Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Quản lý hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại NHĐT&PT Việt Nam chi nhánh Quang Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.5 KB, 71 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thế giới năm 2008 có thể nói là một bức tranh ảm đạm ảnh
hưởng tới hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài
những tác động tiêu cực với những biến động mạnh của giá vàng, giá dầu thô, tỷ
giá ngoại tệ diễn biến phức tạp, tăng giảm mạnh, lạm phát gia tăng…Những yếu
tố đó tiếp tục tác động tới hoạt động sản xuất của các DN trong và ngoài nước
năm 2009, hoạt động tín dụng ngân hàng chắc chắn không tránh khỏi những ảnh
hưởng. Nền kinh tế Việt Nam phát triển nhưng chưa hoàn toàn ổn định. Nguy cơ
bệnh dịch, thiên tai vẫn có khả năng xảy ra. Hội nhập kinh tế quốc tế với những
chính sách tự do hóa thương mại trong điều kiện sức cạnh tranh các DN còn yếu
sẽ tiếp tục có những khó khăn đối với nền kinh tế trong nước. Đứng trước tình
trạng lạm phát tăng cao, chịu tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt của Chính
Phủ, hầu hết các DN đều đứng trước nguy cơ thiếu hụt về vốn trầm trọng, nhất
là các DNVVN ( chiếm tới 95% tổng số DN tại Việt Nam, đóng góp hơn 45%
GDP ) thì việc tiếp cận nguồn vốn vay Ngân hàng càng trở nên khó khăn hơn
bao giờ hết. Nhưng hiện nay, NHNN đã thay đổi chính sách nhằm kích cầu,
kích thích các DN mở rộng sản xuất, bằng chính sách hỗ trợ lãi suất ưu đãi cho
các DN, đặc biệt là các DNVVN thông qua các NHTM. Bản thân các NHTM
cũng đang hướng tới mở rộng cho vay đối với DNVVN, làm thay đổi cơ cấu tín
dụng, đồng thời phát triển tiềm năng đem lại lợi nhuận lớn cho NH.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là một trong 5 ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam hiện nay, trong thời gian qua ngân
hàng đã có bước phát triển lớn mạnh không ngừng trên nhiều lĩnh vực, trở thành
một ngân hàng hoạt động kinh doanh hiệu quả nhất trong toàn hệ thống và ngày
càng nâng cao được uy tín, vị thế của mình. Tuy thế mạnh của ngân hàng là cho
vay đối với các DNNN, tài trợ các dự án trung và dài hạn, song kể từ năm 2003
trở lại đây, ngân hàng đang có chính sách tăng dần tỷ trọng cho vay đối với các
DNVVN.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
Trong hệ thống ngân hàng thương mại thì tín dụng đóng vai trò quyết
định tới sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng, tín dụng là chức năng quan
trọng nhất, dịch vụ sinh lời chủ yếu (mang lại khoảng trên 80% lợi nhuận), xong
tín dụng cũng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất của các ngân hàng thương
mại. Vì vậy việc quản lí chặt chẽ tín dụng là mối quan tâm lớn của ban lãnh đạo,
các cấp quản lí và hệ thống điều hành ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng đối với hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng đối với các
DNVVN, trong thời gian thực tập tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh
Quang Trung em đã chọn đề tài: “Quản lý hoạt động tín dụng đối với DNVVN
tại NHĐT&PT Việt Nam chi nhánh Quang Trung” cho chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của mình
Chuyên đề thực tập bao gồm có 3 phần chính:
Chương 1: Lí luận về quản lý tín dụng đối với DNVVN
Chương 2: Thực trạng quản lý tín dụng đối với các DNVVN tại NH
ĐT & PT chi nhánh Quang Trung
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý tín dụng đối với DNVVN tại
NH ĐT & PT chi nhánh Quang Trung
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ TÍN DỤNG DỐI
VỚI DNVVN
1.1 Khái quát về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm về DNVVN
DN là một chủ thể kinh tế có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập và
được tổ chức ra để hoạt động sản xuất kinh doanh ở một lĩnh vực nhất định
nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại hình DN đa dạng và phong phú

trong nền kinh tế, nếu phân loại theo quy mô Doanh nghiệp thì Doanh nghiệp
được chia làm 2 loại hình Doanh nghiệp: Doanh nghiệp lớn và DNVVN.
Theo quy định tại điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về
trợ giúp phát triển DNVVN thì “DNVVN là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Theo như định nghĩa trên thì DNVVN không phải là một khối DN thuần
nhất. Các DN này khá khác biệt về số luợng lao động cũng như năng lực tài
chính, công nghệ và quản lý. Các số liệu thống kê mô tả tình trạng DNVVN Việt
Nam dưới đây sử dụng cách phân loại DN dự kiến dựa trên số lượng nhân công
như sau:
DN siêu nhỏ : < 10 lao động
DN nhỏ: 10 – 49 lao động
DN vừa: 50 – 299 lao động
DN lớn: > 300 lao động
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
1.1.2. Nhu cầu vốn của DNVVN
Bất cứ một DN nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có sự hỗ trợ
vốn của NH, đặc biệt là với các DNVVN vì đặc điểm của loại hình DN này là
quy mô về vốn hết sức nhỏ bé. Nhờ vốn của NH mà DN có thể tự chủ trong việc
sản xuất kinh doanh và có khả năng chống chịu truớc những biến động của thị
trường. Vì vậy nhu cầu vốn là một điều kiện không thể thiếu của DNVVN.
1.1.3. Đặc điểm của DNVVN
- DNVVN Năng động, linh hoạt: do quy mô nhỏ nên các DN này rất cơ
động, linh hoạt, dễ chuyển hướng kinh doanh, có khả năng tiếp cận và đáp ứng
với những nhu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực tốt hơn là nhũng DN lớn, Sẵn sàng
đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao
- DNVVN có thể tiếp cận, thích ứng công nghệ hiện đại: do quy mô

doanh nghiệp nhỏ nên dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, tuy
nhiên các DN này có quy mô nhỏ, vốn ít nên cũng có mặt bất lợi trong đầu tư
công nghệ mới đặc biệt là công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, từ đó ảnh huởng tới
năng suất, chất lượng và hiệu quả, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường
- DNVVN có tổ chức sản xuất quản lý gọn nhẹ, hợp lý, không cồng kềnh,
dễ kiểm soát. Số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ
máy quản lý trong các DNVVN tương đối gọn, không có nhiều khâu trung gian
làm tăng hiệu quả hoạt động DN. Các quyết định về chế độ, chỉ tiêu… đến với
người lao động cũng nhanh chóng vì vậy công tác kiểm tra giám sát tiến hành
thuận lợi, không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm được thời gian, chi
phí quản lý DN. Tuy nhiên cũng có nhiều hạn chế về đào tạo công nhân và chủ
DN, đầu tư cho nghiên cứu…Do đó khó nâng cao năng suất và hiệu quả kinh
doanh
- DNVVN có vốn chủ sở hữu tương đối nhỏ: Theo thống kê kinh tế số
lượng DNVVN chiếm khoảng 97% trên tổng số DN cả nước, nhưng số vốn đăng
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
ký của caca DN chỉ chiếm khoảng 50% trên tổng số vốn kinh doanh của các DN cả
nước. Trong đó có 40% các DNVVN có số vốn dưới 5 tỷ đồng là DN ở quy mô
nhỏ
1.1.4. Vai trò của DNVVN
- DNVVN đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân và nguồn thu
ngân sách Nhà Nước. Trong những năm qua, với sự phát triển nhanh chóng cả
về số lượng và chất lượng, DNVVN đã đóng góp dáng kể vào sản lượng quốc
gia cũng như nguồn thu ngân sách cả Trung Ương và địa phương. Ngoài đóng
góp vào ngân sách, DN và các hiệp hội còn tích cực tham gia đóng góp xây
dựng các công trình văn hóa, trường học…
- Tạo việc làm, thu nhập cho người lao động: Theo ước tính, DNVVN tạo
ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 – 26% lực

lượng lao động cả nước. Theo báo cáo thống kê riêng khu vực DN không tính
các hộ kinh doanh cá thể, mỗi năm thu hút trên dưới 45 vạn lao động với mức
thu nhập bình quân 1,05 triệu đồng/ tháng. Ngoài ra khu vực hộ kinh doanh cá
thể mỗi năm tăng thêm từ 12- 15 vạn cơ sở, thu hút thêm gần 40 vạn lao động
với mức thu nhập bình quân từ 350.000-500.000 đồng / tháng. Tiềm năng to lớn
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ
thất nhiệp và ổn định xã hội hiện nay.
-Thu hút vốn: Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò
rất quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng DN.
Tuy nhiên hiện nay có một nghịch lý là các DN thiếu vốn trầm trọng trong khi
đó vốn trong dân còn tiềm ẩn nhưng không huy động được. Trong trường hợp
đó chính các DNVVN là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay, gây được
niềm tin nên có thể huy động được vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư
kinh doanh
- Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
Do số lượng các DN tăng lên rất lớn, nên làm tăng tính cạnh tranh, giảm
bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại
hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra các DNVVN có khả năng thay đổi
mặt hàng, công nghệ và chuyển đổi hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh
tế năng động hơn. Một điều quan trọng là vốn của các DNVVN trong đó phần
lớn là khu vực tư nhân, chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh
tế cao. Do vậy việc tăng các cơ sở này làm cho hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân: Việc phát triển các DN
sản xuất các ngành ghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong
những hướng quan trọng để sử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà
hiện đang có xu hướng bị mai một dần, thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi
thế của từng vùng để phát triển kinh tế

- Đa dạng hóa và tăng thu nhập của dân cư: Việt Nam là một nước nông
nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp.
Thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp nông
thôn. Việc phát triển các DNVVN ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương
hướng cơ bản nhằm tăng năng suất, tăng thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của
dân cư.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Việc phát triển các DNVVN có ý
nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở ông thôn, xóa dần tình
trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa
sự phát triển mạnh các DNVVN làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
1.2. Lý luận chung về Tín dụng NH
1.2.1. Khái niệm tín dụng NH
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy, tùy theo
góc độ nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
 Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là
phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
 Trong một quan hệ tài chính cụ thể thì tín dụng là một giao dịch về
tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
 Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài
chính cung cấp cho khách hàng.
 Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín
dụng được hiểu như sau: tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền
hoặc hàng hóa ) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô

điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các NH nói riêng và của các
trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo
thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
Theo luật tổ chức tín dụng Việt Nam thì: “Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho tổ chức cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định
của NHNN”. Như vậy, tín dụng NH không chỉ đơn thuần là hoạt động cho vay
mà còn các hình thức chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài sản…
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng 3 nội
dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
1.2.2. Phân loại tín dụng NH
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau tùy theo
những tiêu thức phân loại khác nhau.
- Phân loại theo hình thức cấp tín dụng: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo
lãnh và cho thuê
+ Chiết khấu thương phiếu là việc NH ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của NH để sở hữu
một thương phiếu chưa đến hạn.
+ Cho vay là việc NH đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xấ định.
+ Bảo lãnh là việc NH cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình.

+ Cho thuê là việc NH bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho NH.
- Phân theo thời gian (thời hạn tín dụng): Phân chia theo thời gian có ý
nghĩa quan trọng đối với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và
khả năng sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.
Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm
Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm
- Phân loại theo rủi ro: NH cần nghiên cứu các căn cứ, các mức độ để chia
loại rủi ro. Một số NH lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ
thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay,
bảo lãnh, chứng khoán.Cách phân loại này giúp NH thường xuyên đánh giá lại
tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho
phép NH có được nguồn thu nợ thứ 2 bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể được phân chia thành
tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế
chấp cầm cố tài sản.
1.2.3. Các nghiệp vụ tín dụng
1.2.3.1. Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu
hàng hóa và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán có thể giữ thương
phiếu đến hạn để đòi tiền người mua hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết
khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu
và lệ phí chiết khấu. Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu, ngân hàng có thể yêu

cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí chiết khấu đối với trường hợp cụ thể có
liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền.Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn
giản, dựa trên sự tín nhiệm của ngân hàng và những người kí tên trên thương
phiếu.Do tối thiểu có 2 người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của
thương phiếu tương đối cao.
1.2.3.2. Cho vay
- Phương thức cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay nhiều lần
cách biệt nhau đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên và chỉ vay
trong trường hợp cần thiết để vốn NH tham gia vào một giai đoạn nhất định của
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi cần vay vốn, khách hàng làm đơn và trình NH
phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho
vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu
cầu bảo đảm. Số lượng tín dụng cấp từng lần sẽ căn cứ vào tỷ lệ so với tài sản
đảm bảo hoặc nhu cầu vay vốn của DN. Cụ thể:
Số luợng cho vay = nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh – Vốn
chủ sở hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia
Nếu cho vay theo giá trị tài sản đảm bảo:
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo * Tỷ lệ cho vay trên tài sản
đảm bảo
Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo do từng NH cụ thể qui định phù
hợp với qui định của NH Nhà Nước. Với hình thức này NH có thể kiểm soát
từng món vay cụ thể, và trong quá trình vay NH sẽ kiểm soát mục đích và hiệu
quả sử dụng vốn, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng NH sẽ thu nợ trước
hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn.
-Phương thức cho vay theo hạn mức: Đây là hình thức cho vay theo đó
NH thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng
được cấp tren cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay

vốn của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
+ Cho vay trong hạn mức: Số dư nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức. Khách
hàng có thể vay trả nhiều lần trong kỳ nhưng dư nợ không vượt quá hạn mức.
+ Cho vay ngoài hạn mức: Số dư > hạn mức. NH quy định hạn mức tín
dụng cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức nhưng đến cuối kỳ khách
hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức.
Mỗi lần khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi
kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, NH sẽ phát tiền vay cho
khách hàng. Khi khách hàng có thu nhập NH sẽ thu nợ.
- Phương thức cho vay luân chuyển: Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay
dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Khi mua hàng DN có thể thiếu vốn,
do đó NH có thể cho vay để DN mua hàng, sau đó tiền bán hàng là nguồn trả
nợ cho NH. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển.
NH cùng với khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Khi vay, khách
hàng chỉ cần gửi đến NH các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
NH cho vay và trả tiền cho người bán. Các khoản phải thu và cả hàng hóa
trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Các NH thường áp dụng
phương thức này đối với DN thương nghiệp hoặc DN sản xuất có chu kỳ tiêu
thụ ngắn ngày, có quan hệ chi trả thường xuyên với NH.
- Phương thức cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó NH cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho
vay trả góp thường đựợc áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài
hạn, tài trợ cho tái sản cố định hoặc hàng tiêu dùng lâu bền. Số tiền mỗi lần
trả được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ.
- Phương thức cho vay theo hạn mức thấu chi: là hình thức cho vay qua đó

NH cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của
mình đến một giới hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi) và trong khoảng
thời gian xác định. Để được vay thấu chi khách hàng làm đơn xin NH hạn
mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong thời gian thấu chi khách hàng có
thể kí séc, lập ủy nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả nhưng không
được vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản
tiền gửi NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn mức thấu
chi thì sẽ bị phạt và đình chỉ sử dụng hình thức này.
- Phương thức cho vay hợp vốn: phương thức trong đó NH cùng với một số
tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh của tổ chức tín dụng khác thực hiện việc
cho vay một hoặc một phần dự án, phương án, trong đó NH có thể là tổ
chức đầu mối hoặc thành viên cho vay hợp vốn.
- Phương thức cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức tài trợ của NH cho
khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dich vụ. Phương thức này thường áp dụng cho những dự án có nhu
cầu vốn lớn.
- Các phương thức khác: Tùy theo nhu cầu của từng khách hàng và thực tế
phát sinh, NH sẽ xem xét cho vay theo các phương thức khác phù hợp với đặc
điểm hoạt động trong cùng thời kỳ và không trái với quy định của pháp luật.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
1.2.3.3. Cho thuê tài sản
Cho thuê của NH thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân
hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu
gần đủ hoặc đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lại. Hết hạn thuê, khách hàng có
thể mua lại tài sản đó. Cho thuê giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ
ngân hàng phải xuất tiền với lỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định,
khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kỳ. Ngân hàng
cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả

không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên cho thuê có nhiều đặc
điểm khác cho vay như tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, ngân
hàng có thể thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng
thời ngân hàng cũng phải có trách nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho
khách và phải bảo đảm về chất lượng của tài sản đó
1.2.3.4. Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3
bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của
ngân hàng có nghĩa là ngân hàng là bên bảo lãnh, khách hàng của ngân hàng là
bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh là bên thứ 3.
Các loại bảo lãnh phân theo mục tiêu gồm:
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền tứng trước
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán
1.2.4. Vai trò của tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo các quy
luật khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh....
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
Các doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường thì cần phải có vốn
để đầu tư và tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn tối ưu để doanh
nghiệp có thể khai thác. Các doanh nghiệp phát triển cũng có nghĩa là nền kinh
tế phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế và góp phần điều hành nền kinh tế thị trường. Vai trò của tín
dụng ngân hàng được thể hiện trên các khía cạnh sau:

- Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở
hữu và vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn tài
trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn nữa,
để có thể vay vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy
tín của mình đối với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn
vậy, trong các dự án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải chọn dự án có
mức sinh lãi cao nhất. Để các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị
trường khai thác thông tin để định lượng hoạt động kinh doanh của mình sao
cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả kinh tế của dự án, phương án.
Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu
giám sát sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc
doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những
thay đổi của thị trường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó,
vai trò tư vấn của cán bộ tín dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được
những khó khăn, vượt qua khó khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần
nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Thứ hai: Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục
của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo cơ
chế phân phối vốn một cách có hiệu quả.
Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh
trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu
vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm
từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách... được ngân hàng thương mại huy động
và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu

cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu
chi của ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho
vay các dự án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên
một cơ chế phân phối vốn hiệu quả.
- Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế và các
chính sách tiền tệ.
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngân hàng thương mại là khả
năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn
tăng khối lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể tăng hạn mức tín
dụng của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy
thông qua hình thức tín dụng ngân hàng nhà nước có thể kiểm soát được khối
lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
- Thứ tư: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối
quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trước xu thế quốc tế hoá, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn được
đặt ra. Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua
bán với các thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có những quan hệ xuất
nhập khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngân hàng thương mại có thể thúc
đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay... đối với các doanh
nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Để đánh giá hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại có tốt hay
không, cần xem xét chất lượng tín dụng.
1.3. Quá trình quản lý tín dụng đối với DNVVN tại các NH thương mại
1.3.1. Khái niệm quản lý

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể hiểu:
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản lý có phạm vi hoạt động rộng xong chủ yếu làm 3 dạng chính:
 Quản lý giới vô sinh: nhà xưởng, hầm mỏ, máy móc thiết bị, nhà
xưởng…
 Quản lý xã hội loài người: Đảng, đoàn thể, nhà nước, doanh
nghiệp, gia đình…
 Quản lý giới sinh vật: vật nuôi, cây trồng…
Tất cả các dạng quản lý đều mang những đặc điểm chung sau đây:
- Để quản lý được một hệ tồn tại của quản lý bao gồm cả hai phân hệ: chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động
quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Chủ thể có thể là một
người, một bộ máy quản lý gồm nhiều người nhiều thiết bị. Đối tượng quản lý
tiếp nhận tác động của chủ thể quản lý. Đây có thể là những yếu tố thuộc giới vô
sinh, giới sinh vật hoặc con người.
- Phải có một tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và đối tượng
quản lý. Đạt mục đích tốt nhất trong hoàn cảnh môi trường luôn biến động và
nguồn lực hạn chế luôn là lý do của quản lý. Đó cũng là căn cứ quan trọng nhất
để chủ thể quản lý tiến hành các dạng quản lý.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
- Quản lý liên quan đến việc trao đổi thông tin nhiều chiều. Quản lý là một
quá trình thông tin. Chủ thể quản lý luôn thu thập thông tin về môi trường, về hệ
thống, tiến hành chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, bảo quản thông tin, truyền
tin và ra các quyết định- một dạng thông tin đặc biệt nhằm tác động lên các đối
tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý tiếp nhận các thông tin quản lý của chủ
thể cùng các đảm bảo vật chất khác để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
mình.

- Quản lý có khả năng thích nghi: đứng trước những thay đổi của đối tượng
quản lý cũng như môi trường cả về quy mô lẫn mức độ phức tạp, chủ thể quản lý
không chịu bó tay mà vẫn tiếp tục quản lý có hiệu quả thông qua việc điều
chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và hoạt động của mình.
1.3.2. Quá trình quản lý tín dụng đối với các DNVVN tại các NH Thương mại
Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu thu lời, như vậy, mục tiêu an toàn
và sinh lời vẫn là mục tiêu chính trong quản lý tín dụng. Quản lý tín dụng đối
với DNVVN nói riêng và đối với các khách hàng nói chung đều nhằm mục tiêu
an toàn và sinh lời và phải Quản lý ngay từ khâu ban đầu của quy trình cấp tín
dụng.
1.3.2.1. Tăng qui mô tín dụng
Theo dự tính hoạt động tín dụng phụ thuộc vào quy mô, thời gian và lãi
xuất, cả ba yếu tố này có mối liên hệ khăng khít. Ngân hàng sử dụng mọi nỗ lực
của mình để tăng quy mô tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm gia tăng tiện
ích cho khách, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi…các biện pháp
này một mặt làm tăng quy mô, song mặt khác cũng làm tăng chi phí. Ngân hàng
phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ giữa các biện pháp tăng quy mô với thu
nhập ròng từ hoạt động tín dụng thông qua chênh lệch lãi suất biên. Mối quan hệ
này cho phép ngân hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ khác với
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
khách hàng lớn, quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường.
1.3.2.2. Quản lí rủi ro tín dụng
-Tổn thất nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ
hoặc phá sản cho ngân hàng. Do vậy an toàn tín dụng là nội dung chính tỏng
quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại. Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và
sinh lời trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ mối quan hệ có thể là: rủi ro
càng cao, sinh lời kì vọng càng lớn; cho vay trung và dài hạn, cho vay tiêu

dùng…rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa sẽ cao hơn sẽ cao hơn so với lãi
suất cho vay ngắn hạn, hoặc lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp…Tuy nhiên,
sau khi tài trợ quan hệ đó lại là tổn thất càng cao thì sinh lời càng thấp. Ngân
hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn,
song đều phải xác lập mối liên hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu
nhập cho chủ sở hữu trong dài hạn.
Ngân hàng thường phân loại rủi ro tín dụng dựa trên thống kê kinh
nghiệm và phân tích các điều kiện thị trường. Phân loại này cho phép nhà quản
lý xác định các tỷ lệ rủi ro liên quan đến từng nhóm khách hàng, các nguyên
nhân gây rủi ro và môi trường nảy sinh rủi ro. Phân loại cũng giúp các nhà quản
lý xác định các phép đo rủi ro tín dụng một cách hợp lý và ngưỡng rủi ro mà
ngân hàng có thể chấp nhận.
Nghiên cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết bù
đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng.
Xây dựng quy trình phân tích tín dụng và phổ biến rộng rãi quy trình đó cho mọi
khách hàng sẽ góp phần làm cho khách hàng hiểu yêu cầu và nội dung công việc
của ngân hàng khi tài trợ. Thiết lập các quỹ và các hợp đồng tài chính nhằm bù
đắp tổn thất xảy ra, thiết lập các quỹ và các hợp đồng tài chính nhằm bù đắp tổn
thất xảy ra, thiết lập các rang buộc pháp lý giữa ngân hàng và khách hàng, giữa
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
ngân hàng với cán bộ tín dụng là biện pháp mà các ngân hàng đang hướng tới
trong môi trường rủi ro đang ngày càng gia tăng.
Dự phòng là biện pháp nhiều ngân hàng áp dụng để ước lượng giá trị các
khoản cho vay có khả năng thu hồi. Dự phòng có thể được coi như tài sản đối
ứung khi ngân hàng cho vay.
Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng tín dụng
Dự phòng tín dụng làm giảm vốn của chủ. Ngân hàng phải tính toán sao
cho thu nhập ròng sau thuế và trích lập dự phòng tổn thất đủ để tăng vốn của chủ

sau khi lập dự phòng tổn thất.
Các khoản nợ, nếu được xác định là nợ quá hạn, lãi tích lũy trên tài khoản
thu lãi phải bị loại khỏi thu lãi cho đến khi khoản thu lãi đựơc thực hiện. Do vậy,
tỷ lệ sinh lời từ hoạt động tín dụng thường nhỏ hơn lãi suất cho vay.
- Với quy mô như vậy, tín dụng ảnh hưởng rất nhiều tới chiến lược hoạt động
của ngân hàng như Dự trữ, vay, đầu tư…Khi chứng khoán thanh khoản chưa
có hoặc khan hiếm, hoặc khi khả năng gai tăng huy động bị hạn chế, nhiều
ngân hàng phải sử dụng tín dụng như tài sản đảm bảo thanh khoản. Ngân
hàng thường nghiêng về nắm giữ các khoản tín dụng ngắn hạn, hoặc các
khoản tín dụng có thể chuyển đổi nhanh. Chiết khấu thương phiếu có chất
lượng cho phép ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu. Các khoản vay 3
tháng nhanh chóng sẽ được thu hồi để đáp ứng nhu cầu chi trả. Trong điều
kiện ngân hàng chuyển hoán kì hạn của nguồn, việc thu nợ nhiều lần trong kì
sẽ góp phần tăng tính thanh khoản của khỏan vay.
1.3.2.3. Quy trình tín dụng:
Tín dụng là hoạt động sinh lời nhất, song rủi ro cao nhất cho NHTM.
Quản lý tín dụng phải được kết hợp sao cho hoạt động quản lý trong nội bộ NH
phải thực sự là một quá trình thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau. Sự phối hợp hiệu quả
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
sẽ giúp tối đa hóa thu nhập của NH đồng thời giúp kiểm soát chặt chẽ các rủi ro
mà NH phải đối mặt. Vì vậy hoạt động quản lý tín dụng đòi hỏi phải quản lý
theo quy trình tín dụng. Việc xây dựng các quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý, nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng
cao doanh lợi.
Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc xây dựng một mô hình tổ chức
thích hợp tại ngân hàng. Trong đó nhiệm vụ các phòng, ban, bộ phận chức năng
được xác định rõ ràng các công việc. Việc liên quan đến hoạt động cho vay từ
đó làm cơ sở cho phân công trách nhiệm ở từng vị trí. Hơn nữa với mục tiêu này

công tác quản trị nhân sự tại ngân hàng sẽ được điều chỉnh kịp thời cho hợp lý
và hiệu quả nhất.
Dựa vào quy trình tín dụng, ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành chính
cho phù hợp với những quy định của Luật pháp và đảm bảo mục tiêu an toàn
trong kinh doanh. Thiết kế các khoản cho vay phải thích hợp với từng nhóm
khách hàng, từng loại cho vay cũng như kỹ thuật tín dụng nhằm cung cấp đầy đủ
các thông tín cần thiết, nhưng không gây phiền hà cho khách hàng, cũng như tiết
kiệm thời gian cho cả 2 bên.
Quy trình tín dụng nhằm hướng dẫn việc thực hiện thống nhất những
nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
Quy trình tín dụng kiểm soát tiến trình cấp tín dụng và điều chỉnh chính
sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn.
Thông qua kiểm soát thực hiện quy trình tín dụng nhà quản trị ngân hàng
nhanh chóng xác định những khâu, những công việc cần điều chỉnh, cũng như
hướng đào tạo và phân công tương lai, từ đó kiểm soát được những rủi ro khi
cấp tín dụng.
Một quy trình tín dụng thì gồm các bước:
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
- Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
- Phân tích tín dụng
- Quyết định tín dụng
- Giải ngân
- Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng.
 Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng: Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu
tiên của quy trình tín dụng, nó được thực hiện ngay sau khi cán bộ tín
dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Lập hồ sơ tín dụng là
khâu quan trọng vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực hiện
các khâu sau, đặc biệt là khâu phân tích và ra quyết định cho vay. Tùy

theo quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, loại tín dụng yêu cầu và quy
mô tín dụng, cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những
thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung, một bộ hồ sơ đề nghị cấp tín
dụng cần thu thập từ khách hàng những thông tin sau:
- Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách
hàng.
- Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng.
- Thông tin về bảo đảm tín dụng.
Để thu thập được những thông tin căn bản như trên, ngân hàng thường
yêu cầu khách hàng phải lập và nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
- Giấy đề nghị vay vốn.
- Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như
giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
- Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
- Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất
- Các giấy tờ có liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo
lãnh nợ vay.
- Các giấy tờ có liên quan khác nếu cần thiết.
 Phân tích tín dụng:
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách
hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay
cả gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có
thể dẫn đến rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại
có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính
chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái
độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay.
 Quyết định và ký hợp đồng tín dụng:

Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một
hồ sơ vay vốn cảu khách hàng. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình
tín dụng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng lớn đến uy tín
và hiệu qủa hoạt động tín dụng của ngân hàng. Có hai loại sai lầm cơ bản
thường xảy ra trong khâu này:
- Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt.
- Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt.
Cả hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho ngân
hàng. Loại sai lầm thứ nhất dẽ dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc nợ không
thể thu hồi, tức là thiệt hại về tài chính. Loại sai lầm thứ hai dễ dẫn đến thiệt hại
về uy tín và mất cơ hội cho vay.
Nhằm hạn chế sai lầm, trong khâu quyết định tín dụng các ngân
hàng thường chú trọng hai vấn đề đó là:
- Thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở để
ra quyết định.
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
- Trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những người có
năng lực phân tích và phán quyết.
 Cơ sở để ra quyết định tín dụng
Cơ sở để ra quyết định tín dụng trước hết dựa vào thông tin thu
thập và xử lý từ hồ sơ tín dụng, do giai đoạn trước chuyển sang. Kế đến, dựa
vào những thông tin khác hoặc thông tin cập nhật hóa có liên quan, thông tin
đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau đã được cập nhật hóa, đặc biệt là các thông
tin đáng tin cậy từ các công ty nghiên cứu thị trường có uy tín, chẳng hạn như
thông tin cập nhật về tình hình htị trường, chính sách tín dụng của ngân hàng,
các quy định về hoạt động tín dụng của Ngân Hàng Nhà Nước, nguồn vốn cho
vay của ngân hàng, kết quả thẩm định các hình thức bảo đảm nợ vay.
 Quyền phán quyết tín dụng

Tùy theo quy mô vốn vay lớn hay nhỏ quyền phán quyết thường được
trao cho một hội đồng tín dụng hay một cá nhân phụ trách. Hội đồng tín dụng
bao gồm những người những người có quyền hạn và trách nhiệm quan trọng
trong ngân hàng, thường phán quyết những hồ sơ vay vốn có quy mô lớn trong
khi quyền phán quyết các hồ sơ vay có quy mô nhỏ thường được trao cho các
cá nhân phụ trách.
Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả có thể là chấp thuận hoặc từ chối
cho vay, tùy vào kết quả phân tích và thẩm định ở khâu trước. Nếu chấp thuận
cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng và
làm tiếp các bước tiếp theo. Nếu từ chối cho vay, ngân hàng sẽ có văn bản trả
lời và giải thích lý do cho khách hàng được rõ.
 Giải ngân
Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết. Giải
ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong
hợp đồng. Tuy là khâu tiếo theo sau của quyết định tín dụng, nhưng giải ngân
cũng là khâu quan trọng vì nó có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời
nếu có sai sót ở các khâu trước. Ngoài ra cách thức giải ngân còn góp phần
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích cam
kết hay không. Nguyên tắc giải ngân là luôn gắn liền với hoạt động tiền tệ với
vận động hàng hóa và dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau
này.
 Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng nhằm mục tiêu bảo đảm cho
tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng,
phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả
năng thu hồi nợ sau này.
Thanh lý hợp đồng tín dụng có thể xảy ra do khách hàng vi phạm hợp

đồng hoặc do khoản vay đã đến hạn. Đây là khâu kết thúc của quy trình tín
dụng. Khâu này gồm các việc quan trọng cần xử lý:
- Thu nợ cả gốc và lãi
- Tái xét hợp đồng tín dụng
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
Thu nợ: Ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều
khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Tùy theo tính chất của khoản vay và
tình hình tài chính của khách hàng, hai bên có thể thỏa thuận và lựa chọn một
trong những hình thức thu nợ sau:
- Thu nợ gốc và lãi một lần khi đáo hạn
- Thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi theo định kỳ
- Thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn.
Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân
hàng có thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có
biện pháp xử lý thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
1.3.2.4. Bảo đảm tín dụng
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi
ro. Mặc dù trước khi cho vay, ngân hàng đã trải qua các khâu thu thập thông
tin, xử lý, phân tích và thẩm định kỹ khả năng trả nợ của khách hàng nhưng vẫn
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
chưa thể nào loại bỏ được rủi ro tín dụng. Do vậy, bảo đảm tiền vay có thể sử
dụng như một trong những cách thức tham gia tăng khả năng thu hồi nợ và
giảm thiểu rủi ro tín dụng. Bảo đảm tín dụng hay còn được gọi là bảo đảm tiền
vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro,tạo
cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay.
 Các hình thức bảo đảm tín dụng
Bảo đảm tín dụng nói chung có thể thực hiện bằng nhiều cách, bao gồm
bảo đảm bằng tài sản thế chấp, bảo đảm bằng tài sản cầm cố, bảo đảm tài sản

hình thành từ vốn vay, và bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ 3.
 Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp: Bảo đảm tài sản tín dụng
bằng tài sản thế chấp là việc bên vay vốn thế chấp tài sản của mình
cho bên cho vay để bảo đảm khả năng hoàn trả vốn vay. Thế chấp
tài sản là việc bên di vay sử dụng bất động sản thuộc sở hữu của
mình hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để bảo đảm, thực
hiện nghĩa vụ đối với bên cho vay.
 Bảo đảm tín dụng bằng tài sản cầm cố: Cầm cố tài sản là việc bên
đi vay giao tài sản là các động sản thuộc sở hữu của mình cho bên
cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Động sản cầm cố có
thể là loại không cần đăng ký quyền sở hữu, có loại cần đăng ký
quyền sở hữu. Đối với loại tài sản không cần đăng ký quyền sở hữu
khi cầm cố tài sản phải được nộp cho bên cho vay. Đối với tài sản
có đăng ký sở hữu khi cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên cầm
cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cho bên thứ 3 giữ.
 Bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay: Tài sản hình thành từ vốn
vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo ra bởi
một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của ngân hàng. Bảo đảm tiền
vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách hàng vay dùng
tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho chính khoản vay đó đối với ngân hàng. Bảo đảm tiền vay bằng
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân
tài sản hình thành từ vốn vay được sử dụng trong các trườnghợp
sau đây:
- Trường hợp chính phủ, thủ tướng chính phủ quyết định giao cho ngân
hàng cho vay đối với khách hàng và đối tượng vay.
- Ngân hàng cho vay trung hạn, dài hạn với các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình

thành từ vốn vay.
 Bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh: Bảo lãnh là việc bên thứ
3 cam kết với bên cho vay sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi
vay. Nếu khi đến hạn mà người thực hiện bảo lãnh không thực hiện
hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bảo lãnh có thể chia làm
2 loại chính: Bảo lãnh bằng tài sản và bảo lãnh bằng tín chấp.
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3 là việc bên thứ 3 ( gọi là bên bảo
lãnh ) cam kết với bên cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình
để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên đi vay, nếu đến hạn trả nợ mà bên đi
vay không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
- Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội là biện
pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị xã hội bằng uy tín của mình bảo lãnh cho
bên đi vay
SV: Phạm Thị Hương Quản Lý Công 47
25

×