Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.27 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a - mở đầu
Sau khi đất nớc ta bớc vào công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề sở hữu
đã có sự thay đổi theo chiều hớng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi
ích cho ngời lao động. Với sự tồn tại của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần, quan hệ sở hữu khác nhau ngời lao động có điều kiện tự do sản
xuất, kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo của mình, tìm đợc nơi
làm việc thích ứng với hoàn cảnh sinh sống và năng lực của mình,bảo đảm
cho lợi ích tốt hơn. Kinh tế thị trờng với nhiều thành phần kinh tế, sở hữu quy
định tính chất của các hình thức tổ chức kinh doanh và dựa vào đây để phân
định các thành phần inh tế. Trong bài này em chỉ muốn trình bày vấn đề quan
hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã xác định quan điểm
chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong thời ký quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nớc ta. Những chủ trơng chính sách đó đã đợc cụ thể
hoá và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy cuả Nhà nớc. Đợc thực tiễn
những năm qua kiểm nghiệm. Đồng thời cuộc sống cũng đòi hỏi phải tiếp tục
làm rõ nhiều khía cạnh lý luận và đề ra một hệ thống chính sách cụ thể chung
quanh vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm huy dộng mọi nguồn
lực trong và ngoài nớc, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, vì cuộc
sống ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Xem xét vấn đề "Sở hữu về t liệu sản xuất ở nớc ta" là đi sâu vào
nghiên cứu nhiều đề tài khoa học giúp ích cho việc xây dựng nền kinh tế thị
trờng phát triển theo định hớng XHCN.
Quá trình tiếp cận thông tin cha đợc đầy đủ, đề án này còn nhiều hạn
chế nên em rất mong đợc sự giúp đỡ của thầy giáo.
Em xin trân thành cảm ơn !
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
b - Nội dung
I- Sở hữu về t liệu sản xuất và những nhận thức mới về
sở hữu t liệu sản xuất ở nớc ta hiện nay.


1.1. Lý luận chung về sở hữu
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra rằng, chế độ sở hữu t bản chủ
nghĩa vận động trong sự đối lập giữa hai cực: t bản và lao động. Trong quá
trình phát triển của nền sản xuất xã hội, sự đối lập giữa hai cực này sẽ ngày
càng trở nên gay gắt và đến một giai đoạn nhất định, sự đối lập sẽ phá vỡ
hình thức tồn tại của nó, tức chế độ sở hữu TBCN. Điều này đợc đánh dấu
bằng một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa. Giống nh mọi cuộc cách
mạng xã hội khác, cuộc cách mạng này có nhiệm vụ giải quyết vấn đề chế độ
sở hữu, xoá bỏ chế độ sở hữu cũ, xây dựng chế độ sở hữu mới. Sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa, xoá
bỏ chế độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa.
Lợi ích của giai cấp vô sản gắn liền với sự nghiệp xoá bỏ chế độ t hữu.
Vì chế độ sở hữu TBCN tồn tại trên cơ sở tớc bỏ sở hữu của đại đa số c dân
trong xã hội, nên khi thực hiện sứ mệnh lịch sử củng mình, đem lại lợi ích
cho bản thân mình, giai cấp vô sản cũng đồng thời đem lại lợi ích cho toàn xã
hội. Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của tất cả những ngời lao
động và quần chúng bị bóc lột.
Vấn đề là ở chỗ: giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
nh thế nào, đặc biệt là trong việc giải quyết vấn đề sở hữu - một trong những
nội dung cơ bản của cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa? "Tuyên ngôn"
nhấn mạnh rằng, mục đích của việc xoá bỏ chế độ sở hữu t bản là nhằm tạo
điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy lực lợng sản xuất, xoá bỏ sự tách rời
ngời lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
hơn nữa của lực lợng sản xuất, cung cấp đầy đủ sản phẩm cho mọi ngời trong
xã hội. Với chế độ sở hữu TBCN thì lao động sống phục vụ cho lao động quá
khứ, lao động làm thuê phục vụ cho sự sinh sôi, nảy nở của t bản. Xoá bỏ chế
độ sở hữu TBCN, thiết lập chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa trong đó lao
động quá khứ phục vụ cho lao động sống, "lao động tích luỹ sẽ trở thành ph-
ơng tiện để mở rộng, làm phong phú và làm giảm nhẹ cho quá trình sống của
những ngời lao động".

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh vậy, quá trình xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN không phải là quá trình
phủ định sạch trơn sở hữu, mà là quá trình xoả bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai
cực mà sở hữu vận động trong đó là t bản và lao động.
Đối với t bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội của sở hữu,
xoá bỏ tính chất t sản của sở hữu, xoá bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô dịch
ngời khác.
Đối với ngời lao động, đó là quá trình xoá bỏ tính chất bi thảm của
chiếm hữu. "Tuyên ngôn" khẳng định, những ngời vô sản- những công nhân
làm thuê - chỉ có thể giành đợc những lực lợng sản xuất xã hội bằng cách xoá
bỏ phơng thức chiếm hữ hiện nay của chính họ, thực chất là xoá bỏ "tính chất
bi thảm của cái phơng thức khiến cho ngời công nhân chỉ sống để làm tăng
thêm t bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống
trị đòi hỏi".
Xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN là một quá trình, dựa trên những điều kiện
hiện thực, là kết quả của hoạt động hiện thực.
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản chỉ ra rằng, mặc dù lực lợng sản xuất
xã hội của CNTB hiện đại cha phát triển đến mức có thể sản xuất đủ sản
phẩm cho mọi ngời và khiến cho chế độ t hữu trở thành xiềng xích ngăn cản
sự phát triển của các lực lợng sản xuất đó, thậm chí cho đến ngày nay nó vẫn
còn tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát triển, nhng lực lợng sản xuất
ngày nay đã đợc tạo ra với quy mô lớn cha từng có và có điều kiện để nó tiếp
tục phát triển. Cùng với quá trình đó, sự phân chia giai cấp trở nên sâu sắc
hơn bao giờ hết. Tuyệt đại đa số dân c bị tớc mất hết mọi sở hữu. Lực lợng
sản xuất tập trung trong tay một số ít nhà t sản, của cải của t sản càng tăng thì
quần chúng nhân dân càng lâm vào tình cảnh nghèo đói và không thể chịu
đựng đợc nữa. Lực lợng sản xuất phát triển mạnh mẽ đến mức mà những
quan hệ xã hội cũ không chứa đựng nổi, dẫn đến những chấn động, những
khủng hoảng trong xã hội. Những điều kiện hiện thực đó khiến cho việc xoá

bỏ chế độ sở hữu TBCN trở thành có thể và cần thiết. Tất cả chỉ còn phụ
thuộc vào những hoạt động hiện thực của giai cấp vô sản. Điều này cũng đã
đợc "Tuyên ngôn" nêu lên thông qua việc phân tích những bớc đi cần thiết
trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bớc đầu tiên là giai cấp vô sản phải "làm nổ tung toàn bộ cái thợng tầng
kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phơng" giành lấy
dân chủ, giành lấy chính quyền, biến thành giai cấp thống trị. Sau đó, với
công cụ chính quyền Nhà nớc trong tay, giai cấp vô sản sẽ "từng bớc một"
thực hiện quá trình thay đổi tính chất xã hội của sở hữu, chuyển chế độ sở
hữu t nhân TBCN sang chế độ sở hữu cộng sản chủ nghĩa, "đoạt lấy toàn bộ t
bản trong tay giai cấp t sản, tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong
tay Nhà nớc", để tăng thật nhanh số lợng những lực lợng sản xuất xã hội.
Trong quá trình thực hiện sự chuyển biến chế độ sở hữu, tuỳ theo điều
kiện cụ thể của những nớc khác nhau mà áp dụng những biện pháp khác
nhau, thậm chí "khác nhau rất nhiều".
Nhấn mạnh về khả năng sử dụng những biện pháp linh hoạt, phù hợp
với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đi tới mục tiêu chiến lợc cuối cùng mà
"Tuyên ngôn" ra đời, Ăng-ghen đã viết: "Cho đến nay, xét về đại thể, những
nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tuyên ngôn" này vẫn còn hoàn toàn
đúng. ở chỗ, có một vài chi tiết cần thiết phải xem lại. Chính ngay "Tuyên
ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đơng thời".
Mặc dầu giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng trong tất cả các
giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp t sản, nhng để có thể thực hiện tốt đẹp
sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp này cũng cần phải có một quá trình chuẩn
bị về mọi mặt.
Về mặt nhận thức, giai cấp vô sản cần có một ý thức "hết sức sáng rõ về
sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp t sản và giai cấp vô sản"; phải nhận thức

đợc tính tất yếu, hợp qui luật khách quan của việc xoá bỏ chế độ sở hữu
TBCN; có một niềm tin đầy tinh thần lạc quan cách mạng vào thắng lợi cuối
cùng của cuộc cách mạng vô sản.
Về mặt tổ chức, cần đoàn kết, tập hợp mọi lực lợng có chung lợi ích
trong việc xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN. Trong hoạt động thực tiễn, giai cấp
vô sản cần ủng hộ tất cả các phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và
chính trị hiện hành, luôn luôn "đa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu không
kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào"; trong khi đấu tranh cho những
mục đích và lợi ích trớc mắt, không bao giờ đợc xao lãng mục tiêu cuối cùng
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của cuộc cách mạng; xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu
cộng sản chủ nghĩa - nhân tố cơ bản của chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
150 năm đã trôi qua, tính đúng đắn của những nguyên lý trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản ngày càng đựơc thực tế chứng minh. Chế độ sở hữu
TBCN ngày càng tỏ ra bất lực, không bao chứa nổi lực lợng sản xuất xã hội
ngày càng phát triển nh vũ bão, tình trạng thất nghiệp, phân cực giàu nghèo
quá xa... trong từng nớc t bản. Những vấn đề cấp bách toàn cầu nh nạn đói ở
Châu Phi, tình trạng huỷ hoại môi trờng sinh thái, mối quan hệ bất bình đẳng
giữa các nớc phát triển với các nớc chậm phát triển, cuộc khủng hoảng tiền
tệ, những cuộc chiến tranh kinh tế.... đang đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản
chế độ sở hữ TBCN, thay đổi cả chế độ xã hội t bản. Nguyên lý về tính tất
yếu phải xoá bỏ chế độ sở hữu TBCN, xây dựng chế độ sở hữu cộng sản chủ
nghĩa của "Tuy ngôn" cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
1.2. Sở hữu về t liệu sản xuất ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo
định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các
hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận.
Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý

kiến khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn
đề hết sức phức tạp, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu
trong nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Hơn mời năm đổi mới đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
đã chứng tỏ tính đúngđắn của đờng lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá
các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo toàn dân thực hiện.
Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đơng nhiên phải
bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu -
toàn dân và tập thể - nh quan niệm trớc đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu nh: sở
hữu toàn dân, sở hữu Nhà nớc, sở hữu tập thể , sở hữu cá thể, sở hữu t bản t
nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và t hữu, còn các
hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở
đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phơng thức biểu hiện và trình độ thể
hiện khác nhau. Chúng đợc hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và
tuỳ theo trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và năng lực quản lý.
Về sở hữu toàn dân. ở nớc ta hiện nay, nh Hiến pháp và Luật đất đai đã
qui định rõ: "đất đai thuộc sở hữu toàn dẫn". Xét về mặt kinh tế, đất đai là
phơng tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất
đai là lãnh thổ, là nơi c trú của cả một cộng đồng. Thế nhng, khi xét trên cả
hai phơng diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tợng sở hữu của riêng
ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là t liệu sản xuất, hay nói cách
chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của t liệu sản xuất. Bởi thế, dù
là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hoá, nó vẫn phải vận động theo những
qui luật của thị trờng và chịu sự điều tiết của những qui luật đó.

Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nớc là ngời đại diện sở hữu
và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao đổi quyền cho các hộ nông dân,
kể cả quyền đợc chuyển nhợng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ
thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn
nh ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song ngời nông dân đợc quyền sử
dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực
lợng sản xuất và sự tăng trởng kinh tế nói chung.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đơng nhiên là nó bao gồm
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên
kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hớng có lợi cho
quốc kế dân sinh. Nhà nớc quản lý kinh tế với t cách là cơ quan quyền lực đại
diện cho lợi ích của nhân dân và là ngời đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu
toàn dân.
Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: "Trên cơ sở chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai, ruộng đất đợc giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà n-
ớc qui định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng
đất... Nh vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nớc ta hiện nay đã đợc xác định
theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát
triển kinh tế.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Về sở hữu Nhà nớc. Trong thời kỳ bao cấp trớc đây, không chỉ ở nớc ta,
mà còn ở một số nớc khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thờng đồng nhất
sở hữu Nhà nớc với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn nh vậy mà có một thời
gian khá dài, ngời ta thờng bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nớc, chỉ quan tâm
đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dới hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân đợc gắn
kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã
ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có nh vậy mới có
chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã

trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả.
Trong một xã hội mà Nhà nớc còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân cha có
điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở
hữu Nhà nớc, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn
kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nớc ở nớc ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền
sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nớc.
Về sở hữu tập thể. ở nớc ta trớc đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu
tồn tại dới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tợng sở
hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với
hình thức sở hữu này, quyền mua, bán hoặc chuyển nhợng t liệu sản xuất,
trong thực tế sản xuất và lu thông ở nớc ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền
của các tập thể sản xuất thờng rát hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm
quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu Nhà nớc và với
sở hữu t nhân trá hình cũng là hiện tợng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng
đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trờng hiện nay, theo chúng tôi, phải
xác định quyền mua bán và chuyển nhợng t liệu sản xuất đối với các tập thể
sản xuất, kinh doanh. Chỉ có nh vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành
một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta đều biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trng
cho chủ nghiã, nhng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển
hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, nh V.I.Lênin đã
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khẳng định, "chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội
chủ nghĩa".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản
xuất hàng hoá. Khi lực lợng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ
phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong

điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật
t, tiêu thụ sản phẩm, v.v.. đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới
có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liene kết ngời lao
động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy,
ở nớc ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu
cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trờng. "Hợp tác xã đợc tổ chức trên
cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân
phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền nh nhau
đối với công việc chung". Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu
tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nớc ta hiện nay.
Về sở hữu cá thể. Đa dạng hoá các lực lợng sản xuất là một trong những
cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, bởi nh chúng ta đã rõ, sở hữu biểu
hiện quan hệ của con ngời không chỉ đối với t liệu sản xuất nói riêng mà còn
đối với toàn bộ lực lợng sản xuất nói chung. ở nớc ta, hình thức sở hữu cá thể
tồn tại chủ yếu dới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trớc đây, kinh tế cá thể,
tiểu chủ ở nớc ta chủ yếu có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ
chế quản lý. Hiện nay, nó đang đợc khuyến khích phát triển và đang có xu h-
ớng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với
kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với
hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh
tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của
mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm một vị trí quan trọng trong
nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng nh ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy
nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng
nhóm và từng ngời dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ
rõ: "Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá
thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về
thị trờng tiêu thụ sản phẩm sản phẩm. Hớng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì
lợi ích thiết thất và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bớc đi vào làm ăn
8

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nớc
hay hợp tác xã".
Chúng ta đã biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ, về thực chất, là thành phần
kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t
hữu nhỏ về t liệu sản xuất và lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn đ-
ợc coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở
hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho
một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn
tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó.
Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động của những qui luật
kinh doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để
tác động, hớng dẫn và cải biến nó theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Về sở hữu t bản t nhân. ở nớc ta hiện nay, kinh tế t bản t nhân đang
hình thành và đợc phép phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ
sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần sở hữu t bản t nhân, bao gồm cả doanh nghiệp
của các nhà t sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một sóo
t nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dới hình thức xí nghiệp t
doanh hoặc Công ty cổ phần t nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế t
bản t nhân nớc ngoài đầu t 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế.
Trong thời kỳ quá độ, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa không còn nguyên
vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế t bản t nhân ở nớc ta chỉ hoạt động với t cách là một
thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đợc "bảo hộ
quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp".
Về sở hữu hỗn hợp. Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia
của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình
kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế t bản chủ
nghĩa và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện nền kinh tế thế
giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nớc trên thế giới, trong đó

có nớc ta, thờng có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức
sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể; Nhà n-
ớc, tập thể và t nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động nh: Nhà nớc và
nhân dân; Nhà nớc và tập thể; Nhà nớc, tập thể và t nhân; tập thể và t nhân,
9

×