Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.52 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi nước ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã chuyển biến khởi sắc, trong
đó hộ sản xuất được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ và là tế bào của nền kinh tế
nông nghiệp nông thôn. Từ khi xác định vai trò kinh tế của hộ nông dân, phong
trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ bỏ vốn đầu tư tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất, góp phần không nhỏ vào
việc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói
riêng, từng bước nâng cao đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn.
Để có một nền nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nền nông nghiệp nói chung và kinh tế
nông nghiệp nói riêng đang rất cần những nguồn vốn lớn, do đó tác động của
ngân hàng nông nghiệp đối với nông nghiệp nói chung, hộ sản xuất nói riêng
đang là một nhu cầu mang tính cấp bách. Với chức năng của mình, ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam đã xác định
lấy nông nghiệp, nông thôn làm thị trường hoạt động chủ yếu. Hộ sản xuất là
khách hàng cơ bản và chủ yếu của NHNo&PTNT Quảng Nam hiện tại và trong
tương lai, trong đó phần nhiều là nông hộ (hộ sản xuất nông nghiệp).
NHNo&PTNT Quảng Nam xác định rằng được phục vụ hộ sản xuất nông
nghiệp, lực lượng sản xuất kinh doanh đông đảo, tạo ra một lượng sản phẩm hàng
hoá lớn cho xã hội là nhiệm vụ có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội.
Trong cơ chế thị trường, phương châm của ngân hàng là “đi vay để
cho vay”, lấy nhu cầu của nền kinh tế làm cơ sở đặt kế hoạch huy động vốn,
quy mô cấp tín dụng và các dịch vụ khác theo hướng đa dạng hoá hình thức,
cũng như phạm vi áp dụng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền
kinh tế. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng nói chung thường gặp những khó
khăn và những mâu thuẫn: có lúc thiếu vốn không huy động được, ngược lại
có lúc thừa vốn không cho vay được, trong khi hộ sản xuất vẫn có nhu cầu
1


vay vn nht l h sn xut nụng nghip. T ú ũi hi phi nghiờn cu y
v lý lun ngõn hng ng thi ỏnh giỏ ỳng n v thc tin xõy
dng v tỡm ra cỏc gii phỏp nhm m rng cỏc dch v hot ng ngõn hng
cho phự hp vi c ch th trng hin nay
T lý do ú, tụi chn ti: Tớn dng ca Ngõn hng Nụng nghip v
Phỏt trin Nụng thụn i vi nụng h tnh Qung Nam lm lun vn tt
nghip Cao hc chuyờn ngnh Kinh t-Chớnh tr.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu ti
- Lê Đức Thọ (2005), Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng Th-
ơng mại nhà nớc ở Nớc ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- PGS.TS Đỗ Tất Ngọc (2006), Tín dụng Ngân hàng Đối kinh tế hộ ở
Việt Nam, Hà Nội, Nxb Lao động.
- Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông
nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận án thạc sỹ Khoa học kinh
tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
Vn ny, trong mt khớa cnh no ú v h sn xut ó cú mt s
ti nghiờn cu, nhng cha sõu sc v tớn dng ca ngõn hng i vi nụng
h tnh Qung Nam.
Lun vn ny t ra vn tớn dng ca NHNo&PTNT phc v tt
nht cho phỏt trin kinh t h nụng nghip nụng thụn tnh Qung Nam
kinh t nụng h cú iu kin vn lờn tr thnh mt yu t quan trng tham
gia vo nn kinh t hng hoỏ.
3. Mc ớch v nhim v nghiờn cu
- Mc ớch:
ỏnh giỏ li thc trng tớn dng ca NHNo&PTNT n nụng h trờn a
bn Qung Nam thi gian qua. T ú xut cỏc gii phỏp nõng cao vai
trũ hot ng tớn dng ca NHNo&PTNT Qung Nam n nụng h trong thi
gian n.
- Nhim v:

2
Lun vn gúp phn hon thin c s lý lun v tớn dng ngõn hng v vn
dng nú vo hot ng kinh doanh ngõn hng, ng thi gúp phn thỳc y v
hon thin hot ng tớn dng ca NHNo&PTNT Qung Nam i vi nụng h
phỏt trin sn xut kinh doanh ca h sn xut nụng nghip, ỏp ng s nghip
phỏt trin kinh t xó hi theo tinh thn Ngh quyt ca i hi ng cỏc cp.
4. i tng v phm vi nghiờn cu
- i tng nghiờn cu:
Tớn dng ca NHNo&PTNT i vi nụng h tnh Qung Nam.
- Phm vi nghiờn cu:
Nghiờn cu v hot ng tớn dng ca NHNo&PTNT Qung Nam i
vi nụng h t khi tỏi lp tnh Qung Nam n nay.
5. C s lý lun v phng phỏp nghiờn cu
- Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đờng lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nớc ta về hoạt động Ngân hàng trong nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa; đồng thời kế thừa các vấn đề lý
luận chuyên môn chuyên ngành Ngân hàng để trên cơ sở đó xác định quan
điểm và giải pháp mở rộng và nâng cao chất lợng dịch vụ Ngân hàng nông
nghiệp & Phát triển nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam.
- Lun vn c nghiờn cu theo phng phỏp duy vt bin chng v
phng phỏp duy vt lch s; cỏc phng phỏp thng kờ, phõn tớch, tng hp
v phng phỏp toỏn hc.
6. úng gúp ca lun vn
Lun vn lm rừ hot ng tớn dng ca NHNo&PTNT Qung Nam
i vi nụng h.
a ra nhng ỏnh giỏ v thc trng tớn dng ca NHNo&PTNT
Qung Nam i vi nụng h.
Lun vn xut mt s gii phỏp nõng cao vai trũ ca tớn dng
NHNo&PTNT i vi nụng h trờn a bn tnh Qung Nam.
7. Kt cu lun vn

Ngoi phn m u, kt lun v danh mc ti liu tham kho, lun vn
kt cu gm 3 chng, 10 tit.
Chng 1
3
Vai trß cña tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp
vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n trong viÖc ph¸t triÓn n«ng hé
1.1. NÔNG HỘ VÀ NHU CẦU VỐN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1.1.1 Nông hộ và đặc trưng của nó
1.1.1.1. Khái niệm về nông hộ
Ở nước ta, một đất nước từ xa xưa đến nay sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu, kinh tế nông hộ ở nông thôn là bộ phận cấu thành không thể thiếu được
của nền sản xuất nông nghiệp nước ta. Do vậy, trong các công trình nghiên
cứu khoa học, các nhà khoa học đã tốn bao nhiêu công sức và thời gian để
nghiên cứu về kinh tế nông hộ. Thường khi tiếp cận khái niệm kinh tế nông
hộ, các nhà khoa học người ta bắt đầu từ khái niệm hộ, kinh tế hộ, kinh tế hộ
nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân hay kinh tế nông hộ .
Khi nghiên cứu về khái niệm hộ, các tổ chức quốc tế và các nhà khoa
học dưới góc độ khác nhau, đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về hộ. Tại
cuộc hội thảo quốc tế lần thứ IV về quản lý nông trại ở Hà Lan năm 1980, các
đại biểu nhất trí cho rằng: “hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản
xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác” [14, tr.32]. Giáo
sư T.G.MC.GEC, giám đốc viện nghiên cứu châu Á trường Đại học British
Colombia nhận xét rằng: “Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ
là một nhóm người cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở
chung trong một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân
quỹ”. Một ý kiến khác, ông Harice trường đại học tổng hợp Susex Luân Đôn
cho rằng: “Hộ là đơn vị tự nhiên tự tạo nguồn lao động” [14, tr.32].
Qua những định nghĩa trên đây về hộ, có thể thấy rằng khái niệm hộ
bao hàm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Là nhóm người cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc.

- Có chung một ngân quỹ
- Cùng tiến hành sản xuất chung
4
- Cùng sống chung hoặc không cùng sống chung trong một mái nhà.
Dưới góc độ kinh tế thì khái niệm hộ được xem là kinh tế hộ
Nói đến nông hộ thì chúng ta có thể xem nó như là hộ sản xuất nông
nghiệp hay là hộ nông dân. Nông hộ là những người có quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng một khoản đất đai và trực tiếp quản lý, tổ chức sản xuất nông
nghiệp, họ sống bằng nghề nông là chủ yếu. Khi nghiên cứu về kinh tế nông
hộ (hộ nông dân) Frank Ellis định nghĩa: “nông dân là các hộ gia đình làm
nông nghiệp có quyền kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất hiện có sử dụng
sức lao động của gia đình để sản xuất” [14, tr.42].
Như vậy, có thể hiểu là nếu một chủ đất không trực tiếp quản lý và lao
động sản xuất trên phần đất của mình thì không phải là nông hộ, hộ nông dân
hay hộ sản xuất nông nghiệp, và nếu một người lao động sống bằng thu nhập
từ lao động sản xuất nông nghiệp nhưng không làm chủ một mảnh đất nào mà
chỉ làm thuê cũng không gọi là nông dân mà đó là “công nhân nông nghiệp”.
Là người nông dân hay nông hộ, nhất thiết họ phải làm chủ tư liệu sản xuất,
chủ yếu đó là ruộng đất và họ phải là người trực tiếp lao động và quản lý sản
xuất trên phần đất ấy với tư cách là chủ sở hữu hay chủ sử dụng lâu dài.
Người nông dân trong nông hộ của họ tạo thành một đơn vị kinh tế - xã
hội cơ bản là hộ sản xuất nông nghiệp, xét về góc độ kinh tế thì đó là những
đơn vị kinh tế tự chủ gọi là kinh tế hộ nông nghiệp.
Kinh tế nông hộ hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, hiểu
nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành trồng trọt, chăn nuôi, nghề
rừng, nghề cá và có thêm một số hoạt động phi nông nghiệp khác nhưng sản
xuất kinh doanh nông nghiệp là chủ yếu. Qua đó có thể tóm tắt: kinh tế nông
hộ hay còn gọi kinh tế hộ nông nghiệp là hình thức kinh tế tự chủ trong kinh
doanh nông nghiệp, dựa trên cơ sở sức lao động của gia đình là chính và
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng lâu dài phần ruộng đất mà họ canh tác

cùng với các tư liệu sản xuất khác. Kinh tế nông hộ hay còn gọi là hộ sản xuất
5
nông nghiệp là khái niệm bao quát chung bao gồm các loại hộ có trình độ sản
xuất khác nhau như kinh tế nông hộ tự túc, tự cấp (tiểu nông), kinh tế nông hộ
sản xuất hàng hoá (nông trại gia đình). Cũng cần phân biệt kinh tế nông hộ
với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ với kinh tế phụ gia đình, bởi lẽ có
một thời kỳ ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa cũ thực hiện chủ trương
tập thể hoá sản xuất nông nghiệp, tách người nông dân khỏi quyền làm chủ tư
liệu sản xuất, xoá bỏ hình thức kinh tế hộ tự chủ. Hình bóng kinh tế nông hộ
chỉ còn được người nông dân cố tình lưu giữ dưới dạng kinh tế phụ gia đình,
xã viên hợp tác xã, nó không còn là đơn vị kinh tế tự chủ.
Ở nước ta, tư khi đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp vai trò đơn
vị kinh tế tự chủ của nông hộ dần được khẳng định, họ được trao quyền quản
lý và sử dụng đất lâu dài. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự
phát triển một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nông hộ đã từng bước
chuyển biến từ kinh tế nông hộ sản xuất tự cấp tự túc (tiểu nông) lên kinh tế
nông hộ sản xuất hàng hoá (hộ nông trại) hay nông trại gia đình. Người ta
phân biệt kinh tế nông hộ tiểu nông với kinh tế nông hộ trang trại ở chỗ kinh
tế nông hộ tiểu nông qui mô nhỏ, sản xuất tự cấp tự túc là chủ yếu, kinh tế
nông hộ trang trại có quy mô lớn hơn và sản xuất chủ yếu để bán ra thị
trường. Quá trình phát triển từ tiểu nông lên sản xuất hàng hoá của kinh tế
nông hộ không phải là đột biến mà nó diễn ra dần dần từng bước.Việc phân
loại nông hộ trang trại với nông hộ tiểu nông cũng mang tính ước lệ tương
đối. Ở nước ta, có ý kiến cho rằng phải phân biệt ở quy mô diện tích canh tác,
cũng có ý kiến khác nói rằng lấy giá trị nông sản hàng hoá, số đông các nhà
khoa học cho rằng nông hộ trang trại phải có quy mô đất canh tác cao hơn quy
mô trung bình mật độ trong vùng và số lượng nông sản hàng hoá phải đạt từ
70% trở lên.
1.1.1.2. Một số đặc trưng của kinh tế nông hộ

6
Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản của nền nông nghiệp và hơn
thế nữa chúng còn là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặt điểm tổ chức
nông nghiệp bởi nó có những đặc trưng sau đây:
- Kinh tế nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ giữa quan hệ sở hữu, quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối.
- Các thành viên của nông hộ đều là người trong một gia đình, có chung
lợi ích, làm chung, ăn chung, cùng chia sẻ thuận lợi, khó khăn, thành công
hay rủi ro trong cuộc sống và trong lao động sản xuất. Chính vì vậy, ý thức
trách nhiệm của mỗi thành viên trong quá trình lao động sản xuất rất cao vì tự
giác, họ có ý thức của người chủ đối với ruộng đất, với cây trồng, vật nuôi,
với kết quả của quá trình sản xuất. Xét về sự phù hợp với đặc thù sinh học của
sản xuất nông nghiệp thì nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản phù hợp nhất, khó
có hình thức kinh tế nào có thể thay thế tốt hơn được.
- Kinh tế nông hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao, do có sự thống
nhất về lợi ích trong gia đình nên việc điều chỉnh giữa tích luỹ và tiêu dùng
được thực hiện một cách cơ động, có khi dành cả một phần sản phẩm tất yếu
để đầu tư và mở rộng sản xuất. Tính cơ động này làm cho kinh tế nông hộ có
khả năng thích ứng với sự thay đổi đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, gặp điều kiện thuận lợi, hộ có khả năng mở rộng sản
xuất để có nhiều nông sản hàng hoá và khi các điều kiện không thuận lợi, sản
xuất gặp khó khăn, hộ có thể điều chỉnh cho phù hợp hoặc chuyển một phần
sản phẩm tất yếu thành sản phẩm thặng dư, có thể lấy công làm lãi để bảo
toàn vốn sản xuất, mặc dù có thể giảm tối đa nhu cầu tiêu dùng .
Mặt khác, kinh tế nông hộ có quy mô sản xuất tương đối nhỏ, phù hợp với
khả năng lao động và quản lý của gia đình, vì vậy nó là một đơn vị sản xuất gọn
nhẹ, linh hoạt thích ứng với sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường.
Đối với kinh tế nông hộ, có thể dễ dàng điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cải
tiến kỹ thuật, sản xuất theo nhu cầu của thị trường hơn là những đơn vị kinh tế
có quy mô lớn như các nông trường, các xí nghiệp nông nghiệp, lâm trường…

7
nông hộ có khả năng tận dụng thời gian nông nhàn để tham gia vào các hoạt
động sản xuất phi nông nghiệp để tăng thêm thu nhập.Vì vậy, nhìn chung tính
hiệu quả của kinh tế nông hộ là tương đối cao, nó quy định sự tồn tại khách
quan, lâu dài của hình thức kinh tế nông hộ trong sản xuất nông nghiệp.
Là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ nhưng nó không hoạt động một cách
riêng biệt, không phải chỉ là kinh tế cá thể, mà nó có khả năng tồn tại với
nhiều hình thức sở hữu khác, có thể là thành viên của các tổ chức hợp tác hay
liên kết với các tổ chức kinh tế Nhà nước để làm tăng năng lực của mình.
Sản xuất của nông hộ luôn gắn liền với quy mô và đặc điểm môi trường
sinh thái đặc biệt là khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn. Nông hộ chưa
thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Do vậy,
kết quả sản xuất kinh doanh của nông hộ thường hay gặp rủi ro. Sản phẩm tạo
ra có thời hạn sử dụng ngắn, chủ yếu mang tính chất tươi sống, cho nên trong
sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với chế độ bảo quản, vận chuyển, chế biến
thích hợp và phải có thị trường tiêu thụ.
Ngoài ra, còn có một số đặc trưng khác như kinh tế nông hộ vừa là đơn
vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng, kinh tế nông hộ là đơn vị tự nhiên tự
tạo nguồn lao động…
Do những đặc trưng như vậy mà nông hộ từ xa xưa cho đến nay, ở tất
cả các nước luôn là đơn vị kinh tế cơ bản của nền sản xuất nông nghiệp.
Từ một số đặc trưng nêu trên, chúng ta thấy nông hộ là một đơn vị kinh
tế tự chủ, là một bộ phận hợp thành nền kinh tế nhiều thành phần, trong thời
kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước. Nông hộ được giao
quyền sử dụng đất lâu dài, cơ cấu sản xuất đa dạng, quy mô sản xuất canh tác
phù hợp nhiều ngành nghề dựa trên cơ sở lao động của gia đình. Trong quá trình
sản xuất kinh doanh, các nông hộ thường có nhu cầu quan hệ hợp tác với nhau
và với các thành phần kinh tế khác nhằm làm tăng thêm năng lực cho mình.
8
Với Quảng Nam, nông hộ ở Quảng Nam chiếm 79,1% tổng số hộ trong

toàn tỉnh, quy mô sản xuất, diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ 2,2 ha,
bình quân khẩu là 0,4 ha đất nông nghiệp. Phát triển sản xuất của nông hộ gắn
liền với đặc điểm từng vùng và từng khu vực phù hợp với điều kiện tự nhiên
từng vùng: ven biển, đồng bằng, trung du, miền núi…
Quảng Nam đã xác định được vị trí và tầm quan trọng của nông hộ
trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động văn hoá – xã hội khác ở nông
thôn. Nhờ đó, phong trào hộ sản xuất giỏi ngày càng tăng, đã tích cực tiếp
thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi phong tục,
tập quán canh tác lạc hậu, từ đó đã góp phần to lớn vào dự phát triển nền kinh
tế của tỉnh nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, làm cho
đời sống nhân dân của tỉnh không ngừng được cải thiện.
1.1.2. Nhu cầu vốn với sự phát triển kinh tế nông hộ
1.1.2.1. Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam nói chung
và Quảng Nam nói riêng
Từ khi xác định nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, theo Luật đất đai
(1993) và Luật đất đai sửa đổi (2003) nông hộ được giao các quyền sử dụng
lâu dài về ruộng đất, đó là quyền được chuyển đổi, cho thuê, chuyển nhượng,
thừa kế, thế chấp, kinh tế nông hộ đã có bước chuyển biến mạnh mẽ theo
hướng đi lên sản xuất hàng hoá. Giá trị hàng hoá trên một đơn vị diện tích
ngày càng được nâng cao bằng cách tăng đầu tư, thâm canh, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng con vật nuôi, chuyển dịch cơ
cấu sản xuất theo hướng lựa chọn những cây con có giá trị cao, làm cho sản
xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh cây lúa sang đa canh và kết hợp
trồng trọt và phát triển chăn nuôi với các loại giống cây, con gia súc, gia cầm,
thuỷ cầm, thuỷ sản có giá trị lớn hơn. Những vùng chuyên canh lúa cao sản,
lúa có giá trị hàng hoá cũng phát triển mạnh. Cơ cấu kinh tế dần dần chuyển
dịch theo hướng tỷ trọng ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng lên.
9
Một số nông hộ từ thuần nông đã dần chuyển sang vừa làm nông nghiệp vừa
làm dịch vụ để có thêm thu nhập, một số hộ có điều kiện chuyển hẳn sang làm

ngành nghề phi nông nghiệp. Một số nông hộ có khả năng, có điều kiện vươn
lên lập các trang trại để sản xuất hàng hoá lớn.
Quan điểm đổi mới của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII của
Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống. Hợp tác hoá vẫn là con đường tất yếu,
khách quan để đưa nông nghiệp nước ta lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
kinh tế hợp tác vẫn là hình thức kinh tế phù hợp để chuyển nền nông nghiệp tiểu
nông lên nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Hợp tác hoá hiện nay theo quan
niệm mới hoàn toàn khác trước về tính chất, hình thức, quy mô và trình độ.
Quan niệm mới đó được vạch ra từ Nghị quyết Trung ương VI (khoá
VI) và được Luật hợp tác xã sửa đổi cụ thể hoá. Hợp tác có nhiều hình thức từ
thấp đến cao, mọi tổ chức sản xuất do người lao động tự nguyện góp vốn, góp
sức được quản lý dân chủ, đăng ký hoạt động theo pháp luật, không phân biệt
quy mô, tính chất đếu có hợp tác xã. Quá trình vận động và phát triển nông
nghiệp phải trên cơ sở lấy hoạt động nông hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, sản
xuất kinh doanh theo hướng hợp tác hoá, đa dạng hoá các hình thức, đan xen
với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, nhiều hình thức hoạt động, nhiều trình
độ liên kết, hợp tác với nhau. Từ đó, dần dần phát triển và ra đời những quy
mô hợp tác xã mới đúng tính chất kinh tế hợp tác và đảm bảo nguyên tắc hợp
tác mà Lênin đã nêu ra (tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có lợi và giúp đỡ
lẫn nhau). Từ sự đổi mới về quan niệm đã dẫn đến đổi mới về hình thức tổ
chức và nội dung hoạt động của hợp tác xã ở nông thôn và do đó cũng sẽ là cơ
sở thuận lợi cho sự phát triển các hình thức kinh tế nông hộ đạt hiệu quả trong
sản xuất cao hơn, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn của đất nước. Việc phát triển các hình thức kinh tế
hợp tác của nông thôn sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội đi lên theo
hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phù hợp với các quy luật khách
10
quan ở nông thôn nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trên con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Quan điểm đổi mới của Đảng ta là cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần,

xu thế của kinh tế nông hộ trong tiến trình đổi mới là dần chuyển sang sản
xuất hàng hoá. Cùng đồng hành với sự vận động của kinh tế thị trường, nền
kinh tế nông hộ sẽ bị chi phối tác động bởi các quy luật của kinh tế thị trường
là rất lớn. Bên cạnh đó khả năng về vốn đầu tư, về trình độ khoa học kỹ thuật,
về thị trường… của kinh tế nông hộ là có hạn nên việc tham gia vào tổ chức
hợp tác, kinh doanh, liên kết, các mô hình kinh tế trang trại… là cần thiết cho
sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông hộ.
Có thể chúng ta nhận thấy tình hình chung của kinh tế nông hộ trong
những năm đổi mới vận động theo một số xu hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: đi lên sản xuất hàng hoá bằng con đường tham gia vào các tổ
chức hợp tác, mặc dù hộ sản xuất nông nghiệp đã được công nhận về mặt
pháp lý là một thực thể kinh tế độc lập, được giao quyền sử dụng đất lâu dài
(tư liệu sản xuất) nhưng do thực tế phần lớn nông hộ có tiềm lực kinh tế, quy
mô sản xuất còn nhỏ, mặt khác khả năng quản lý, trình độ kỹ thuật công nghệ,
khả năng tiếp cận thị trường… còn nhiều hạn chế và một số vấn đề khác như
thuỷ lợi, điện, giống cây con… cũng như các dịch vụ cho sản xuất nông
nghiệp khác tự mỗi nông hộ không thể giải quyết được mà cần phải có sự hợp
lực, hợp tác lại mới có thể giải quyết được. Từ những đòi hỏi đó mà nhu cầu
hợp tác, liên kết giữa các hộ nông dân ngày càng trở nên bức xúc. Quy mô
hình thức các tổ chức hợp tác rất đa dạng từ tổ liên doanh, liên kết đến tổ chức
kinh tế hợp tác xã ở nông thôn… Sự hình thành các hình thức hợp tác hoạt
động đan xen cùng kinh tế nông hộ là một tất yếu trong quá trình phát triển vì
các thành viên của kinh tế hợp tác là những nông hộ. Do vậy, cần khuyến
khích các hình thức kinh tế hợp tác phát triển để giúp đỡ kinh tế nông hộ quá
trình tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, để kinh tế nông hộ thực
11
sự là bộ phận không thể thiếu được trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại
hoá nông nghiệp nông thôn.
Như vậy, xu hướng hợp tác có thể diễn ra với nhiều hình thức là do nhu
cầu lợi ích thiết thực của kinh tế nông hộ, xu hướng phát triển này là thể hiện sự

biến đổi về chất của kinh tế nông hộ, vì quá trình hợp tác đó tạo khả năng để
nâng cao trình độ quản lý, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường, tạo điều kiện
để kinh tế nông hộ tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.
Thứ hai: Xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa bằng con đường mở
rộng quy mô sản xuất theo hình thức phát triển trang trại. Trang trại là dạng
đặc trưng của kinh tế nông hộ hàng hoá. Trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh có những hộ phát triển cơ sở sản xuất của mình lên thành những
trang trại do có khả năng tích tụ, tập trung được các nguồn lực cần thiết, nên
tự nó có thể phá bỏ hình thức hộ “tiểu nông” để trở thành hộ sản xuất hàng
hoá. Xu hướng này phát triển mạnh ở những nơi có điều kiện về đất đai, rừng,
biển, mặt nước để nuôi trồng thủy sản cũng như việc mở rộng chăn nuôi gia
súc, trồng cây ăn quả…với quy mô ngày càng lớn. Đi lên sản xuất hàng hoá,
kinh tế trang trại là bước tiến của quá trình phát triển của kinh tế nông hộ, là
xu hướng tất yếu của nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay và là đòi
hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Xu
hướng phát triển các hộ trang trại ở nông thôn là xu hướng tích cực, biểu hiện
sự vận động phát triển về chất của kinh tế nông hộ, nó có tác động tích cực
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng
sản xuất hàng hóa. Sự ra đời nhiều nông hộ trang trại ở tất cả các vùng, miền,
những nơi có điều kiện, sẽ tạo ra sức sản xuất mới ở nông thôn, là nhân tố kích
thích tác động tích cực những nông hộ còn lại sẽ vươn lên cùng đồng hành.
Ở Quảng Nam hiện nay có gần 1000 trang trại, trên hơn 3000 ha đất cải
tạo theo hướng phát triển kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại, góp phần tích
cực vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng
12
hóa. Mô hình kinh tế hợp tác cũng phát triển mạnh theo tinh thần Luật Hợp
tác xã sửa đổi, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Đến nay toàn tỉnh có 48 tổ
chức kinh tế hợp tác, trong số này nổi lên điển hình các HTX Duy Trinh, Duy
Sơn, Duy Xuyên, HTX nông nghiệp Điện Phước I - Điện Bàn, HTX Đại Hiệp-
Đại Lộc…cùng với việc phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại

thì Quảng Nam còn có trên 297.660 nông hộ là những thành viên tích cực góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp
nói riêng trong những năm qua không ngừng phát triển và ổn định.
1.1.2.2. Nhu cầu vốn và sự phát triển kinh tế nông hộ
Thị trường vốn ra đời xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của nền
sản xuất xã hội, đó là nhu cầu giao lưu vốn giữa các chủ thể kinh tế. Trong
nền kinh tế thị trường, nhu cầu giao lưu vốn là một tất yếu khách quan bởi vì
vào bất cứ thời điểm nào cũng đều xuất hiện trạng thái có những người có vốn
nhưng chưa có nhu cầu sử dụng, đồng thời cũng có những nhu cầu về vốn
nhưng bản thân lại không có vốn để trang trải các nhu cầu ấy. Trường hợp
này thường xảy ra đối với kinh tế nông hộ. Đặc biệt, ở nước ta đi lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền sản xuất nhỏ bé lạc hậu, việc cần một nhu
cầu vốn nhất định để mua sắm tư liệu sản xuất và các chi phí cho sản xuất là
điều rất cần thiết.
Đối tượng để đầu tư vốn của nông hộ là rất đa dạng, phong phú bởi các
hộ phần lớn ở nông thôn là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Nhưng nhìn chung,
chi phí cho các đối tượng cụ thể cho các ngành nghề đó là:
- Ngành trồng trọt: thường đầu tư cho các chi phí cải tạo đất, giống cây,
chi phí thuỷ lợi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí thu hoạch, chi phí
sau thu hoạch, mua sắm thiết bị công cụ sản xuất, lao động thuê ngoài…
- Ngành chăn nuôi: chi phí chuồng trại, ao hồ, con giống, thức ăn gia
súc, thú y và chăm sóc động vật, chi phí môi trường…
- Ngành ngư nghiệp: chi phí tàu thuyền, ngư cụ, chi phí về chế độ bảo
quản, chế biến…
13
- Ngành lâm nghiệp: chi phí cho việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng,
khai thác, chế biến lâm sản…
- Các ngành nghề ở nông thôn: chi phí nguyên liệu đầu vào tuỳ theo
từng ngành nghề có thể khai thác tại chỗ, hoặc mua nguyên liệu, nhiên liệu
cho quá trình sản xuất kinh doanh, mua sắm máy móc thiết bị

Ở Quảng Nam, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu
đến năm 2020 là tỉnh công nghiệp. Do vậy, trong ngành sản xuất nông nghiệp
phải chuyển dịch mạnh mẽ và quyết liệt cơ cấu sản xuất nội bộ, trong kế
hoạch 5 năm 2006-2010: đưa phát triển chăn nuôi thành ngành sản xuất chính,
phấn đấu đưa tỷ trọng chăn nuôi chiếm từ 35- 40 % giá trị sản xuất nông
nghiệp; phát triển trồng trọt chất lượng cao, đạt bình quân trên 30 triệu
đồng/ha canh tác/ năm; đảm bảo 10.000 ha ngô, mía từ 6000 – 8000 ha , dứa
từ 4000 - 5000 ha, lạc 10000 ha, hạt điều 5000 ha, chè 1000 ha, vùng nguyên
liệu giấy với quy mô khoản 25000-30000 ha, bông 5000 ha, hình thành các
vùng rau sạch, phát triển nghề trồng hoa và sinh vật cảnh. Về thủy sản: nâng
sản lượng đánh bắt hải sản lên 60.000-65.000 tấn vào năm 2010, phấn đấu
đưa diện tích nuôi thuỷ sản đạt 7000 ha trong đó diện tích nuôi tôm là 4.000
ha, xây dựng hai trung tâm nghề cá lớn ở Cửa Đại (Hội An) và Tam Quang
(Núi Thành). Về lâm nghiệp, tăng tốc độ che phủ rừng từ 42% lên 46% vào
năm 2010; triển khai trồng mới và khoanh nuôi tái sinh hằng năm là 22000
ha, chú trọng các loại có giá trị kinh tế cao… Ngoài nông nghiệp, việc phát
triển các ngành công nghiệp, dịch vụ… và các lĩnh vực kinh tế xã hội khác
cũng rất cấp bách. Do đó nhu cầu vốn đến năm 2010 cần khoảng 40.000 tỷ
[37]. Riêng trong ngành nông nghiệp nói chung nhu cầu vốn đầu tư đến 2010
cầnchiếm từ 22 – 24% trong tổng nhu cầu vốn của phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Quảng Nam. Trong các nhu cầu phát triển này có nhu cầu rất lớn của
kinh tế nông hộ ở Quảng Nam trong những năm đầu. Để có nguồn vốn cho
các nhu cầu nói trên thì tỉnh Quảng Nam phải khai thác triệt để mọi nguồn
14
vốn có thể. Để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội đến 2015 – 2020 là tỉnh công
nghiệp thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế nói chung
và cho phát triển kinh tế nông hộ nói riêng là rất cần thiết và là công cụ quan
trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
1.2. NỘI DUNG VÀ NHỮNG HÌNH THỨC TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỚI NÔNG HỘ

VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Tín dụng và tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn với nông hộ
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản
ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu và người sử dụng các nguồn vốn tiền
tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả vốn và kèm
theo lợi tức khi đến hạn. Có nhiều hình thức tín dụng, nhưng trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, tín dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và được áp dụng
rộng rãi.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh
tiền tệ của ngân hàng, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Đây
cũng là hình thức tín dụng phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ.
Chúng ta biết rằng: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể,
trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng
trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết
hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Trong quan hệ giao dịch này thể hiện
các nội dung sau:
- Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái
hay còn gọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể
dưới hình thức tiền tệ hoặc dưới hình thức hiện vật như hàng hoá, máy móc,
thiết bị bất động sản.
15
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất
định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả
cho người cho vay. Mác viết:
Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời
gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay
nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh

toán, cũng không phải tự đem đi bán, mà chỉ đem cho vay, tiền chỉ
đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát
một kỳ hạn nhất định [21, tr.16]
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Mác viết:“Đem tiền cho
vay với tư cách là một việc với đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của
nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn lên thêm
trong quá trình vận động” [21, tr.28].
Quan hệ tín dụng có thể diễn tả theo mô hình sau:
T
Giá trị tín dụng

Trái chủ (credior) Thụ trái (debetor)
Người cho vay (lender) Người đi vay (borower)
T +L
Giá trị tín dụng + lãi
16
Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng hình thành hết sức đa
dạng, và có đủ các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng cụ thể:
+ Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện
dưới hình thức Nhà nước phát hành các giấy tờ như công trái, trái phiếu, tín
phiếu kho bạc.
+ Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau dưới hình thức bán
chịu hàng hóa.
+ Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với công chúng, thể hiện
dưới hình thức phát hành các loại trái phiếu, bán hàng trả góp.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng
với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gởi
của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua…
Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng thể hiện với 2 tư

cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là đi vay
(borrow) bao gồm nhận tiền gởi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay
vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác.
Ngân hàng đóng vai trò trái chủ và hành vi này được gọi là cho vay (loans).
Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay, nên khi nói đến tín dụng người
ta thường đề cập đến cho vay và bỏ quên mặt thứ hai, đó là đi vay.
* Các loại cho vay của ngân hàng
Căn cứ vào mục đích:
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra các loại sau:
+ Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản…
+ Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
+ Cho vay nông nghiệp: có loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
17
+ Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng…
Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia thành 3 loại sau:
+ Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn từ 12 tháng trở lại và
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân…
+ Cho vay trung hạn: loại cho vay này có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật mở rộng sản xuất…
+ Cho vay dài hạn: loại cho vay này có thời hạn trên 5 năm trở lên đáp
ứng các nhu cầu vốn dài hạn…
* Một số hình thức tín dụng trong cho vay nông hộ
Do đặc thù của kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế cấp cơ sở, là tế bào

cấu thành nền sản xuất xã hội nên khi cấp tín dụng cho nông hộ trong quá
trình sản xuất sẽ có những phương thức tín dụng khác nhau, phù hợp với mô hình
sản xuất của hộ. Sau đây là một số hình thức cấp tín dụng đối với kinh tế hộ:
- Cho vay trực tiếp:
Cho vay trực tiếp là hình thức tín dụng mà trong đó người nông dân có
nhu cầu về vốn trực tiếp giao dịch với ngân hàng để vay vốn và trả nợ, đồng
thời ngân hàng cho vay trực tiếp đối với người vay đó. Trong cho vay trực
tiếp, việc cấp tín dụng có thể diễn ra với sơ đồ sau:
+ Nếu diễn ra cho vay và thu nợ giữa chỉ ngân hàng và hộ sản xuất
Sơ đồ 1.1: Hình thức tín dụng song phương
giải ngân
Ngân hàng Hộ nông dân
Thu nợ
Hình thức cấp tín dụng này phù hợp với những món vay nhỏ, thời hạn
ngắn và ngân hàng sẽ khó giám sát mục đích sử dụng vốn vay của hộ. Song
18
mặt khác do hộ nông dân sinh sống ở những nơi có điều kiện giao thông không
thuận lợi nên sẽ gây bất lợi trong việc tiếp cận với ngân hàng nơi cho vay.
+ Nếu diễn ra việc cấp tín dụng có sự tham gia của bên thứ 3 (tổ chức
bao tiêu sản phẩm)
Sơ đồ 1.2: Hình thức qua tổ chức bao tiêu
Hộ nông dân (1) Ngân hàng

(2) (3)
Tổ chức bao tiêu
Trong hợp đồng tín dụng, ngoài ngân hàng và hộ nông dân, còn có sự
tham gia của các tổ chức bao tiêu sản phẩm nên khi tiến hành thu nợ thì ngân
hàng sẽ thông qua tổ chức này.
(1)Ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân của hộ nông dân
(2)Hộ nông dân giao bán sản phẩm cho tổ chức bao tiêu

(3)Tổ chức bao tiêu trả nợ ngân hàng thay cho hộ nông dân
- Cho vay bán trực tiếp (qua tổ chức đại diện của hộ nông dân):
Cho vay bán trực tiếp là hình thức cho vay được áp dụng từ
Bangladesh, và nhân rộng ra ở các nước châu Á. Tại Việt Nam, áp dụng mô
hình cho vay này vào những năm cuối thập niên chín mươi và dưới cái tên gọi
như cho vay theo tổ liên doanh, liên đới, cho vay theo tổ hợp tác vay vốn, cho
vay theo tổ tiết kiệm vay vốn…Khi có Nghị quyết liên tịch 2308 giữa
NHNo&PTNT Việt Nam và Trung ương Hội nông dân Việt Nam ra đời vào
ngày 9/10/1999 thì đây là điều kiện thuận lợi để các chi nhánh NHNo&PTNT
trong cả nước tận dụng và mở rộng các hình thức cho vay theo tổ vay vốn
(ngân hàng nông nghiệp thường gọi là tổ 2308). Tổ được thành lập trên cơ sở
19
tự nguyện, số thành viên trong tổ khoảng từ 5-40 người, các thành viên của tổ
bầu ra tổ trưởng là người đại diện pháp lý của tổ để giao dịch với ngân hàng,
tổ được hình thành có sự quyết định, công nhận của chính quyền địa phương.
Sơ đồ của hình thức tín dụng cho vay qua tổ được thể hiện như sau:
Sơ đồ 1.3: Hình thức tín dụng cho vay qua tổ

Với mô hình cho vay qua tổ vay vốn đã đem lại một số ưu điểm:
+ Đối với hộ nông dân: giảm được thời gian, chi phí đi lại làm thủ tục
vay vốn, trả nợ và chỉ đến ngân hàng khi nhận tiền vay, có điều kiện học tập
kinh nghiệm lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, tiếp cận với khoa học kỹ
thuật trong quá trình sản xuất.
+ Đối với ngân hàng: giảm được áp lực quá tải của cán bộ tín dụng,
nắm bắt kịp thời các nhu cầu cho phục vụ phát triển sản xuất của các hộ, bố trí
vốn, kế hoạch giải ngân hợp lý để các hộ tổ chức sản xuất một cách chủ động
và thông qua tổ ngân hàng có thể vận động các thành viên trong tổ giữ các
khoản tiền chưa cần sử dụng vào ngân hàng để tăng thêm nguồn vốn phục vụ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế.
- Cho vay hộ nông dân qua tổ chức trung gian (gián tiếp): Hình thức

này, ngân hàng cấp tín dụng cho nông hộ thông qua việc cho các tổ chức chế
biến, tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư cho các hộ nông dân. Biểu hiện qua hình
thức này là hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng và tổ chức trung
gian, các tổ chức trung gian này thường là các xí nghiệp, nhà máy dùng các
20
Hộ nông dân
-1
-2
-3
-4
Tổ hợp
tác vay
vốn
Tổ
trưởng
tổ vay
vốn
Ngân
hàng
nguyên liệu là những sản phẩm thì kết quả sản xuất của các hộ nông dân, hay
các tổ chức thu mua các nông sản ấy của các nông hộ do các tổ chức này phải
ứng vốn cho hộ nông dân sản xuất và tổ chức bao tiêu các nông sản phẩm làm
ra của hộ nông dân.
Sơ đồ 1.4: Mô hình cho vay theo tổ vay vốn
Ngân hàng

(2)
Tổ chức trung gian Hộ nông dân
(3)
(1)Ngân hàng cho các tổ chức trung gian vay

(2)Các tổ chức trung gian ứng vốn cho nông hộ
(3) Đến vụ thu hoạch tổ chức trung gian thu mua sản phẩm và hộ trả
nợ cho các tổ chức trung gian
(4) Các tổ chức trung gian trả nợ cho ngân hàng.
Lợi ích của hình thức cho vay nông hộ qua tổ chức trung gian
- Đối với hộ nông dân: đây là hình thức cho vay giúp hộ nông dân an
tâm sản xuất vì đã có nơi cung cấp nguồn đầu vào như giống cây con, phân
bón, thuốc trừ sâu bệnh… và đồng thời ở đầu ra cũng được bao tiêu các sản
phẩm làm ra… ngoài ra, còn có những điều kiện để hộ sản xuất tiếp cận với
các công nghệ kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất.
- Đối với ngân hàng: vốn cho vay sẽ được sử dụng đúng mục đích, vì
có sự giám sát của tổ chức trung gian, ngân hàng không tốn thời gian thẩm
định đến từng hộ mà chỉ thẩm định tại tổ chức trung gian.
- Đối với tổ chức trung gian: sẽ được đáp ứng vốn kịp thời từ phía ngân
hàng và thông qua các hợp đồng với hộ sản xuất nông nghiệp tổ chức trung
21
gian sẽ quản lý, thu mua được các sản phẩm do nông hộ sản xuất ra, đảm bảo
các nguyên liệu đầu vào có chất lượng cho việc sản xuất chế biến và lưu
thông bình thường của mình.
Ngoài các hình thức cho vay đã nêu trên, NHNo&PTNT Việt Nam cho
vay qua các tổ chức tài chính trung gian để chuyển tải vốn tín dụng đến hộ
sản xuất như quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng cổ phiếu, công ty tài chính,
cho vay qua các tổ chức trung gian này gọi là “bán buôn”. Đối với cho vay
các tổ chức tài chính trung gian này thủ tục vay tương tự như cho vay một
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật.
1.2.2. Tác dụng của hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn đối với kinh tế nông hộ
Việc cho nông hộ vay là nhằm tạo điều kiện và khuyến khích nông dân
phát triển sản xuất ra hàng hoá nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, phát triển
công nghiệp chế biến, mở rộng các ngành nghề sản xuất mới, kinh doanh dịch

vụ… tạo công ăn việc làm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong
ngành nông nghiệp, góp phần xây dựng một nông thôn mới giàu có văn minh.
Tín dụng nói chung và tín dụng NHNo&PTNT đối với hộ sản xuất
nông nghiệp ở nước ta có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là nó giúp cho nền
nông nghiệp nước ta tạo ra nhiều hàng hoá hơn để cung cấp cho sản xuất công
nghiệp, xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của toàn xã hội…
Tín dụng của NHNo&PTNT là kênh để chuyển tải vốn có hiệu quả
trong nền kinh tế nói chung và từng hộ sản xuất nông nghiệp nói riêng. Trong
nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá và chịu sự tác
động, chi phối bởi các quy luật của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh
doanh, do quá trình tuần hoàn của vốn ở các khâu của sản xuất nên có lúc
người sản xuất tạm thời có nhu cầu vốn lớn hơn vốn tự có của mình nên cần
phải kịp thời bổ sung để sản xuất được duy trì liên tục kịp thời không bị gián
đoạn. Đặc biệt là đối với các nông hộ chu kỳ sản xuất thường là theo thời vụ,
22
do đó mọi nhu cầu chi phí đều tập trung vào thời vụ sản xuất. Chỉ khi đến thu
hoạch thì mới có nguồn thu do đó khoảng thời gian từ sản xuất đến thu hoạch,
tuỳ theo sản phẩm, các hộ sản xuất nông nghiệp thường thiếu vốn cho đầu tư
sản xuất, lúc này vốn tín dụng ngân hàng là kênh có thể đáp ứng kịp thời cho
nhu cầu đó.
Các nhà kinh tế thường cho rằng, thông qua công tác tín dụng các ngân
hàng thương mại đã và đang thực hịên chức năng xã hội của mình, làm cho
sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vì tín dụng của ngân hàng cung ứng
vốn cho những người cần vốn để đầu tư sản xuất, chế biến, cất trữ sản phẩm
để sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất nói trên,
từ người sản xuất đến người bán buôn, đến người bán lẻ và cuối cùng đến
người tiêu dùng. Tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng toàn bộ quá trình
kinh tế, cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Người nông dân nhờ
có điều kiện được vay vốn họ có thể mua hạt giống, thức ăn gia súc, phân bón

và các nhu cầu thiết yếu khác cho quá trình sản xuất, kinh doanh cũng như tín
dụng ngân hàng đã tạo ra cho các nông hộ khả năng để mua sắm các vật tư,
thiết bị, máy móc, các phương tiện vận chuyển để tổ chức lưu thông hàng hoá
từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, qua đó tín dụng của NHNo&PTNT góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
Tín dụng của NHNo&PTNT đối với kinh tế nông hộ chủ yếu là tín
dụng chi phí sản xuất, tức là các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nông
dân để chi phí về giống cây trồng, con gia súc, thức ăn gia súc, phân bón,
thuốc trừ sâu, phòng chữa bệnh gia súc, chi phí ngày công lao động…Ngoài
ra tín dụng của NHNo&PTNT còn bao gồm các khoản cho vay trung, dài hạn
để cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi, xây dựng kho tàng, cơ
sở chế biến, phương tiện vận tải… tín dụng của NHNo&PTNT không chỉ đơn
23
thuần là một kênh chuyển tải vốn cho sản xuất mà nó còn là công cụ để thúc
đẩy nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng phát triển, đặc biệt
là đối với nông nghiệp Việt Nam chúng ta hiện nay. Thông qua tín dụng của
ngân hàng, NHNo&PTNT đã thực sự trở thành là người bạn của nông dân,
giúp đỡ nông dân mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật, huy động các
nguồn nhân lực vào quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp với năng suất và
chất lượng ngày càng cao hơn, từ đó thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn
phát triển theo hướng kinh tế thị trường. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể phát
triển khi nào nó được chuyển qua sản xuất hàng hoá. Muốn làm được điều đó
thì các hộ sản xuất cần phải có vốn và đặc biệt là cần có sự tài trợ của hệ
thống ngân hàng nói khác đi là nhờ vào tín dụng NHNo&PTNT đối với nông
hộ mà nền kinh tế nông nghiệp sẽ được tổ chức lại theo hướng sản xuất hàng
hoá, chuyên môn hoá với quy mô sản xuất lớn hơn… Vì sản xuất hàng hoá
vừa là mục tiêu vừa là điều kiện của tín dụng, nhờ sản xuất hàng hoá mà tín
dụng được thu hồi vốn nhanh chóng và khả năng thu hồi tín dụng hoàn toàn lệ
thuộc vào khả năng tiêu thụ hàng hoá.

1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRONG VIỆC
VAY PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG HỘ
1.3.1 Các nhân tố thuộc về hộ sản xuất nông nghiệp
Các nhân tố thuận lợi
Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng rất rộng lớn ở cả một thị
trường nông thôn và thành thị, các đối tượng cấp tín dụng trong kinh tế nông
hộ rất đa dạng và phong phú, tuỳ theo ngành nghề hộ tham gia và sản xuất
kinh doanh mà đối tượng cấp tín dụng khác nhau, bao gồm các ngành: trồng
trọt, ngành chăn nuôi, ngành đánh bắt hải sản, ngành lâm nghiệp, ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp, chế biến…, hộ nông dân họ sống có tính cộng đồng rất
cao, là những người gắn bó máu mủ huyết tộc, hộ nông dân Việt Nam giữ vị
24
trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp. Đặc điểm của hộ nông dân Việt
Nam là gắn bó, có tính chất truyền thống cả hai mặt vật chất kinh tế và tinh
thần, có quyền lợi cùng hưởng và khó khăn cùng chịu, họ luôn luôn phấn đấu
vươn lên để vượt qua những cảnh đói nghèo mà họ đã chịu đựng trong bao
nhiêu năm chiến tranh tàn phá. Để nắm bắt các thành tựu khoa học mới áp
dụng vào sản xuất nông nghiệp, họ rất năng động và nhạy bén, luôn biết thích
nghi với mọi hoàn cảnh để hướng đến mục tiêu thoát nghèo và tiến lên làm
giàu cho bản thân và gia đình họ.
Những hạn chế
Kinh tế nông hộ ở Việt Nam là thành phần kinh tế đồng nhất, nhưng đại
bộ phận trong số đó vẫn còn duy trì kinh tế tiểu nông với quy mô sản xuất
nhỏ, sản xuất hàng hoá mới trong giai đoạn phát triển ban đầu, mức sống vẫn
còn thấp và đang có xu hướng tăng dần lên. Song bên cạnh đó ruộng đất là tư
liệu sản xuất chủ yếu, cơ bản của hộ sản xuất nông nghiệp nhưng còn rất
manh mún, nhỏ lẻ, độ phì của đất ngày càng giảm, do quá trình canh tác
người sử dụng đất thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu vốn nên việc đầu tư
thâm canh, phục hồi độ phì của ruộng đất, chưa đủ bù đắp cho sự tiêu hao của

chu kỳ sản xuất làm cho đất ngày càng bạc màu. Mặt khác, do sự manh mún
về ruộng đất nên việc áp dụng cơ giới hoá trong nông nghiệp gặp khó, ảnh
hưởng đến năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh
tế nông hộ nói riêng.
+ Riêng với hộ nông dân ở Quảng Nam, có những yếu tố đặc thù:
Về điều kiện lịch sử, nhân dân Quảng Nam nói chung và nông dân
Quảng Nam nói riêng có truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường,
trong chiến tranh luôn theo Đảng, theo cách mạng chống giặc ngoại xâm xứng
đáng với tám chữ vàng “trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Khi đất
nước được hoà bình thống nhất, cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nông dân Quảng Nam nói riêng cùng với nhân dân Quảng Nam nói
25

×