc mở
ra một bớc ngoặt lịch sử quan trọng nh lời Đại tớng Hoàng Văn Thái đã viết
Phong trào Đồng khởi Bến Tre đã mở đầu cho một cuộc tấn công và nổi dậy lần
241
thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu cho cuộc khủng hoảng triền miên
của chính quyền Mỹ Diệm. Rõ ràng phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào
lịch sử nh một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí xứng đáng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nớc ở miền Nam và xứng đáng đợc gọi là Quê hơng Đồng
khởi với tất cả nội dung và tính chất của nó [39, tr.1091].
Sau ngày đất nớc thống nhất, hoà chung không khí nô nức, phấn khởi
của cả dân tộc trong ngày vui đại thắng, nhân dân Bến Tre tiếp tục phát huy
truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cờng, t tởng tiến công cách mạng
quyết tâm xây dựng lại quê hơng. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy vùng đất nào
trong chiến tranh kiên cờng, cách mạng nhất thì trong thời bình xây dựng,
phát triển KT-XH luôn gặp khó khăn trở ngại nhiều nhất; nhân dân Bến Tre

mà đặc biệt là nông dân, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nớc từng đợc
Trung ơng cục và Quân uỷ Miền năm 1968 tuyên dơng tám chữ vàng Anh
dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt nguỵ, là lực lợng cách mạng nhất thì trong
thời bình cũng gặp nhiều thiệt thòi nhất. Thật vậy, sau ngày giải phóng, Đảng
bộ và nhân dân Bến Tre bắt tay vào xây dựng lại cuộc sống mới từ một xuất
phát điểm rất thấp. Nền công nghiệp hoàn toàn không có. Nền nông nghiệp
đầy rẫy những khó khăn bởi sau mấy chục năm chiến tranh nhà cửa, đất đai,
ruộng vờn đã bị bom đạn, chất độc hoá học của kẻ thù tàn phá nghiêm trọng
lên đến 30.000 ha. Trong khi đó Bến Tre lại bị hạn hán mất mùa liên tục trong
3 năm 1977 - 1979 đã làm cho đời sống của nhân dân đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn, một bộ phận nhân dân bị đói.
Không cam chịu đói nghèo, toàn Đảng, toàn dân Bến Tre đoàn kết một
lòng quyết tâm xây dựng lại quê hơng tiến công vào mặt trận mới, một mặt trận
không có tiếng súng nhng không vì thế mà kém phần gian khổ, đó chính là mặt
trận kinh tế, là sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
ý Đảng hợp lòng dân. Nông dân Bến Tre với tinh thần cách mạng, tiếp
nối truyền thống năm xa đã khẳng định đợc vai trò to lớn của mình thể hiện ở
việc chi phối và quyết định sự thành bại của cả quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Trong sự nghiệp cách mạng này vai trò của nông dân đợc
thể hiện trên các mặt sau:
- Thứ nhất, nông dân Bến Tre là lực lợng vật chất có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc biến những chủ trơng, Nghị quyết của Đảng về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn thành hiện thực đi vào cuộc sống.
251

×