Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.5 KB, 104 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của luận văn
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nớc ta, trớc hết và trọng tâm là đổi
mới kinh tế đồng thời từng bớc đổi mới chính trị, đợc thực hiện từ quyết
định quan trọng - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986).
Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền KTTT định hớng
XHCN là một nhiệm vụ chiến lợc quan trọng trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nớc ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế - xã
hội của đất nớc và xu thế phát triển của thời đại.
Trong đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã bớc đầu đề ra nội dung,
hình thức và bớc đi cụ thể, thích hợp. Từng bớc chuyển nền kinh tế từ tập
trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng XHCN.
Thực hiện đờng lối đó, Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đóng
vai trò hết sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền KTTT, bảo đảm quá
trình phát triển theo đúng định hớng XHCN.
Thực tiễn từ 1986 đến nay, dới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý
của Nhà nớc, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta đã và đang đạt đợc nhiều
thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp -
những thách thức, trở ngại lớn nh nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ - khóa
VII đã chỉ rõ, đặc biệt là nguy cơ chệch hớng XHCN.
Cùng với nguy cơ, thách thức trong nớc, những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới - xu hớng khu vực hóa, quốc tế hóa và toàn cầu hóa
đời sống kinh tế thế giới đem đến thời cơ, vận hội mới và những thách
thức lớn cho nớc đang ta.
Những năm qua, Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tích cực
đổi mới theo hớng xây dựng Nhà nớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
1
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc đã phát huy vai trò, hiệu lực
quản lý, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt đợc một số hiệu quả rất quan
trọng. Song trong quá trình thực thi quyền lực còn tồn tại nhiều thiếu sót,


khuyết điểm cần đợc khắc phục.
Trớc thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là Nhà nớc phải tự đổi
mới và hoàn thiện mình nh thế nào? Điều tiết, quản lý và can thiệp vào kinh
tế bằng những nội dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu lực quản lý
của Nhà nớc, bảo đảm quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và phát triển nền KTTT đúng định hớng XHCN
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề "Tăng cờng vai trò
nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở n-
ớc ta hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề nhà nớc và thị trờng,
vai trò của nhà nớc trong nền KTTT đã đợc nhiều nhà khoa học trên thế giới
nghiên cứu dới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng
năng lợng (những năm 70) và khủng hoảng ở các nớc XHCN (Liên Xô và
Đông Âu tan rã) đã đặt lại vấn đề phải nghiên cứu về vai trò nhà nớc trong
đời sống kinh tế nh thế nào để đạt đợc hiệu quả. Theo hớng trên, đã có
nhiều công trình nghiên cứu nhng nhìn chung những kết quả đợc rút ra đều
tập trung vào một số quan điểm:
Thứ nhất: Nhà nớc không thể can thiệp vào thị trờng (nhà nớc tối
thiểu, thị trờng tối đa), thị trờng có quy luật riêng, "Bàn tay vô hình" của thị
trờng sẽ tự nó giải quyết tất cả. ở nơi nào có sự can thiệp của nhà nớc thì ở
đó thị trờng thất bại, kinh tế không phát triển đợc.
Thứ hai: Nhà nớc hoàn toàn lãnh đạo, quản lý kinh tế bằng các kế
hoạch trong mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế. Đại diện cho những quan
2
điểm này là những nhà tân mác xít, họ cổ vũ và khẳng định mô hình kinh tế
kế hoạch hóa tập trung cao độ (kiểu Xô viết) coi đó là mô hình tối u cho sự
phát triển.
Thứ ba: Thừa nhận KTTT, đồng thời nhà nớc phải can thiệp tối đa
bằng các công cụ điều tiết vĩ mô (nhà nớc tối đa). Theo quan điểm này chỉ

có nhà nớc (bàn tay hữu hình) mới có khả năng hạn chế và khắc phục
những khuyết tật của KTTT, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội.
Thứ t: Một quan điểm khác, không nói đến nhà nớc tối đa hay tối
thiểu, họ thừa nhận sự tham gia và can thiệp cần thiết theo chức năng của
nhà nớc trong KTTT.
ở nớc ta, nhận thức về vai trò nhà nớc trong nền KTTT cũng có
nhiều thay đổi. Từ tuyệt đối hóa vai trò nhà nớc đến nhận thức ngày càng
đúng đắn hơn về vai trò của nó trong nền KTTT. Mặc dù vậy, những kết
quả nghiên cứu về quan hệ giữa nhà nớc và thị trờng còn cha thỏa đáng, cần
phải quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Đảng ta chủ trơng xây dựng một nền KTTT định hớng XHCN là
hoàn toàn đúng đắn. Song vấn đề đặt ra là: Vai trò Nhà nớc Cộng hòa
XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hớng XHCN nh thế nào? Đây là
vấn đề rất lớn cả về lý luận cũng nh thực tiễn và mới chỉ có những định h-
ớng nhng cha đợc làm sáng tỏ về mặt khoa học.
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến vai trò nhà nớc
trong KTTT thờng vấp phải cách tiếp cận cơ giới, nghĩa là phân định nhà n-
ớc "tối thiểu", "tối đa", "điều tiết vĩ mô" Căn cứ vào kinh nghiệm nào đó,
các nhà nghiên cứu dờng nh muốn quy định một sân chơi riêng biệt cho nhà
nớc trong KTTT.
Theo ý kiến chúng tôi, cần khắc phục cách tiếp cận nh vậy. Nên
chăng, cần nhìn nhận vai trò của nhà nớc trong nền KTTT là giải quyết mối
3
quan hệ giữa quyền lực chính trị và kinh tế trong việc tìm con đờng phát
triển tối u cho một quốc gia. Nhà nớc không chỉ là "tham gia", "can thiệp"
mà là "chủ thể" kinh tế có quyền lực chính trị trong nền KTTT. Vì vậy luận
văn này bớc đầu thử đặt ra và lý giải một hớng tiếp cận nh vậy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở lý luận khoa học chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin,

đờng lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, kinh nghiệm tổ chức và
hoạt động của Nhà nớc ta, và nhà nớc của một số quốc gia, bớc đầu xác
định một cách tổng quát vấn đề vai trò quyền lực nhà nớc trong KTTT định
hớng XHCN.
- Nêu lên một số thực trạng và giải pháp về vai trò nhà nớc trong
KTTT định hớng XHCN ở nớc ta, dới góc độ Chính trị học.
Nhiệm vụ của luận văn:
Một là: Hệ thống hóa một cách khái quát các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hiện đại về vai trò, chức năng của nhà n-
ớc trong quản lý kinh tế và KTTT, từ đó làm rõ và phân tích vấn đề đó ở n-
ớc ta.
Hai là: Phân tích thực trạng thực thi quyền lực của Nhà nớc Cộng
hòa XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hớng XHCN ở nớc ta.
Ba là: Đề xuất một số định hớng, giải pháp nhằm xác định vai trò
Nhà nớc trong nền KTTT ở nớc ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Vận dụng lý luận và phơng pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm đờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan hệ
4
chính trị và kinh tế, vai trò nhà nớc trong quản lý kinh tế và kinh tế XHCN;
một số lý thuyết của khoa học kinh tế và khoa học chính trị hiện đại cũng
nh một số kinh nghiệm nớc ngoài để lý giải những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Phơng pháp nghiên cứu:
Chủ yếu vận dụng phơng pháp lôgíc - lịch sử và các phơng pháp
khác: Chính trị học so sánh; xã hội học chính trị, so sánh, thống kê, định lợng
5. Giới hạn nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu vai trò Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam
trong phát triển nền KTTT định hớng XHCN ở nớc ta từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay.

6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về quyền lực
nhà nớc trong các nền kinh tế, luận văn góp phần làm rõ vai trò quyền lực
Nhà nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hớng XHCN ở
nớc ta.
Đề xuất một số định hớng và giải pháp cho việc tăng cờng vai trò
Nhà nớc trong nền KTTT theo định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đợc kết cấu thành 3 chơng, 8
tiết và danh mục tài liệu tham khảo.
5
Chơng 1
Lý luận chung về vai trò nhà nớc
trong kinh tế và kinh tế thị trờng
1.1. Quyền lực nhà nớc trong phát triển kinh tế
1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nớc trong phát
triển kinh tế và kinh tế thị trờng
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, nhà nớc luôn có chức năng
kinh tế. Nghĩa là, nhà nớc ra đời và tồn tại không phải chỉ thuần túy để làm
chính trị, không chỉ quản lý xã hội mà còn quản lý và phát triển kinh tế.
Nhà nớc chính là đại diện cho giai cấp thống trị về kinh tế và chức năng
kinh tế của nhà nớc cũng chính là nhằm củng cố địa vị của giai cấp cầm
quyền. Khẳng định chức năng kinh tế của nhà nớc, phân tích mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị, Lênin cho rằng: không có chính trị đơn thuần và
kinh tế đơn thuần mà chính trị và kinh tế luôn gắn bó với nhau, tác động,
ảnh hởng lẫn nhau.
"Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, lập luận một cách khác
đi là quên mất điều thờng thức của chủ nghĩa Mác" [20, tr. 349], "Chính trị
tức là kinh tế đợc cô đọng lại" [23, tr. 147].
Chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội,

các quốc gia dân tộc. Trong đó trớc hết và cơ bản là quan hệ về kinh tế.
Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực
nhà nớc) là mục tiêu và trực tiếp mà bất cứ giai cấp, nhóm xã hội nào cũng
muốn nắm và chi phối. Vì nắm đợc quyền lực nhà nớc là nắm đợc công cụ
cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác theo h-
ớng có lợi cho giai cấp mình.
6
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp
từ trớc tới nay, xét đến cùng đều vì mục đích kinh tế - giải phóng kinh tế và
đợc tiến hành trớc hết vì lợi ích kinh tế. Và do đó một khi xã hội còn tồn tại
giai cấp, còn tồn tại nhà nớc thì tất cả những vấn đề chính trị và bất kỳ một
thái độ nào cũng đều ảnh hởng từ vấn đề kinh tế.
Vì vậy Lênin khẳng định: Trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế
quyết định chính trị còn khi hoạch định chính sách thì chính trị phải chiếm
hàng đầu, chiếm vị trí u tiên, phải đa vào các chính sách, các quan hệ giai
cấp các lực lợng kinh tế xã hội. "Không có một lập trờng chính trị đúng thì
một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ đợc sự thống trị của mình
và do đó cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sản xuất"
[21, tr. 350].
Sự tác động của chính trị vào kinh tế thể hiện thông qua vai trò hoạt
động của nhà nớc - các thể chế và các chính sách của nhà nớc. Sự tác động
đó luôn diễn ra theo hai hớng:
- Nếu sự tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là, nhà nớc trớc hết bằng các thể chế chính trị tạo ra các quan
hệ kinh tế phù hợp với sự phát triển của LLSX. Nhà nớc nắm bắt các quy
luật phát triển của nền kinh tế, tạo môi trờng pháp lý và hoạch định các
chính sách để phát huy các mặt tích cực của các xu hớng tích cực, đồng thời
loại bỏ những mặt, những nhân tố tiêu cực cản trở sự tác động của các quy
luật kinh tế.
- Sự tác động của nhà nớc theo hớng ngợc chiều sẽ dẫn tới kìm hãm

sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nghĩa là, nhà nớc duy trì các quan hệ kinh tế lỗi thời, không còn
phù hợp với sự phát triển của LLSX hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp phản
động chống lại lợi ích của giai cấp đang lên, lợi ích của nhân dân lao động.
Hoạt động bất chấp quy luật khách quan của kinh tế - xã hội.
7
Nhà nớc với chức năng kinh tế, có vai trò hết sức to lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trò đó đợc phát huy và thực hiện
có hiệu quả hay không là phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ chính trị
và bản chất giai cấp của từng nhà nớc.
Các nhà nớc (chủ nô, phong kiến, t sản) đều bằng cách này hay cách
khác kiểm soát các hoạt động kinh tế của xã hội, đặt ra những chính sách,
luật lệ nhằm giữ vững vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền. Ngay dới
CNTB, mặc dù các thể chế thị trờng phát triển cao, nhà nớc TBCN tham gia
vào các quá trình kinh tế với rất nhiều hình thức (mà đỉnh cao là CNTB độc
quyền nhà nớc - sự liên minh giữa nhà nớc và các tập đoàn t bản) cũng đều
nhằm củng cố vị trí thống trị của giai cấp t sản - giai cấp cầm quyền.
Khác với nhà nớc của các giai cấp bóc lột, nhà nớc XHCN là nhà n-
ớc kiểu mới - nhà nớc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà n-
ớc thực hiện trấn áp giai cấp bóc lột - giai cấp t sản và bọn phản động, nhà
nớc dân chủ với quảng đại quần chúng. Nhà nớc có nhiệm vụ kinh tế và vì
lợi ích kinh tế của nhân dân lao động. Trong hai chức năng trấn áp và xây
dựng của nhà nớc XHCN, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng chức
năng xây dựng là chủ yếu.
Để làm đợc việc đó, giai cấp vô sản phải bằng quyền lực nhà nớc
của mình, tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trớc hết, trọng tâm là phát triển kinh tế, cải tạo những
cơ sở kinh tế cũ, xây dựng nền tảng kinh tế mới với các quan hệ kinh tế
lành mạnh vì mục đích con ngời. Với t cách là chủ thể kinh tế, nhà nớc
XHCN sử dụng những yếu tố vật chất (đất đai, tiền vốn, lao động, tài

nguyên) và tạo ra những quan hệ cần thiết để trực tiếp quản lý, sản xuất
hoặc lu thông, dịch vụ trên những ngành, vùng chủ chốt. Đồng thời, nhà n-
ớc là ngời đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, nắm trong tay các
công cụ, phơng tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, luật pháp, tài chính,
8
ngân hàng ) và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia, tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế theo quan điểm mục tiêu đờng lối
phát triển kinh tế của giai cấp lãnh đạo - giai cấp công nhân mà đại biểu là
Đảng cộng sản. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ của nhà nớc XHCN là phải
làm gì, làm nh thế nào để tạo ra năng suất lao động ngày càng cao để chiến
thắng hoàn toàn CNTB.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bớc chuyển từ CNTB
lên CNXH không phải một sớm một chiều mà là một thời kỳ quá độ lâu dài
- thời kỳ quá độ lên CNXH (Mác gọi là những "cơn đau đẻ" kéo dài). Đặc
trng cơ bản của thời kỳ này là kết cấu kinh tế - xã hội mới còn tồn tại đan
xen với kết cấu kinh tế - xã hội cũ. Nền kinh tế có nhiều thành phần tồn tại,
tác động đan xen với nhau, trong đó thành phần kinh tế XHCN thậm chí ch-
a thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy việc nhà nớc XHCN quản lý nền kinh tế nhiều
thành phần là một tất yếu của thời kỳ quá độ. Chính Mác đã chỉ rõ: Không
một hình thức kinh tế nào, biến đi trớc khi nó còn phục vụ đợc cho các lực
lợng sản xuất mà nó đã dọn khoảng đất trống cần thiết cho sự phát triển của
các lực lợng sản xuất ấy; Ngợc lại, không một hình thức kinh tế nào có thể
ra đời trớc khi xuất hiện đầy đủ các tiền đề vật chất cần thiết cho nó. Vì kết
cấu nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế nên hệ thống các quy luật kinh tế hoạt động trong thời kỳ này rất đa
dạng. Bên cạnh những quy luật kinh tế XHCN mới hình thành nhng cha phát
huy đầy đủ tác dụng của nó, vẫn còn những quy luật tơng ứng với các thành
phần kinh tế không XHCN còn hoạt động và phát huy tác dụng, tác động đến
nền kinh tế quốc dân với mức độ khác nhau.
Vì vậy trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nớc XHCN phải tính

đến việc vận dụng toàn bộ hệ thống các quy luật đó sao cho phù hợp, có lợi
cho CNXH. Một mặt tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội để các quy
luật kinh tế XHCN phát huy ngày càng đầy đủ tác dụng của mình - là nhân
tố chủ đạo; mặt khác, chủ động vận dụng các quy luật kinh tế khác, hớng
9
theo quỹ đạo của CNXH. Đây là việc khó khăn, phức tạp, dễ phạm sai lầm
"tả" hoặc "hữu khuynh". Do đó đòi hỏi nhà nớc XHCN phải có bản lĩnh, có
khả năng tổ chức quản lý giỏi, biết tìm ra những hình thức, phơng pháp mới
phong phú, đa dạng để hớng các thành phần kinh tế đi theo quỹ đạo của
CNXH.
Từ thực tiễn nớc Nga, khi chấm dứt nội chiến và chuyển sang thời
bình, Lênin đã nghiêm khắc rút ra những bài học của chính sách "cộng sản
thời chiến", phê phán những khuynh hớng t tởng chủ quan, nóng vội (muốn
lập tức quốc hữu hóa, quốc doanh hóa, hạn chế không sử dụng các hình
thức kinh tế quá độ đang còn tồn tại và còn tác dụng đối với việc phát triển
LLSX), dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: Kinh tế không phát triển và gây sự
bất bình của nhân dân đối với chính quyền Xô viết Theo Lênin - quá trình
chuyển từ thời chiến sang thời bình "không những chỉ liên quan đến những
cơ sở của công cuộc kiến thiết kinh tế mà còn liên quan đến các cơ sở của
những mối quan hệ giữa các giai cấp còn tồn tại trong xã hội chúng ta".
"Vấn đề này là vấn đề cần giải quyết". Không thực hiện đợc bớc chuyển ấy
sẽ là thất bại của Đảng của giai cấp công nhân.
Lênin cho rằng, điều kiện thời bình phải xem xét lại tất cả các quan
điểm lý luận và thực tiễn sự phát triển kinh tế - xã hội nớc Nga, thậm chí
thay đổi căn bản cách tiếp cận với CNXH. Chính từ thực tiễn nớc Nga,
Lênin đã đa ra NEP, trong đó Ngời nêu rõ những nhiệm vụ và chính sách
kinh tế mà nhà nớc chuyên chính vô sản phải thay đổi là:
- Nhà nớc vô sản phải thực hiện xây dựng một nền kinh tế nhiều
thành phần, phát triển các quan hệ thị trờng dới sự điều tiết của nhà nớc
XHCN. Các thành phần kinh tế đó bao gồm: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia

trởng; (2) kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ (chủ yếu là nông dân); (3) kinh tế
CNTB t nhân; (4) kinh tế CNTB nhà nớc; (5) kinh tế của CNXH [21, tr. 248].
10
Các thành phần kinh tế trên đây đan xen với nhau, trong đó thành
phần tiểu t sản (nông dân) chiếm u thế. Các thành phần này đấu tranh với
nhau mà chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa thành phần tiểu t sản và t bản t
nhân với CNXH và CNTB nhà nớc. Nghĩa là đấu tranh giữa khuynh hớng
sản xuất nhỏ và sản xuất lớn. Thắng lợi của CNXH phụ thuộc vào thắng lợi
của khuynh hớng sản xuất lớn.
Trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đặc biệt chú
ý và luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của thành phần kinh tế CNTB
nhà nớc, đặt hầu hết sự chú ý của nhà nớc Xô viết vào việc phát triển thành
phần kinh tế này. Thậm chí bớc sang giai đoạn thực hiện NEP, Lênin coi đó
là bắt đầu một thời kỳ quá độ, là một bớc tiến từ "một nớc Cộng hòa Xô viết
XHCN chuyển sang CNTB nhà nớc" [21, tr. 247] và ở Nga từ kinh tế tiểu t
sản đến CNXH và CNTB nhà nớc đều trải qua một con đờng [21, tr. 254]
CNTB nhà nớc theo Lênin là "sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH,
là phòng chờ đi vào CNXH, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó)
với nấc thang đợc gọi là CNXH thì không có một nấc thang nào ở giữa cả"
[21, tr. 250]. CNTB nhà nớc (trong đó có cả chính sách tô nhợng) mà mục
đích của nó dới CNXH theo Lênin là kiểu quan hệ kinh tế mà bên trên có vẻ
một sự liên minh với CNTB nớc ngoài, cái kiểu quan hệ kinh tế ấy sẽ tạo
cho chính quyền của giai cấp vô sản có khả năng tiến hành ở bên dới việc
trao đổi tự do với nông dân, Lênin còn cho rằng "hoặc là những quan hệ kiểu
ấy hoặc là không có gì hết" [21, tr. 82].
Vấn đề CNTB nhà nớc, vấn đề mà "ngay cả Mác cũng không viết
một lời nào" là một đóng góp quan trọng của Lênin trong quá trình phát
triển chủ nghĩa Mác về xây dựng CNXH trong điều kiện còn lạc hậu về
kinh tế kỹ thuật. Đây cũng chính là một chỉ dẫn quý báu của Lênin về việc
sử dụng quyền lực nhà nớc của giai cấp vô sản trong phát triển kinh tế.

Trong điều kiện nớc Nga sau Cách mạng tháng Mời, Lênin coi
CNTB nhà nớc là thành phần kinh tế cao hơn, đứng trên thành phần kinh tế
11
XHCN. Vấn đề khác nhau của CNXH và CNTB nhà nớc chính là vấn đề
chính trị, tức là vấn đề giai cấp cầm quyền. Lênin nêu vấn đề, mà theo Ngời
là "chân lý": "tốt hơn là nên trớc hết hãy thực hiện CNTB nhà nớc để rồi sau
đó, đi đến CNXH" [23, tr. 326]. Đó là một trong những nhiệm vụ mấu chốt
của nhà nớc vô sản. Để đánh tan những hoài nghi, phê phán cách hiểu kinh
viện về CNTB nhà nớc, Lênin giải thích rằng "CNTB nhà nớc mà chúng ta
nói đó là một thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới
hạn, CNTB nhà nớc đó gắn liền với nhà nớc, mà nhà nớc chính là công
nhân, chính là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiền phong, là chúng
ta" [23, tr. 102]. Khi thực hiện CNTB nhà nớc Lênin coi trọng "sự lãnh đạo
chính trị của giai cấp vô sản". Sự lãnh đạo này phải hớng vào giải quyết
những nhiệm vụ mấu chốt, cấp thiết nhất. Mà trong một nớc tiểu nông thì
đó là "phục hồi ngay những LLSX của kinh tế nông dân" [21, tr. 263].
Trong lĩnh vực này những ý kiến của Lênin đặc biệt có giá trị phơng pháp
luận cho các Đảng cộng sản ở các nóc nông nghiệp. Trong các nớc ấy, cũng
nh ở nớc Nga "tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của
sự trao đổi t nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thơng mại, tức là của
CNTB, một sự phát triển không thể tránh đợc khi có hàng triệu ngời sản
xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn
áp dụng nó. Dại dột, vì về phơng diện kinh tế, chính sách ấy là không thể
nào thực hiện đợc; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách
nh thế, nhất định sẽ bị phá sản" [21, tr. 267].
Để thực hiện đợc các nhiệm vụ "quy định", "giới hạn" CNTB nhà n-
ớc, Lênin nhấn mạnh nhà nớc chuyên chính vô sản phải cải tiến phơng pháp
làm việc của bộ máy Xô viết theo hớng tăng cờng quyền lực trong điều kiện
nền KTTT.
Bộ máy nhà nớc Xô viết là chuyên chính vô sản, nhà nớc của giai

cấp công nhân và nông dân, nhng bộ máy ấy không phải sau khi giành đợc
chính quyền đã hoạt động tốt. Vì theo Lênin, bộ máy đó cha thực sự là công
12
nông, còn nhiều tàn d phong kiến và t sản nên phải xây dựng lâu dài. Những
đảng viên cộng sản làm việc trong bộ máy còn cha có kinh nghiệm quản lý,
làm việc kém hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh và thiếu sự kiểm tra giám sát
từ phía nhân dân. Vì vậy, việc xây dựng nhà nớc Xô viết là một nhiệm vụ
nối tiếp quan trọng sau khi hoàn thành cuộc cách mạng giành chính quyền
vĩ đại.
"Tôi biết rõ ràng chúng ta có những khuyết điểm trong bộ máy tổ
chức quần chúng", nhng "vấn đề không phải là ở chỗ lấy việc cải tổ nhanh
chóng để cải tiến bộ máy đó, mà vấn đề là ở chỗ phải quán triệt cuộc cải tạo
chính trị đó để đạt tới một trình độ kinh tế - văn hóa khác" [22, tr. 401].
Lênin đa ra ví dụ về ủy ban đặc biệt toàn Nga - tổ chức an ninh đặc
biệt chống lật đổ. Nhng chuyển sang giai đoạn mới cần phải xác định rõ
chức năng và quyền hạn của nó và giới hạn công tác của nó vào những
nhiệm vụ chính trị, mà chủ yếu là thực hiện các chính sách kinh tế mới -
KTTT. "Phải thu hẹp phạm vi hoạt động của các cơ quan chuyên giáng trả
lại" [22, tr. 403-404]. "Sắc lệnh thì chúng ta có quá nhiều và chúng ta làm
sắc lệnh đó một cách quá vội vàng nhng việc chấp hành thực tiễn đó thì
không đợc kiểm tra lại" [23, tr. 17]. Vấn đề không chỉ ở chỗ ra sắc lệnh mà
là ở chỗ làm thế nào để thực hiện đợc các sắc lệnh đó.
Lênin đã từng chỉ rõ vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng. Nhng giai cấp công nhân sau khi đã giành đợc chính
quyền thì "cái mấu chốt không phải là chính quyền mà cái mấu chốt chính
là biết lãnh đạo" [23, tr. 128].
Thực chất những quan điểm về xây dựng bộ máy chính quyền Xô
viết mà Lênin nêu ra là khắc phục những sai lầm khuyết điểm trong quản lý
nền kinh tế của nhà nớc trong nền kinh tế nhiều thành phần với những quan
hệ thị trờng. Nghĩa là trong điều kiện mới, nhà nớc phải tăng cờng quyền

lực của mình không phải bằng các mệnh lệnh hành chính quan liêu mà phải
bằng các thể chế kinh tế - chính trị, công cụ để quản lý kinh tế. Phải có kế
13
hoạch, chiến lợc, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế hợp lý, đúng
đắn để quản lý chứ không phải can thiệp vào các quá trình hoạt động kinh
tế nh trong thời chiến
Tóm lại, Lịch sử phong trào XHCN thế giới đã chứng minh tính
đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nớc XHCN trong
phát triển kinh tế. Mặc dù ngày nay hệ thống XHCN đã tan rã do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà ở đây chúng ta không đề cập đến, nhng mô
hình phát triển kinh tế thống nhất và có kế hoạch của Liên Xô và của các n-
ớc XHCN trớc những năm tám mơi của thế kỷ XX đã đa lại những kinh
nghiệm thành công mẫu mực về nhà nớc XHCN quản lý nền kinh tế.
Những luận điểm này đã mang lại nhiều thành công trong thực tiễn
của nhà nớc XHCN lãnh đạo, quản lý nền KTTT nh: Thời kỳ NEP của Liên
Xô, giai đoạn đầu của mô hình kinh tế tự quản ở Nam T; những thành quả
to lớn trong chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc; và đổi mới ở Việt
Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của các nớc xây dựng CNXH
chỉ ra rằng, nhà nớc XHCN có thể sử dụng các hình thức quản lý quá độ,
hỗn hợp, trong đó có thể sử dụng các quan hệ thị trờng để quản lý và phát
triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, nhà nớc quản lý nền kinh tế XHCN nh thế nào, còn là
vấn đề cha có câu trả lời cuối cùng và vấn đề đó còn tùy thuộc vào điều
kiện từng nớc và bối cảnh chung của thế giới. Nhng không thể phủ nhận vai
trò đặc biệt của nhà nớc XHCN trong phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc
biệt là trong nền KTTT định hớng XHCN hoặc thị trờng XHCN.
1.1.2. Vài nét về một số lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về vai
trò chức năng nhà nớc đối với sự phát triển kinh tế
Các tác giả nổi tiếng là Ađam Smít và Đavit Ricarđô do đánh giá

quá cao vai trò của lao động, đất đai và mậu dịch tự do, nên chủ trơng nền
14
kinh tế phải đợc điều khiển bởi "bàn tay vô hình". Các ông cha đánh giá
đúng vị trí của nhà nớc trong đời sống kinh tế. Lý thuyết của các ông là
cơ sở cho chủ nghĩa tự do cũ và mới. Chủ nghĩa tự do mới cổ vũ cho sự
tham gia tối thiểu của nhà nớc vào KTTT. Điển hình cho mô hình KTTT
theo chủ nghĩa tự do là Mỹ. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, CNTB
phát triển chủ yếu theo khuynh hớng này. Đặc điểm hoạt động của giai
đoạn này của CNTB là dựa trên sự bóc lột không thơng xót giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, lấy tự do cạnh tranh làm động lực. Sự phát triển
của CNTB thờng kèm theo khủng hoảng định kỳ, tổng khủng hoảng, chiến
tranh xâm chiếm thuộc địa và thị trờng, cao hơn là chiến tranh thế giới để
phân chia thị trờng. Nhà nớc trong sự phát triển này thực sự là công cụ
đắc lực của giới chủ t bản. Nhân dân thế giới phải trả giá đắt về xã hội cho
sự phát triển TBCN. Chính vì phải trả giá đắt về xã hội cho KTTT, chính vì
sự bất lực của nhà nớc trớc các thế lực tài phiệt, nửa cuối thế kỷ XIX đã
xuất hiện sự liên minh giữa nhà nớc và t bản hình thành CNTB nhà nớc.
Mặc dầu vậy CNTB nhà nớc cũng không giải quyết đợc những căn bệnh
của CNTB đó là khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo,
phá hủy môi trờng, chạy đua mù quáng vì lợi nhuận
Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX những cuộc khủng
hoảng kinh tế nổ ra thờng xuyên cho thấy "bàn tay vô hình" không thể bảo
đảm những điều kiện cho phát triển kinh tế. Trình độ xã hội hóa càng cao
đặt ra vấn đề cần phải có lực lợng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình
kinh tế, điều tiết kinh tế. Nhà kinh tế học ngời Anh - J.M. Keynes đã đa ra
lý thuyết điều tiết KTTT. Ông cho rằng để khắc phục tình trạng khủng
hoảng kinh tế, nhà nớc phải can thiệp vào quá trình kinh tế, phải huy động
vốn để mở mang sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho dân c, làm cho cầu tiêu dùng tăng lên, khuyến khích mở rộng sản
xuất kinh doanh. Để làm đợc việc đó nhà nớc phải can thiệp vào quá trình

kinh tế cả ở vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên với quan điểm này, ông gần nh phủ
nhận những quan hệ khách quan của KTTT.
15
Cuối giai đoạn này đã xuất hiện sự hoài nghi đối với KTTT. Hơn thế
nữa phong trào cộng sản và công nhân thế giới đấu tranh chống lại sự phát
triển thị trờng TBCN, đề xuất một mô hình phát triển mới cho nhân loại, mô
hình XHCN dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa thống nhất.
Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 80 của
thế kỷ XX, KTTT mất uy thế trớc kinh tế kế hoạch hóa (đặc biệt theo mô
hình Xô viết). Cuộc tổng khủng hoảng đầu những năm 70 đã làm tăng mối
hoài nghi về KTTT. Nhiều nớc, đặc biệt là các nớc mới giành đợc độc lập
dân tộc, các nớc đang phát triển lựa chọn con đờng phát triển phi thị trờng,
hớng theo con đờng kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết. Một số nớc kết
hợp mô hình KTTT với mô hình Xô viết tạo ra mô hình hỗn hợp.
Giai đoạn từ những năm 80 đến nay, sau khi khắc phục đợc khủng
hoảng, các nền KTTT có bớc phát triển mới trên cơ sở thay đổi cơ cấu, đầu
t công nghệ cao, có sự tham gia điều tiết của nhà nớc. Lúc này các nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ những nhợc điểm cơ bản, lâm vào
khủng hoảng, thậm chí phải chấp nhận sụp đổ để cải tạo lại. Đó là thất bại
của việc tuyệt đối hóa vai trò nhà nớc trong phát triển kinh tế. KTTT đã
chứng minh đợc u thế và sức sống của mình. Ngày nay, hầu hết các nớc trên
thế giới hoặc là đang tồn tại và phát triển KTTT hoặc là chuyển đổi nền
kinh tế của mình sang KTTT.
Hiện nay vấn đề tham gia của nhà nớc vào đời sống KTTT đã trở
thành vấn đề không tranh cãi. Vấn đề là nhà nớc tham gia nh thế nào, ở lĩnh
vực gì mà thôi ở đây chúng ta thấy câu trả lời là không đơn nghĩa.
Nhìn chung, các nhà khoa học và quản lý đều nhất trí cho rằng,
trong nền KTTT, nhà nớc đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nớc nh là
ngời điều tiết thị trờng bằng cách tạo những khuôn khổ pháp lý cho các
hoạt động kinh tế; xây dựng những điều kiện cho cạnh tranh hợp pháp;

chống độc quyền; xây dựng chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội trong tổng
thể; tham gia khắc phục những thất bại của thị trờng.
16
Nghiên cứu một số lý thuyết, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề:
Nhìn chung các lý thuyết cổ điển đều cho rằng thị trờng là nhân tố chính
của sự phát triển, trong đó nhấn mạnh những yếu tố sản xuất trực tiếp nh
vốn, đất đai và tích lũy có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên các lý thuyết này
chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển thấp, chủ yếu dựa vào lao động cơ bắp,
vốn, tài nguyên.
Một số lý thuyết hiện đại đã thấy đợc tầm quan trọng của khoa học
kỹ thuật, thị trờng và nhà nớc. Nhng còn tuyệt đối hóa KTTT, hoặc khoa
học kỹ thuật, hay vai trò nhà nớc mà cha thấy đợc tiềm năng con ngời. Một
số lý thuyết đã nhấn mạnh vai trò quyết định của các thể chế trong quá trình
phát triển.
Kinh nghiệm thế giới hiện đại cho thấy, việc phát triển kinh tế
không thể áp dụng tuyệt đối một lý thuyết nào. Hầu hết các nớc thành công
trong phát triển kinh tế đều áp dụng một cách tổng hợp linh hoạt mềm dẻo
các lý thuyết và kinh nghiệm khác nhau vào thực tiễn phát triển kinh tế
trong từng giai đoạn cụ thể của đất nớc. Các nớc HPAEs đã cung cấp những
kinh nghiệm quý báu.
Từ 1960 đến nay, HPAEs đã lựa chọn cho mình một khuynh hớng
phát triển đúng đắn là: Kinh tế thị trờng với "sự can thiệp có lựa chọn" của
nhà nớc; cách mạng công nghệ, đặc biệt là tin học; thực hiện công bằng
xã hội.
Từ năm 1960, HPAEs tăng trởng nhanh gấp đôi các nền kinh tế
Đông á, gấp 3 lần so với Mỹ La tinh và Nam á, gấp 5 lần so với châu Phi,
cận xa mạc Xahara. Tuổi thọ trung bình tăng từ 65 tuổi năm 1960 lên 71 tuổi
năm 1990. Tỷ lệ ngời đói giảm năm 1960: 58% xuống 17% năm 1990.
Tăng trởng GDP theo đầu ngời từ 1965 đến 1990: HPAEs từ 5 - 6% năm
trong khi các nớc Đông á (trừ HPAEs) chỉ tăng từ 2 - 3% năm, châu Phi

cận xa mạc Xahara 0,5% năm [16, tr. 21].
17
HPAEs đã tập trung xây dựng một nhà nớc đủ mạnh để "can thiệp
có lựa chọn", nhà nớc đó đợc xây dựng dựa trên ba điều kiện: (1) Giải quyết
các vấn đề hoạt động chức năng của các thị trờng; (2) thực hiện diễn ra
trong môi trờng nền tảng đúng đắn; (3) nhà nớc đa ra và quản lý các chuẩn
mực hoạt động kinh tế thích hợp. Nh vậy các HPAEs đã tập trung vào xây
dựng môi trờng thể chế cho các hoạt động kinh tế mà trong đó hoạch định
các chính sách đóng vai trò quan trọng. Nhà nớc bằng các thể chế kinh tế -
chính trị, đã can thiệp một cách có hệ thống thông qua nhiều kênh, với
nhiều hình thức: Hỗ trợ tín dụng tới các ngành đợc lựa chọn, kìm giữ tỷ suất
tiền gửi ở mức thấp; duy trì mức trần đối với tỷ suất cho vay để tăng lợi
nhuận; bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu ở trong nớc, tài trợ các ngành
suy giảm; hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng nhà nớc; đầu t công cộng;
phát triển các thị trờng xuất khẩu; thông tin kịp thời
ở các nớc Đông Bắc á, chính phủ không những đặt ra chuẩn mực rõ
ràng cho những can thiệp có lựa chọn mà còn giám sát đợc các hoạt động
của thị trờng trong khi chi phí cho những can thiệp này đều không quá cao.
Trên thực tế, sự can thiệp có lựa chọn buộc các chính phủ dựa vào quản lý
kinh tế vĩ mô một cách thận trọng. Ví dụ các giải pháp chính phủ đa ra và
thực hiện là: Thực hiện đầu t cao luôn đạt 20% GDP và phân bổ nguồn vốn
hợp lý, tập trung vào các ngành có hiệu quả kinh tế cao, đầu t lớn vào con
ngời (nguồn nhân lực), tài chính ổn định và bảo đảm.
Ngoài ra các chính phủ, điển hình nhất là chính phủ Nhật Bản đã tạo
ra những cuộc chạy đua kết hợp với sự cạnh tranh trên cơ sở thị trờng với
những lợi ích hợp tác giữa khu vực nhà nớc với t nhân (các nớc Nhật Bản,
Hàn Quốc đã phát triển các cơ cấu thể chế trong đó các công ty cạnh tranh
với nhau để giành giữ phần thởng có giá trị kinh tế. Nhật thực hiện các cuộc
thi đấu trên cơ sở thị trờng, ngăn cấm độc quyền. Nhà nớc Nhật Bản cho
rằng, thà tạo ra cạnh tranh giữa một số ít công ty cân sức còn hơn để một

công ty lớn cạnh tranh với nhiều đối thủ nhỏ, đây là một nguyên tắc có thể
18
nhận thấy ở thi đấu thể thao theo hạng cân). Thực chất, nhà nớc tổ chức các
cuộc thi đấu và đa ra các luật lệ và trọng tài.
Thực hiện nguyên tắc ổn định kinh tế vĩ mô và chính sách gia tăng
xuất khẩu, Chính phủ các nớc này đã rất tôn trọng các giải pháp chính sách
chính thống - đặc biệt là duy trì mức thâm hụt ngân sách ở mức có thể bù
đắp đợc, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó lạm phát luôn luôn đợc
kiểm soát, quản lý đợc nợ trong nớc và nớc ngoài. Bằng cách lập ra các tổ
chức kiểm soát nh: Ban Tiền tệ ở Singapo, dựa vào luật lệ cân bằng ngân
sách ở Inđônêxia, hệ thống tỷ giá hối đoái ở Thái Lan Các nớc này đã duy
trì mức thâm hụt ngân sách ở mức có thể quản lý đợc, lạm phát ở mức thấp
và ổn định trong suốt thời kỳ tăng trởng đã không gây mất ổn định kinh tế
vĩ mô (tỷ lệ lạm phát trung bình từ 1961 - 1991 ở Hồng Công 8,8%;
Inđônêxia: 12,4%; Hàn Quốc 12,2%; Malaixia 3,4%; Singapo 3,6%, Đài
Loan 6,2%; Thái Lan 5,6%) [16, tr. 184]. Cùng với duy trì lạm phát ở mức
thấp, họ đã kiểm soát tốt nợ nớc ngoài (ví dụ nh ở Hàn Quốc: Năm 1984, là
con nợ đứng thứ 4 thế giới. Từ năm 1986, chính phủ Hàn Quốc đã theo đuổi
một chính sách giảm nợ tích cực dựa vào các khoản dự trữ ngày càng tăng
do xuất khẩu mang lại để thanh toán trớc kế hoạch, do đó: năm 1990, tỷ lệ
nợ so với GDP giảm xuống còn 14%) [16, tr. 188]. Cùng với những hành
động trên, các chính phủ HPAEs đã tập trung đối ứng nhanh khi nền kinh tế
bị sức ép về tài chính và những cú sốc về kinh tế, nhằm ổn định kinh tế vĩ
mô, vợt qua đợc những thách thức về chính trị. Ví dụ: ở Thái Lan với cú sốc
dầu lửa - những năm 1970 nền kinh tế đã bớc vào bùng nổ chi tiêu công
cộng và t nhân. 1980 - 1981 thâm hụt trong khu vực công cộng chiếm 7%
GDP. Chính phủ mới đắc cử 1980 đã nhận thức đợc rằng: Cần phải điều
chỉnh kinh tế vĩ mô; lựa chọn chính sách tiền tệ bị hạn chế bởi tỷ giá hối
đoái cố định và thị trờng vốn tơng đối mở. Do đó họ đã lựa chọn con đờng
khác thu hẹp tài chính, tiến hành từng bớc trong nhiều năm cắt giảm chi

tiêu và tăng thu nhập. Kết quả là thâm hụt của chính phủ giảm từ 8% GDP
19
(năm 1981 - 1982) xuống còn 1,6% GDP (năm 1986 - 1987). Trong khi đó
thu nhập thuế tăng từ 1,3% GDP (năm 1982) lên 16% (năm 1998) [16, tr.
198-199].
Bên cạnh các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô nh nguyên tắc tài
chính ổn định và tiết kiệm công cộng cao, giữ đợc sức cạnh tranh Họ đã
tập trung vào khuyến khích xuất khẩu, thực hiện tín dụng xuất khẩu, nhập
khẩu có lợi cho sản xuất, miễn thuế cho các nhà xuất khẩu lớn, giảm bớt
bảo hộ nhập khẩu đã góp phần làm ổn định kinh tế vĩ mô.
Đặc biệt, để thực hiện đợc tăng trởng, các chính phủ đã tập trung
vào việc tạo dựng nền thể chế mạnh với ý tởng tăng trởng cùng chia sẻ - đây
là giải pháp hữu hiệu trong việc tăng cờng vai trò nhà nớc trong lĩnh vực xã
hội ở các nớc này.
Thực hiện nguyên tắc đầu t lớn vào con ngời trên ý tởng tăng trởng
cùng chia sẻ, các HPAEs đã tập trung vào xây dựng các thể chế cho tăng tr-
ởng mạnh và mở rộng cho các nhóm ngời trong xã hội đều có lợi. Tập trung
vào việc tạo nguồn vốn con ngời (u tiên giáo dục ở các cấp thấp, phổ cập
giáo dục tiểu học, mở rộng giáo dục trung học cơ sở, giảm tỷ lệ phát triển
dân số, đào tạo nghề ), đồng thời tăng tiết kiệm và đầu t; phân bố hiệu quả
và thay đổi năng suất; thị trờng lao động linh hoạt. Bên cạnh đó họ thực
hiện cải cách ruộng đất và tạo ra một chế độ sở hữu công bằng, giải quyết
vấn đề nhà ở cho các đối tợng là các hộ gia đình có thu nhập thấp, Tất cả
những điều đó đã bảo đảm đợc sự tăng trởng gắn kết với công bằng xã hội,
hạn chế những thất bại của thị trờng
Để làm đợc việc đó, các HPAEs đã tập trung xây dựng một nhà nớc
mạnh có đủ năng lực để tạo môi trờng pháp lý cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh. Bớc đầu tiên là tuyển dụng những công chức công minh, tài
giỏi, trung thực, có khả năng vạch ra chiến lợc có tính khả thi. Tạo môi tr-
ờng kinh doanh thuận lợi và hoạch định các chính sách bám sát với quyền

lợi của các khu vực, các lực lợng kinh tế.
20
Xin nêu một ví dụ có tính chất kinh nghiệm về xây dựng một nhà n-
ớc mạnh - hệ thống pháp lý mạnh ở một số nớc ASEAN (Inđônêxia,
Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philippin).
Sau khi thoát khỏi sự thống trị của đế quốc phơng Tây, giành đợc
độc lập dân tộc, các nớc này bớc vào xây dựng đất nớc. Nhng qua nhiều
thập kỷ, kết quả mà họ thu đợc không nh mong muốn. Đến những năm cuối
thập kỷ 70, họ ý thức đợc rằng muốn phát triển KTTT thì trớc hết phải tạo
môi trờng chính trị ổn định. Do đó họ tập trung xây dựng một nhà nớc
mạnh và hệ thống pháp luật kinh tế một cách đồng bộ. Bộ máy nhà nớc đợc
xây dựng trên cơ sở tập trung quyền lực, lấy hiệu quả trong hoạt động làm
tiền đề thúc đẩy sự phát triển. Bằng việc tập trung quyền lực, nhà nớc đồng
thời đa ra những thể chế và hoạch định chính sách phù hợp, đa vào bộ máy
chính quyền những cán bộ am hiểu và thạo nghiệp vụ chuyên môn, tích cực
loại trừ các quan chức tham nhũng. Nhờ đó nhà nớc kiểm soát đợc các quan
hệ kinh tế - xã hội, huy động đợc các nguồn lực trong xã hội hớng vào việc
phát triển đất nớc.
Hệ thống pháp lý của các HPAEs luôn đợc điều chỉnh phù hợp với
thực tiễn của nền kinh tế và những biến chuyển của xã hội. Nhờ hệ thống
các văn bản pháp luật đồng bộ có tính khả thi, nhà nớc đã thu hút đợc các
nguồn đầu t trong và ngoài nớc và cũng qua đó nhà nớc kiểm soát, điều
chỉnh đợc nguồn đầu t sao cho quyền lợi ngời lao động và môi trờng sinh
thái trong nớc đợc bảo vệ.
Để có một nhà nớc mạnh, các HPAEs đã tập trung trí tuệ cao độ cho
các hoạt động của nhà nớc thông qua cơ chế đào tạo sử dụng và nuôi dỡng
nhân tài. Đây là nội dung cốt lõi trong việc xây dựng nhà nớc pháp quyền
trong nền KTTT. Để có đội ngũ đủ phẩm chất năng lực họ đã chú ý tìm
nguồn phục vụ cả trớc mắt và lâu dài. Đồng thời thực hiện chế độ thi tuyển
và trả lơng xứng đáng, xử lý nghiêm theo pháp luật những công chức vi

phạm pháp luật tham nhũng.
21
Chính việc xây dựng một nhà nớc mạnh, không những đủ năng lực
quản lý kinh tế - xã hội đã đem lại khả năng đoàn kết dân tộc và khai thác
đợc mọi nguồn lực trên thực tế phục vụ cho sự nghiệp phát triển. Đồng thời
cũng tạo ra khả năng thực tế để toàn dân tham gia vào đấu tranh bài trừ
tham nhũng một cách hiệu quả.
Việc xây dựng một nhà nớc mạnh, hệ thống pháp lý hoàn thiện và
đồng bộ, làm cơ sở cho mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và giữ đợc độc lập
dân tộc. Đây là lĩnh vực thành công nhất của các nớc HPAEs. Họ đã biết
tận dụng thời cơ trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, biến ngoại
lực thành nội lực để phát triển kinh tế. Có thể nói, từ thập kỷ 70 đến nay,
tuy các nớc này gặp không ít khó khăn trong nền KTTT (nhất là khủng
hoảng tài chính những năm gần đây). Nhng bằng việc tập trung xây dựng
một nhà nớc mạnh có đủ năng lực và đã phát huy vai trò của nó trong nền
KTTT, đã giúp cho các nớc HPAEs có đợc sự thành công. Nền kinh tế tăng
trởng ổn định trong nhiều thập kỷ.
ở Mỹ la tinh các cải cách bắt đầu sau một cuộc khủng hoảng kinh
tế khu vực kéo dài 15 năm. Các đờng lối cải cách đợc bắt đầu bằng việc từ
bỏ "con đờng thứ ba", tức là con đờng phát triển thỏa hiệp giữa mô hình
kinh tế CNXH và CNTB. Trớc cải cách, ở các nớc Mỹ la tinh, nhà nớc quản
lý một tỷ trọng 70 - 80% nền kinh tế, chủ yếu là các ngành công nghiệp, tài
chính, tín dụng và coi đó là một đảm bảo cho phát triển kinh tế và độc lập
về chính trị. Mặc dù vậy nền kinh tế vẫn không thoát khỏi trì trệ và khủng
hoảng.
Khi chuyển sang KTTT mở cửa vào những năm 80, cùng với việc
xây dựng các thể chế thị trờng tự do các nớc này thực hiện quá trình phi nhà
nớc hóa tối đa các hoạt động kinh tế, ủng hộ DNTN, tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu t nớc ngoài, cho phép rộng rãi các công ty nớc ngoài mở các doanh
nghiệp tự đầu t tới 100% vốn.

22
Với việc giảm bớt tỷ trọng thành phần nhà nớc trong nền kinh tế
quốc dân, cùng với việc tự do hóa kinh tế và giảm thiểu sự can thiệp của
nhà nớc trong những năm cải cách, kinh tế Mỹ la tinh khởi sắc, đạt mức
tăng trởng GDP hàng năm từ 3 - 5%.
Mặc dầu vậy những thành công của KTTT ở Mỹ la tinh phải chịu
những trả giá cao về mặt xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo hết sức lớn, Mỹ la
tinh là nơi còn tồn tại nhiều bất công trong quá trình cải cách. ở nhiều nớc,
KTTT đã tạo ra sự bất ổn xã hội, tạo điều kiện cho các chế độ độc tài lên
cầm quyền. Điển hình của nớc trả giá đắt về xã hội cho thị trờng theo chủ
nghĩa tự do là Chi-Lê. ở đất nớc này 6.677 tổ chức công đoàn và 34.000
đoàn viên công đoàn phải chịu đàn áp hoặc cấm hoạt động. Những thành
quả xã hội của nhân dân lao động Chi-Lê hầu nh bị phá vỡ. Cho
đến những năm cuối thế kỷ XX có 40% c dân Chi-Lê sống ở mức nghèo
khổ [27, tr. 20].
ở các nớc Đông Âu và Liên Xô cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
của mô hình CNXH hành chính nhà nớc (nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng
kế hoạch tập trung thống nhất theo phơng pháp hành chính quan liêu) đã
buộc các nớc này phải tiến hành các cuộc cải cách kinh tế. Nội dung những
cuộc cải cách này là chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp sang nền KTTT. ở các nớc này khi hệ thống cung cấp của nhà nớc
không cung cấp đủ hàng hóa và dịch vụ, ngời dân đã bắt đầu tìm đến thị tr-
ờng mà trớc hết là thị trờng chợ đen. Và cũng chính lúc này quyền lực nhà
nớc suy giảm. Cho đến đầu những năm 90, các cuộc cải cách theo hớng
KTTT ở các nớc XHCN Đông Âu đã trở thành xu hớng không đảo ngợc đ-
ợc. Các bớc quá độ sang KTTT ở các nớc này chủ yếu diễn ra theo ba giai
đoạn và gắn liền với các giai đoạn đó là sự chuyển đổi vai trò chức năng của
nhà nớc trong nền kinh tế: (1) Tự do hóa nền kinh tế; (2) t nhân hóa và cổ
phần hóa các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu nhà nớc và tập thể; (3) cấu trúc lại
23

nền kinh tế, trong đó gồm chuyển đổi cơ cấu, hệ thống quản lý và hệ thống
tổ chức nền kinh tế.
Trong quá trình chuyển đổi này, tùy theo điều kiện từng nớc, các
cuộc cải cách đợc tiến hành theo phơng pháp khác nhau: theo "liệu pháp
sốc" và "liệu pháp êm dịu". Mặc dầu vậy sự thành công cũng không nhất
quán. Đa số các nớc tiến hành "liệu pháp sốc" trong điều kiện tơng đối ổn
định về chính trị, tức là nhà nớc có vai trò chủ động, kiểm soát đợc tình
hình, thì thành công về kinh tế sớm hơn. Ví dụ: Ba Lan, Tiệp Khắc và các
nớc Ban Tích. Trong lúc đó Nga và các nớc SNG khác thì ngợc lại. Liên
bang Nga trong bớc đầu cải cách thực hiện chủ trơng "nhà nớc tối thiểu thị
trờng tối đa". Điều này khác hẳn với truyền thống và tập quán của nớc Nga,
đã làm cho cuộc cải cách kinh tế ở đây kém thành công, diễn biến phức tạp,
nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế đã lọt vào tay mafia. Nhà nớc từ chỗ chỉ
huy toàn bộ nền kinh tế đến chỗ buông lỏng dẫn đến suy yếu quyền lực cả
trong kinh tế và trong xã hội.
Sự yếu kém đó buộc Liên bang Nga phải nhận thức lại vấn đề vai trò
của nhà nớc trong KTTT. Hiện nay, nhìn chung d luận ở Liên bang Nga đều
cho rằng, trong nền KTTT ở Nga cần có một nhà nớc mạnh và linh hoạt.
Trong quá trình cải cách ở các nớc này cũng diễn ra cuộc tranh luận
về vai trò của nhà nớc trong KTTT. Việc thay đổi chức năng kinh tế của nhà
nớc liệu có suy giảm quyền lực nhà nớc? Mặc dù mới quá độ sang KTTT, ở
Nga và SNG (tuy có trình độ kinh tế xã hội khoa học kỹ thuật và điều kiện
tự nhiên khác nhau) đều cho rằng nhà nớc trong nền KTTT thực hiện một
số chức năng cơ bản sau đây:
- Điều tiết thị trờng.
- Khắc phục những hạn chế (thất bại) của thị trờng (chủ yếu là các
hàng hóa công cộng và dịch vụ xã hội).
- Bảo đảm xã hội.
24
- An ninh quốc gia, hòa bình và an sinh công dân.

Tóm lại, Qua nghiên cứu một số lý thuyết và thực tiễn một số nớc,
một số khu vực, chúng ta thấy rằng:
(1) Phủ nhận vai trò nhà nớc hoặc tuyệt đối hóa vai trò nhà nớc
trong nền KTTT đều không đúng.
(2) Ngày nay đa số các nớc đều thừa nhận vai trò đặc biệt của nhà
nớc trong nền KTTT. Vai trò đó đợc thể hiện trong bốn chức năng sau:
- Điều tiết vĩ mô nền KTTT.
- Khắc phục những khuyết tật của KTTT.
- Đảm bảo xã hội và điều tiết xã hội cho dân c.
- ổn định chính trị xã hội, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
(3) Thực tiễn KTTT hiện đại cho thấy rằng sự thành công của phát
triển kinh tế không hoàn toàn phản ánh sự gia tăng tơng ứng sự can thiệp
của nhà nớc vào kinh tế. Quyền lực nhà nớc không hoàn toàn tỷ lệ thuận
hay tỷ lệ nghịch với việc tăng cờng kiểm soát các hoạt động kinh tế. Vai trò
nhà nớc trong KTTT ở các nớc khác nhau sẽ khác nhau. Một nền KTTT
thành công đòi hỏi phải có một nhà nớc vững mạnh. Việc tăng cờng quyền
lực nhà nớc trong nền KTTT chính là tìm ra phơng thức thích hợp để quản lý
nhà nớc KTTT, "chung sống" với thị trờng có hiệu quả.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
chức năng nhà nớc trong kinh tế thị trờng
Từ khi ra đời cho đến nay, mặc dù với tên gọi khác nhau trong từng
giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định Nhà nớc ta là nhà nớc của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động - Nhà nớc của dân, do dân và vì
dân. Nhà nớc đó có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nớc và xây dựng CNXH.
25

×