Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.98 KB, 176 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty là kết quả của một trong những phơng thức liên kết thông
qua con đờng góp vốn của nhiều chủ đầu t với mục đích tìm kiếm lợi nhuận
trong hoạt động kinh doanh. Thực tiễn ở nớc ta, công ty đã và đang trở
thành loại hình thức doanh nghiệp phổ biến và ngày càng đợc a chuộng trên
thơng trờng kinh doanh. Chính từ vai trò, vị trí của công ty trong đời sống
kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật tơng ứng đối với sự
ra đời, tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này.
Ngày 21/12/1990, Quốc hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Công ty và ngày 22/6/1994,
Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 5 đã sửa đổi một số điều khoản của Luật
Công ty ngày 21/12/1990.
Sự ra đời của Luật Công ty đã tạo ra những cơ sở pháp lý cho các
quan hệ liên kết, hùn vốn kinh doanh theo hình thức công ty. Đó là những
cơ sở pháp lý để bảo đảm an toàn cho ngời có vốn yên tâm góp vốn đầu t
kinh doanh. Hơn tám năm thi hành Luật Công ty đã có gần 10.000 công ty
trách nhiệm hữu hạn, 223 công ty cổ phần đợc thành lập và đi vào hoạt
động với tổng số vốn điều lệ lên đến 12 ngàn tỷ đồng, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nớc.
Mặc dù Luật Công ty đã qua một lần sửa đổi nhng với tốc độ phát
triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trờng thì hệ thống pháp luật về công
ty đã bộc lộ những hạn chế, bất cập so với yêu cầu của thực tiễn hoạt động
công ty. Một trong những bất cập đó là việc điều chỉnh pháp luật đối với
quan hệ sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Chẳng hạn, Điều 8 Luật công ty
1990 quy định: "Thành viên công ty có quyền sở hữu một phần tài sản của
5
công ty tơng ứng phần vốn góp" là không chính xác, đã làm cho sự nhận
thức bị sai lệch trong quá trình áp dụng pháp luật về quan hệ giữa thành
viên và công ty đối với tài sản của công ty. Quy định đó, đã gây ra không ít
khó khăn, vớng mắc trong việc thực hiện và bảo vệ lợi ích của thành viên


tham gia công ty và hoạt động công ty. Tháo gỡ khó khăn vớng mắc này là
một trong những mục đích ra đời của Luật Doanh nghiệp - đợc Quốc hội
khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2000. Sau một năm thi hành Luật Doanh nghiệp, gần 13.500
doanh nghiệp đợc thành lập, tạo thêm 300.000 chỗ lao động, huy động
khoảng 1 tỷ USD vốn nhàn rỗi trong dân vào kinh doanh.
Công ty đối vốn là những công ty mà sự liên kết chủ yếu dựa trên
phần vốn góp của các thành viên tham. Đặc điểm quan trọng nhất của loại
hình công ty này là công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty bằng tài sản của công ty. Các thành viên tham gia công ty chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trong khoản vốn mà họ đã góp vào công ty. Công ty đối vốn
tồn tại dới hai dạng cơ bản là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Trong những chế định pháp luật về công ty, quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn là một trong những chế định trung tâm chi phối toàn bộ
quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và chấm dứt hoạt động của công ty
đối vốn trên thực tế. Nghiên cứu chế định quyền sở hữu tài sản của công ty
đối vốn sẽ góp phần làm rõ các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan
hệ liên kết, hùn vốn theo hình thức công ty đối vốn cũng nh góp phần xác
lập một hệ thống hình thức pháp lý thích hợp về các mối quan hệ trong nội
bộ công ty, các quan hệ giữa công ty với bên thứ ba cả về lý luận và thực
tiễn của hoạt động công ty.
Nghiên cứu sự điều chỉnh pháp luật đối với quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn không chỉ đặt ra đối với các nhà doanh nghiệp mà còn là
một nhu cầu cấp thiết đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành hệ thống
6
hóa pháp luật, cả đối với cán bộ quản lý kinh tế, các nhà khoa học v.v Đề
tài "Xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối
vốn ở nớc ta" đợc nghiên cứu nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu mà
lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trên thế giới, công ty và việc nghiên cứu về công ty đã có từ lâu và
ở nhiều mức độ khác nhau. ở nớc ta, vấn đề "quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn ở Việt Nam" vẫn còn là vấn đề phức tạp và nan giải đối với
việc nghiên cứu về công ty cả về lý luận và thực tiễn.
Trong điều kiện nớc ta mới bớc sang nền kinh tế thị trờng, hoạt
động công ty và nghiên cứu về công ty là một vấn đề còn nhiều mới mẻ. Vì
vậy, trong những phạm vi và mức độ nhất định cũng mới có một số công
trình khoa học của một số tác giả nghiên cứu về công ty dới các giác độ
khác nhau về kinh tế, pháp lý Chẳng hạn: "Luật thơng mại Việt Nam dẫn
giải" của Lê Tài Triển - Sài Gòn 1972; Đề tài KX 03-13, Bộ T pháp: "Pháp
luật kinh tế ở Việt Nam"; Giáo trình Luật kinh tế của khoa Luật, trờng Đại
học KHXH&NV năm 1998; Giáo trình Luật kinh tế của trờng Đại học Luật
Hà Nội năm 1997; bài "ảnh hởng chế định quyền tài sản trong Bộ Luật
Dân sự đối với Luật Công ty hiện hành" của tác giả Nguyễn Hoàng Anh
đăng trên Diễn đàn doanh nghiệp số 20, 21/1996; bài "Mối quan hệ giữa
cấu trúc vốn của công ty với sự hình thành và phát triển của thị trờng
chứng khoán", bài viết "Công ty cổ phần có phải là giải pháp hoàn chỉnh"
của PGS.TS Lê Hồng Hạnh, Tạp chí Luật học, số 4, 5/1996; "Đánh giá tổng
kết luật công ty" của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng tháng
4/1998; bài "Quyền tự chủ về vốn và tài sản của doanh nghiệp nhà nớc"
của TS Nguyễn Nh Phát, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 3/1999; bài "Về
những điểm mới của Luật Doanh nghiệp" của TS Trần Đình Hảo, Tạp chí
Nhà nớc và pháp luật, số 8/1999; bài "Điều hành và giám sát công ty ở Mỹ
7
và Nhật Bản" của Nobuyuki Yasuda và Trần Thị Lệ Thủy, Tạp chí Nhà nớc
và pháp luật, số 1/2000; bài "Thấy gì qua hơn
6 tháng thực hiện Luật Doanh nghiệp" của TS Dơng Đăng Huệ, Báo Pháp
luật, chuyên đề tháng 8/2000
Nội dung và kết quả nghiên cứu trong hầu hết các công trình nghiên
cứu trên cho thấy, các tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề chung

nhất mang tính nguyên tắc về công ty nh thủ tục thành lập, điều hành quản
lý, quyền và nghĩa vụ của công ty, cấu trúc vốn trong hoạt động công ty
Theo đó, vấn đề sở hữu tài sản của công ty đối vốn, ít nhiều đã đợc đề cập
trong những công trình này ở những phơng diện chung nhất và dờng nh cha
phải là trọng tâm nghiên cứu của các công trình đó hay là đối tợng của các
cuộc tranh luận khoa học. Ngay trong luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
về đề tài "Quyền sở hữu tài sản của công ty", cũng mới chỉ là những nghiên
cứu luận giải bớc đầu về mối quan hệ giữa sở hữu và chuyển dịch sở hữu
của thành viên với công ty và giữa thành viên với thành viên đối với khối tài
sản mà họ góp vào công ty hoặc bớc đầu nêu lên một số đặc điểm của căn
cứ xác lập quyền sở hữu của công ty đối vốn v.v Luận văn cũng đã chỉ ra
những vấn đề cần đợc tiếp tục nghiên cứu luận giải chi tiết hơn và sâu hơn.
Nói một cách khác, những khía cạnh chi tiết về sự điều chỉnh pháp luật đối
với việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối
vốn ở nớc ta còn đang ở trạng thái "ngỏ", ở nhiều phơng diện cần có sự tiếp
tục nghiên cứu luận giải của khoa học pháp lý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm phân tích và luận giải cơ sở
lý luận và thực tiễn về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nớc ta xét
theo các căn cứ xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công
ty từ phơng diện hình thành, tồn tại và chấm dứt hoạt động của công ty.
8
Từ việc phân tích khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn, luận án phân tích các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản
của công ty đối vốn từ việc góp vốn, từ các khoản vay, từ lợi nhuận của
công ty và từ các nguồn khác.
Từ nghiên cứu nguồn gốc và căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản
của công ty đối vốn, luận án phân tích những nội dung và phơng thức thực
thi quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Thông qua đó, luận án phân
tích để làm rõ ai là ngời thực thi quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn,

mức độ và phạm vi chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
Để nghiên cứu tổng quan quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn,
luận án cũng phân tích và luận giải những căn cứ pháp lý nhằm chấm dứt
quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn trong các trờng hợp theo ý chí của
chủ sở hữu và trong các trờng hợp giải thể và phá sản công ty đối vốn
Thực hiện mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Nghiên cứu về mặt lý luận nguồn gốc, căn cứ xác lập, thực hiện và
chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn. Việc nghiên cứu này
phải xuất phát từ những đặc trng pháp lý của các quan hệ liên kết, hùn
vốn theo hình thức công ty đối vốn. Từ đó rút ra những đặc điểm pháp
lý của phơng thức chuyển dịch sở hữu và cơ chế thực thi quyền sở hữu theo
từng loại hình công ty đối vốn là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần.
- Nghiên cứu nội dung của pháp luật hiện hành ở Việt Nam về
quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn và việc vận dụng các quy định đó
trong thực tiễn, qua đó rút ra những điểm bất cập của pháp luật cần phải có
hớng hoàn thiện. Việc nghiên cứu này có so sánh với Luật Công ty năm
1990 của Việt Nam và pháp luật công ty của một số nớc.
9
- Đa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam đối
với việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối
vốn ở nớc ta.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tợng nghiên cứu của luận án là quyền sở hữu tài sản của công
ty đối vốn ở nớc ta, cụ thể là sẽ nghiên cứu quá trình xác lập, thực hiện và
chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án đợc nghiên cứu trong
phạm vi lý luận chung của quốc tế về quyền sở hữu tài sản của công ty đối
vốn và thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về loại hình quyền sở hữu

này. Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một vấn đề phức tạp.
Nghiên cứu một cách đầy đủ về nó cần phải bao quát cả quá trình xác lập,
thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn dới cả giác
độ kinh tế và pháp lý. Với mục đích nghiên cứu đợc đặt ra ở trên, luận án
giới hạn tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính nguyên tắc và chung
nhất về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn nh: các quan hệ xác lập,
thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn dới giác độ
pháp lý về mặt lý luận và bớc đầu đối chiếu với thực tiễn điều chỉnh pháp
luật hiện hành về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nớc ta. Cụ thể,
luận án đề cập căn cứ xác lập, việc thực hiện và chấm dứt quyền sở hữu tài
sản của công ty đối vốn theo Luật Doanh nghiệp 1999 và các luật liên quan
khác. Đó là việc xác lập, thực thi và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Tác giả của luận án cũng ý thức đợc rằng: trong khuôn khổ của một
luận án tiến sĩ luật học, không có điều kiện và không thể luận giải mọi khía
cạnh và phơng diện về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nớc ta.
Vì vậy có những vấn đề khác chẳng hạn nh: vấn đề xác lập quyền sở hữu
tài sản của công ty đối vốn từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nớc,
10
công ty đối vốn theo quy định của luật đầu t nớc ngoài v.v là những vấn
đề đặc thù và phức tạp cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu, luận giải một cách
chuyên biệt ở các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp theo sau này.
5. Cơ sở phơng pháp luận và phơng pháp nghiên cứu
Luận án đợc thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trờng, có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Luận án
vận dụng phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, nhất là quan điểm về vai trò quyết định của kinh tế đối
với pháp luật và vai trò sáng tạo của pháp luật đối với sự phát triển kinh tế.

Đồng thời, tác giả đã đặc biệt chú ý đến việc vận dụng các phơng pháp
phân tích, tổng hợp so sánh, đối chiếu, diễn giải quy nạp để nghiên cứu
nội dung luận án.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
luận án
Với mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra, nội dung của luận án sẽ đa ra
những vấn đề mới sau:
- Lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và
thực tiễn điều chỉnh pháp luật về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở
nớc ta.
- Chỉ ra một số quy định bất cập trong các văn bản pháp luật thực
định của Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn.
- Đa ra một số kiến nghị về phơng hớng và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về căn cứ xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền sở
hữu tài sản của công ty đối vốn ở nớc ta.
11
Tác giả luận án hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc nâng cao ý
thức pháp luật về một vấn đề mới là thực thi quyền sở hữu tài sản trong cơ
chế tổ chức và vận hành của công ty đối vốn trong nền kinh tế thị trờng ở
Việt Nam hiện nay. Đồng thời, trong quá trình hoàn thiện pháp luật về công
ty, sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của công
ty đối vốn là nhằm đáp ứng yêu cầu linh hoạt và năng động cũng nh bảo
đảm an toàn trong việc chuyển dịch quyền sở hữu tài sản của các chủ thể
kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta.
7. Kết cấu của luận án
Từ cách đặt vấn đề, xác định mục đích và nhiệm vụ của đề tài nh
trình bày ở trên, luận án đợc bố cục nh sau: Ngoài mở đầu, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án đợc chia làm ba chơng.
Chơng 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn.

Chơng 2: Thực trạng pháp luật về xác lập, thực hiện và chấm dứt
quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam.
Chơng 3: Phơng hớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền sở
hữu tài sản của công ty đối vốn ở Việt Nam.
Tác giả mong muốn nhận đợc ý kiến đóng góp của các thầy giáo,
cô giáo và các bạn đồng nghiệp đối với bản luận án này để công trình
nghiên cứu đợc đầy đủ và toàn diện hơn.
12
Chơng 1
một số vấn đề Lý Luận cơ bản
Về quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn
1.1. quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội chi phối sự ra đời của việc liên
kết hùn vốn và hình thành sở hữu tài sản của công ty đối vốn
Công ty nói chung và công ty đối vốn nói riêng ra đời, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện lịch sử và kinh tế - xã hội nhất định. Lịch
sử phát triển của công ty gắn với lịch sử phát triển của các hoạt động thơng
mại và sự phát triển của lực lợng sản xuất với những tiến bộ về kỹ thuật và
công nghệ ngày càng hiện đại.
Sự phát triển của các hoạt động thơng mại đòi hỏi phải có sự liên
kết hùn vốn của các thơng gia với nhau để buôn bán. Sự phát triển của lực
lợng sản xuất đến một mức độ nhất định đòi hỏi nhu cầu tích tụ và tập trung
t bản lớn, theo Các Mác:
Tích lũy - tức là sự tăng dần t bản nhờ tái sản xuất
chuyển từ hình thức vận động hình xoáy trôn ốc - là một phơng
thức hết sức chậm chạp so với sự tập trung là cách chỉ cần thay đổi
sự bố trí về lực lợng của các bộ phận gộp thành t bản xã hội. Nếu
nh cứ phải chờ đến khi tích lũy làm cho số t bản riêng lẻ lớn lên
đến mức có thể đảm đơng đợc việc xây dựng đờng sắt thì có lẽ
đến ngày nay thế giới cũng vẫn cha có đờng sắt [8, tr. 119].

Sự phát triển của lực lợng sản xuất đòi hỏi tất yếu khách quan phải
tích lũy t bản để tái sản xuất và mở rộng sản xuất. Cũng chính nhu cầu huy
động vốn cho hoạt động kinh doanh đã thúc đẩy các nhà t bản phải tìm đến
13
những hình thức tổ chức kinh doanh mới "qua các công ty cổ phần, sự tập
trung đã thực hiện đợc việc đó trong nháy mắt" [8, tr. 119]. Công ty cổ phần
có khả năng thu hút vốn nhanh chóng và khả năng thanh khoản cao nhằm
đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh của
nhà t bản. Sự hùn vốn theo hình thức công ty chính là nhằm đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển thì
càng có nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, tạo ra những cơ
hội và khả năng thu hút nhà đầu t tìm đến những miền đất mới để tìm kiếm
lợi nhuận cao hơn trong những ngành nghề mà họ đang tiến hành hoạt
động kinh doanh.
Sự liên kết hùn vốn theo những hình thức pháp lý nhất định cũng sẽ
giúp nhà t bản đầu t với các nhà t bản khác trong nhiều ngành nghề, nhiều
lĩnh vực khác nhau. Sự liên kết đó giúp các nhà t bản tập trung đợc trí tuệ,
khả năng và kinh nghiệm để quản lý kinh doanh tốt hơn, sẽ phân tán đợc
những rủi ro có thể xảy ra.
Nh vậy, chính nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đã đòi hỏi cần có
sự liên kết, hùn vốn. Đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu t muốn liên
kết, hùn vốn để chia sẻ những gánh nặng rủi ro (nếu có) trong hoạt động
kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Sự ra đời của những quan hệ
liên kết, hùn vốn đã đáp ứng đợc một phần nhu cầu khách quan của quá
trình huy động, bảo toàn và phát triển vốn trong hoạt động kinh doanh đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chính từ vai trò, vị trí cũng nh sự
tồn tại và phát triển của các quan hệ liên kết, hùn vốn trên thơng trờng đòi
hỏi phải có những hình thức pháp lý thích hợp để điều chỉnh các quan hệ
đó. Lúc này, các chủ sở hữu không chỉ tác động vào tài sản một cách trực
tiếp, mà còn thông qua ngời khác để khai thác lợi ích từ tài sản. Để "không

bỏ tất cả trứng vào một giỏ", họ có thể kinh doanh nhiều ngành nghề khác
nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc góp vốn, mua cổ phiếu, mua trái
14
phiếu ở nhiều công ty khác nhau giúp chủ sở hữu vốn khai thác đợc khả
năng sinh lời tối đa của đồng vốn, đồng thời phân tán đợc rủi ro và bảo đảm
an toàn đồng vốn của họ.
Theo các nhà nghiên cứu, để có hình thức tồn tại tơng đối hoàn
thiện và đa dạng nh ngày nay, những hình thức pháp lý đó đã trải qua quá
trình phát triển lâu dài. Những hình thức pháp lý của sự liên kết hùn vốn
xuất hiện sơ khai từ thời kỳ La Mã, đợc hoàn thiện dần ở châu Âu vào thế
kỷ XIII, tiến tới có mô hình hoàn chỉnh vào thế kỷ XVII và đợc phát triển
mạnh từ cuối thể kỷ XIX đến nay. Từ nhu cầu của các chủ sở hữu vốn, trên
thực tế của hoạt động kinh doanh đã xuất hiện nhiều loại liên kết. Mỗi một
loại liên kết đều phải đáp ứng việc khai thác lợi ích từ tài sản của chủ sở
hữu (tức khả năng sinh lời từ đồng vốn). Sự sinh lời đó phải đợc pháp luật
thừa nhận và đợc bảo đảm an toàn về mặt pháp lý. Vì vậy, pháp luật phải có
cơ chế điều chỉnh thích hợp đối với mỗi hình thức liên kết. Ngay trong luật
La Mã, ngời ta đã thấy xuất hiện các chế định về liên kết hợp đồng, về các
quan hệ nợ nần giữa các thơng gia, đặc biệt nội dung cơ bản của chế định
về sở hữu vẫn còn giá trị pháp lý cho đến ngày nay. Trong chế định về liên
kết "Luật La Mã chia thành hai loại liên kết khác nhau là Societas và
Universitas. Universitas là mô hình và các ý tởng để sinh ra lý thuyết về
pháp nhân" [36, tr. 113]. Trong giao dịch với bên thứ ba, Universitas có
năng lực pháp lý độc lập, nó có tài sản riêng độc lập với tài sản của thành
viên, tự chịu trách nhiệm về những khoản nợ, tham gia tố tụng với t cách là
nguyên đơn hoặc bị đơn, sự thay đổi thành viên không làm ảnh hởng đến
địa vị pháp lý của Universitas. Ngợc lại, Societas không phải là một thực
thể pháp lý độc lập, nó không có tài sản riêng, trong các quan hệ nợ nần
từng thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của mình và họ
cùng tham gia tố tụng với t cách là nguyên đơn hoặc bị đơn. Do đó, "sự

thay đổi thành viên của Societas là lý do để giải thể Societas" [36, tr. 114].
15
Nh vậy, trong nền kinh tế có những hình thức khác nhau để các chủ sở hữu
có thể hoặc là trực tiếp kinh doanh khai thác lợi ích từ tài sản của mình
hoặc là thông qua những hình thức liên kết giản đơn đợc điều chỉnh bằng
luật Dân sự. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có các hình thức mới
cho các chủ sở hữu vốn và tài sản có thể chuyển giao và thông qua ngời
khác (cá nhân hoặc tổ chức) kinh doanh khai thác và mang lại lợi ích từ tài
sản cho chính mình. Quả thật "mỗi khi sự phát triển của công thơng nghiệp
tạo ra những hình thức giao tiếp mới, chẳng hạn nh công ty bảo hiểm.v.v thì
pháp luật buộc phải luôn luôn chấp nhận đó là những hình thức mới của
việc chiếm hữu" [10, tr. 93].
Đáp ứng đòi hỏi của hoạt động kinh doanh đã xuất hiện nhiều hình
thức pháp lý điều chỉnh sự liên kết giữa các chủ sở hữu vốn. Vào khoảng
thế kỷ thứ XIII ở châu Âu đã xuất hiện các loại hình công ty đối nhân trong
lĩnh vực thơng mại ở một vài thành phố. Các hội hợp t (Commenda) là tiền
thân của công ty hợp vốn đơn giản và công ty nặc danh ngày nay, theo đó
những ngời góp vốn (Commendator) chuyển tiền hoặc hàng hóa cho ngời
kinh doanh (Tractato) để cùng tiến hành hoạt động kinh doanh. Sự liên kết
(Societar fratrum) giữa các thơng gia trong hoạt động kinh doanh đòi hỏi
phải có hình thức pháp lý thích hợp điều chỉnh. Hình thức hợp danh ra đời
dựa trên cơ sở liên kết về nhân thân giữa các thành viên mà khởi thủy của
nó là kinh tế gia đình. Khi các thơng gia chết, con cái của họ cùng nhau
tiếp tục kinh doanh và cùng bình đẳng với nhau. Với hình thức pháp lý
công ty hợp danh, tất cả các thành viên tham gia đều liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Vì không có sự tách bạch tài
sản đa vào hợp danh với phần tài sản thuộc sở hữu của thành viên nên khi
thực hiện hành vi góp vốn, các thành viên hợp danh không nhất thiết làm
thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty. Khi tiến hành kinh doanh
"thành viên công ty nhân danh công ty để kinh doanh. Để tham gia vào mô

16
hình công ty này, các thành viên phải có t cách thơng gia và phải ghi tên
vào sổ thơng mại" [36, tr. 183]. Mặc dù công ty hợp danh là thực thể độc
lập nhng các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản
nợ của công ty. Vì vậy, sự phá sản của thành viên rất có thể là lý do kéo
theo sự phá sản của công ty, đây chính là hạn chế của mô hình hợp danh,
đặc biệt là đối với các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải có sự huy động vốn
lớn hơn và sự tồn tại của thực thể kinh tế mang tính lâu dài. Khắc phục hạn
chế này, hình thức hợp vốn đơn giản xuất hiện. Đây là hình thức mà thành
viên tham gia đợc chia làm hai nhóm: nhóm thành viên góp vốn và nhóm
thành viên nhận vốn, trong đó nhóm thành viên góp vốn chịu trách nhiệm
hữu hạn, còn nhóm thành viên nhận vốn có ít nhất một thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn (thành viên này phải có t cách thơng nhân). Tính chịu
trách nhiệm vô hạn của thành viên nhận vốn tạo cho họ một địa vị pháp lý u
việt hơn các thành viên góp vốn. Họ có quyền quản lý công ty, trực tiếp
điều hành công ty và đại diện cho công ty trong các quan hệ với bên ngoài.
Sự ra đời của hình thức hợp vốn đơn giản lúc đầu để đáp ứng nhu
cầu của những ngời có vốn, muốn kinh doanh kiếm lời song lại không
muốn xuất hiện với t cách là một thơng nhân trớc công chúng. Mặt khác,
một số thơng nhân muốn kinh doanh nhng lại lo ngại tính chịu trách nhiệm
liên đới vô hạn của hình thức hợp danh. Theo các tác giả ngời Pháp, mầm
mống của hình thực hợp vốn đơn giản xuất hiện thịnh hành ở một số tỉnh
thuộc Italia do sự thúc đẩy của nhu cầu về thơng mại hàng hải. Năm 1673 ở
Pháp đã có luật quy định về hình thức hợp vốn này.
Hiện nay trên thế giới, hình thức hợp vốn đơn giản ít tồn tại và
thông thờng đó là công ty hợp danh cũ buộc phải chuyển sang hình thức
này khi có một thành viên qua đời nhằm tạo điều kiện cho ngời thừa kế cha
thành niên trở thành ngời góp vốn vì các thành viên trong công ty hợp danh
phải là những thơng nhân có đủ năng lực mà pháp luật quy định. Ngoài
17

hình thức hợp vốn đơn giản ở một số nớc còn có công ty hợp vốn cổ phần.
Đây là loại hình hợp vốn mà các thành viên đợc chia thành hai nhóm: 1)
Nhóm của những ngời góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm về nợ nần của
công ty bằng số vốn đã góp, đợc hởng phần lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh của công ty, tuy nhiên khác với các với thành viên góp vốn trong
công ty hợp vốn đơn giản, ở đây việc góp vốn của họ không còn đơn giản
nữa mà đã đợc thể hiện dới hình thức các cổ phần. Ngời sở hữu cổ phần là
các cổ đông. Vì thế có thể coi đây là một dạng công ty "hybride" (trộn lẫn
giữa công ty đối nhân và công ty cổ phần). 2) Nhóm còn lại hay ít nhất còn
một thành viên (thành viên nhận vốn) phải chịu trách nhiệm vô hạn về các
khoản nợ của công ty. Chính vì đặc điểm trộn lẫn này mà công ty hợp vốn
theo cổ phần có những đặc điểm của cả công ty đối nhân và công ty cổ
phần.
Sự liên kết về vốn ra đời muộn hơn vào khoảng đầu thế kỷ XVII.
Hình thức hợp vốn là tiền đề làm xuất hiện công ty đối vốn. Đây là loại
hình công ty trong đó mối quan hệ của các thành viên đợc xác định dựa vào
tỷ lệ vốn góp. Lúc đầu có thể góp vốn theo tỷ lệ xác định, nhng về sau sẽ có
nhiều thang bậc khác nhau. Những ngời góp vốn với tỷ lệ cao sẽ đợc hởng
phần lớn hơn lợi nhuận của công ty. Do vậy, cần phải có mô hình tổ chức
quản lý với những thang, bậc khác nhau về quyền lực tạo lập từ việc góp
vốn và nhu cầu của các thành viên tham gia công ty. Với các quy định của
Dân luật truyền thống về quyền sở hữu và tài sản đã trở nên hạn hẹp. Chẳng
hạn đối với tài sản, chủ sở hữu sẽ trực tiếp khai thác lợi ích thông qua việc
thực hiện ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Sự điều chỉnh
này không thể thỏa mãn đợc nhu cầu của chủ sở hữu góp vốn để thành lập
một tổ chức kinh tế và thông qua tổ chức đó để khai thác lợi ích từ tài sản
góp vốn của mình. Cần phải có một cơ chế điều chỉnh sao cho lợi ích của tổ
chức kinh tế phù hợp với lợi ích của các chủ sở hữu tham gia góp vốn. Vấn
18
đề đặt ra là sau khi góp vốn, chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho công ty,

các thành viên đợc xác lập quyền lực nào đối với công ty và từ thời điểm
nào? theo hình thức nào? và ở mức độ nào? Vợt lên trên sự điều chỉnh chật
hẹp của dân luật và xuất phát từ những nguyên tắc của dân luật truyền
thống, Luật Công ty ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi kinh tế xã
hội ấy.
Luật công ty hiện đại ra đời cùng với thời kỳ tự do hóa t sản nhằm
đáp ứng đòi hỏi của hoạt động kinh doanh. Các thành viên tham gia công ty
có thể thỏa thuận cơ chế kiểm soát, điều hành quản lý công ty. Mục đích
đặt ra đối với cơ chế kiểm soát, điều hành quản lý công ty là nhằm đảm bảo
rằng số vốn đợc góp của họ bỏ ra sẽ có khả năng sinh lời, sẽ đợc bảo đảm
an toàn pháp lý và trong những trờng hợp cần thiết họ sẽ lựa chọn mô hình
hội vốn theo hình thức công ty cổ phần để có khả năng chuyển đổi linh
hoạt (khả năng thanh khoản) đáp ứng nhu cầu của chủ sở hữu tài sản.
Những ngời có vốn và tài sản sẽ cân nhắc các u thế và hạn chế của các hình
thức pháp lý khác nhau về công ty để lựa chọn một hình thức phù hợp.
Chẳng hạn, họ chọn mô hình công ty đối vốn vì đây là một thực thể pháp lý
đợc giới hạn sự rủi ro tài chính của chủ sở hữu trên số vốn đã đầu t. Hoặc
những ngời hội vốn muốn tự định ra cơ chế quyền lực thì thành viên hội
vốn phải là những ngời quen biết nhau, hiểu đợc khả năng, kinh nghiệm
của nhau và số lợng thành viên tham gia thờng ít. Họ sẽ thỏa thuận và phân
công nhau đảm nhiệm việc quản lý và điều hành công ty. Do đó, mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ là phù hợp với họ. Hoặc, trong trờng hợp
nhu cầu kinh doanh cần hội vốn công cộng thì các chủ sở hữu vốn sẽ lựa
chọn mô hình công ty cổ phần. Căn cứ vào u thế và hạn chế của hội vốn
công cộng mà cấu trúc quyền lực trong công ty cổ phần khác với công ty
trách nhiệm hữu hạn. Trớc hết, hội vốn công cộng cho phép công khai huy
động vốn bằng cách bán cổ phiếu cho dân c và công khai vay vốn bằng
19
cách phát hành trái phiếu. Trong số những ngời mua bán cổ phiếu (trái
phiếu) sẽ có những ngời không hiểu biết về kinh doanh, vì vậy để họ tin t-

ởng việc đầu t vốn của họ đợc bảo đảm an toàn và có khả năng sinh lời thì
phải có cơ chế để các thành viên lựa chọn trong số họ những ngời có khả
năng, có uy tín để bầu vào bộ máy quản lý và điều hành công ty. Hơn nữa,
để đáp ứng tính linh hoạt của hoạt động kinh doanh và sự mềm dẻo trong
việc sử dụng vốn, ngời hội vốn đã thỏa thuận mức độ quyền lực đối với từng
loại cổ phần. Ví dụ, sở hữu cổ phiếu u đãi biểu quyết có nhiều quyền lực
trong quản lý điều hành hơn so với cổ phiếu u đãi cổ tức hoặc cổ phiếu phổ
thông. Nh vậy, lựa chọn mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty
cổ phần là việc của chủ sở hữu vốn và tài sản. Mức độ điều chỉnh của pháp
luật cũng tùy thuộc vào tính chất hội vốn mà đa ra những quy phạm tùy
nghi, quy phạm hớng dẫn hay quy phạm mệnh lệnh. Chẳng hạn, đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty mà sự hình thành ngoài
yếu tố hội vốn, các thành viên còn quan tâm đến việc trực tiếp điều hành,
quản lý công ty. Vì vậy, công ty trách nhiệm hữu hạn không phải điều
chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật có tính chất bắt buộc nh công ty cổ
phần. Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn, sự ra đời của công ty cổ phần
từ nhu cầu hội vốn công cộng. Việc công khai gọi vốn trong công chúng dễ
tạo ra sự lạm dụng hoạt động công ty để lừa đảo, đầu cơ, để thâu tóm quyền
lực v.v Vì vậy, mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với công ty này ngay
từ quá trình thành lập đã phải ràng buộc bởi những quy định mang tính bắt
buộc, ví dụ quy định t cách của sáng lập viên, quy định về điều kiện gọi vốn
hoặc quy định tổ chức quyền lực trong công ty. Theo quy định của pháp
luật một số nớc, cơ chế quyền lực này sẽ quyết định về tổ chức và cấu trúc
quyền lực công ty, các công ty hoạt động theo luật t và chịu rất ít sự giám
sát của nhà nớc. Ngay Bộ Luật Thơng mại (Code de Commerce) Pháp năm
1807 đã thể chế các quan điểm tự do hóa trong kinh doanh. Việc thành lập
20
công ty xuất phát từ lợi ích của nhà đầu t, nhà nớc chỉ thừa nhận sự ra đời
của công ty khi có những điều kiện hợp lệ. Song để bảo vệ lợi ích của thành
viên góp vốn và an toàn của hoạt động kinh doanh, về sau nhiều nớc ở châu

Âu ban hành luật Thơng mại quy định việc thành lập công ty cần giấy phép
của Nhà nớc. Đến năm 1870, hầu hết các nớc đều bãi bỏ thủ tục cấp giấy
phép thành lập công ty. Công dân hoàn toàn có quyền tự do thành lập và
hoạt động công ty. Nhà nớc chỉ đa ra một số quy định bắt buộc. Ví dụ:
công ty có nghĩa vụ đăng ký tại tòa án trớc khi hoạt động, tòa án căn cứ vào
lời khai của ngời thành lập công ty và kết quả thẩm định của các chuyên
gia kiểm toán độc lập để đăng ký theo các quy định của pháp luật. Do sự tự
do hóa hoạt động kinh doanh nên đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo lớn trong công
chúng. Vì vậy, nhà nớc đã hoàn thiện thêm các quy phạm bắt buộc để hạn
chế lừa đảo trong kinh doanh theo hình thức công ty đối vốn.
Nh vậy, xuất phát từ tính chất liên kết và đặc điểm hội vốn mà xuất
hiện công ty đối vốn là loại hình công ty thỏa mãn đa dạng lợi ích và nhu
cầu của thành viên góp vốn, đồng thời nó phải đáp ứng đợc tính linh hoạt,
sự mềm dẻo trong quá trình sử dụng vốn của họ. Chính nhu cầu này đòi hỏi
sự điều chỉnh của pháp luật phải "hình thức hóa" ở những mức độ khác
nhau, để bảo đảm quyền lợi cho các chủ sở hữu vốn và tài sản, đồng thời
bảo đảm hoạt động của một thực thể pháp lý đợc thừa nhận có t cách độc
lập tham gia vào thơng trờng kinh doanh là công ty đối vốn.
Quá trình phát triển của lịch sử về sự liên kết, hùn vốn và sự ra đời
của công ty đã cho thấy luật công ty thuộc về luật t, sự phát triển của nó
gắn liền với lịch sử phát triển thơng mại. Nhà nớc ngày càng hạn chế sự
can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty, không duy trì chế độ cấp giấy
phép thành lập hay giấy phép hoạt động mà chỉ quy định các công ty chỉ có
nghĩa vụ đăng ký để đợc ghi tên vào danh bạ thơng mại. Hầu hết luật pháp
các nớc đều thừa nhận t cách pháp lý của công ty đối vốn từ thời điểm thực
21
hiện xong thủ tục đăng ký kinh doanh và đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Từ thời điểm này, công ty có t cách pháp nhân, có tài sản riêng
tách bạch với tài sản của các thành viên tham gia công ty. Các thành viên
chỉ chịu trách nhiệm bằng phần vốn tham gia vào công ty, còn công ty chịu

trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản thuộc sở hữu của công
ty. Vậy quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là gì?
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn
Quyền sở hữu đợc hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi
nhận, điều chỉnh và bảo vệ trạng thái chiếm hữu của cải vật chất của những
chủ thể nhất định. Công ty đối vốn là một pháp nhân, là một trong những
chủ sở hữu tài sản đợc pháp luật ghi nhận. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản
công ty đối vốn là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận, điều chỉnh
và bảo vệ trạng thái chiếm hữu những tài sản thuộc công ty. Việc ghi nhận,
điều chỉnh và bảo vệ trạng thái chiếm hữu tài sản của công ty nhằm: thứ
nhất, xác nhận khả năng sở hữu tài sản và xác nhận về mặt pháp lý trạng
thái thực tế của công ty trong việc chiếm hữu các tài sản của mình; thứ hai,
pháp luật xác định quyền hạn của công ty trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với tài sản; thứ ba, pháp luật xác định những biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu tài sản của công ty trớc những chủ thể khác. Hiểu theo nghĩa
khách quan nh trên thì quyền sở hữu tài sản của công ty thuộc đối tợng điều
chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau nh Luật Nhà nớc, Luật Hành chính,
Luật Dân sự, Luật Tài chính, Ngân hàng, Luật Đất đai. Ví dụ luật Nhà nớc
công nhận và bảo vệ về hình thức sở hữu của tổ chức (công ty - một tổ chức
kinh tế có t cách pháp nhân). Luật Dân sự quy định căn cứ xác lập và chấm
dứt quyền sở hữu đối với tài sản của pháp nhân (công ty đối vốn là một
pháp nhân) và quy định các quyền năng của chủ sở hữu và những ngời khác
đối với tài sản. Những ngành luật khác nh luật Đất đai, luật Tài chính,
Ngân hàng, luật Công ty quy định các phơng thức xác lập, thực hiện và
22
chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối với các loại tài sản cụ thể;
luật Dân sự, luật Hành chính, luật Hình sự quy định các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu tài sản của công ty.
Theo Đại từ điển kinh tế thị trờng của Viện nghiên cứu và phổ biến
tri thức bách khoa thì "quyền sở hữu là một loại trong vật quyền dân luật,

chỉ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, thu lợi, phân xử vật sở hữu của mình
và loại bỏ sự can thiệp của ngời khác, của chủ thể dân sự trong phạm vi
quy định của pháp luật" [17, tr. 1952]. Theo khái niệm này, thì quyền sở hữu
tài sản của công ty là một loại vật quyền theo đó công ty có quyền chiếm
hữu, sử dụng, thu lợi và phân xử (định đoạt) tài sản của công ty. Vì vậy,
"quyền sở hữu tài sản của công ty mang những đặc trng chung của vật
quyền" [17, tr. 1951] và còn có những đặc trng riêng nh: 1) Công ty có toàn
quyền chi phối tài sản của công ty thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử
dụng, thu lợi và định đoạt đối với tài sản; 2) Quyền sở hữu tài sản của công
ty là cơ sở để công ty thực hiện quyền sử dụng và quyền đảm bảo tài sản; 3)
Quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là loại vật quyền có tính chất
năng động, quyền năng của nó có thể tách ra và trở về với công ty trong
quá trình hoạt động kinh doanh.
Theo khái niệm trên thì quyền sở hữu tài sản của công ty chỉ đợc
hiểu với nội dung đồng nghĩa với quyền năng của chủ sở hữu (công ty với t
cách là chủ sở hữu). Vấn đề hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận là: với ba
quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt liệu đã đủ với chủ sở hữu cha?
Với ba quyền năng đó có thể chứng tỏ đặc điểm pháp lý của quyền chủ sở
hữu và phân biệt nó với quyền năng của những chủ thể khác không? Vấn đề
là trong lý luận cũng nh trong thực tiễn, trong nhiều trờng hợp các chủ thể
khác không phải là chủ sở hữu cũng có những quyền năng đó, không chỉ
từng quyền năng riêng biệt mà kể cả tập hợp ba quyền năng nêu trên. Tôi
đồng ý với quan điểm cho rằng, "tự bản thân quyền năng trong mọi trờng
23
hợp cha đủ để khái quát nội dung quyền sở hữu. Hơn nữa, sẽ là sai lầm nếu
coi đó là khả năng đúng duy nhất để thể hiện quyền hạn của chủ sở hữu"
[56, tr. 24]. Ngay trong luật La Mã cổ đại cũng không quy định quyền của
chủ sở hữu "đóng kín" ở ba quyền năng nêu trên. Cùng với quyền sở hữu,
thời bấy giờ trong luật La Mã đã quy định quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
là những loại vật quyền hoàn toàn độc lập.

Tiếp nhận hạt nhân hợp lý của luật La Mã, pháp luật của các nớc
nh Pháp, Đức, Nhật Bản quy định về quyền sở hữu t nhân thiêng liêng,
tuyệt đối và quy định về các loại vật quyền của các chủ thể khác nhau
(quyền sử dụng, quyền địa dịch ). Chẳng hạn Điều 344 Bộ luật dân sự
Pháp quy định "Quyền sở hữu là quyền thụ hởng và định đoạt tài sản một
cách tuyệt đối với điều kiện không đợc sử dụng quyền này trái với quy định
của pháp luật. Pháp luật Anh, Mỹ cũng liệt kê 11 quyền năng của chủ sở
hữu" [56, tr. 24]. Ngoài ra, trên thực tế khả năng kết hợp các loại quyền
năng trên sẽ còn nhiều phơng án với cùng một tài sản. Vậy, quyền sở hữu
có những đặc điểm riêng để phân biệt nó với các loại vật quyền khác. Cũng
nh đặc điểm pháp lý của quyền sở hữu nói chung, quyền sở hữu tài sản của
công ty đối vốn không phải chỉ thể hiện ở số lợng ba quyền năng của chủ
sở hữu, hoặc ở nội dung ba quyền năng, mà còn thể hiện ở bản chất của
những quyền năng đó. Trên thực tế, nội dung các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt luôn gắn liền với chủ sở hữu, nó cũng có thể tách rời khi
nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định. Sự tách rời nội dung của
quyền sở hữu trải qua một quá trình, ban đầu khi nền kinh tế còn ở trình độ
thấp, chủ sở hữu tài sản là ngời chiếm hữu, ngời sử dụng, ngời định đoạt tài
sản một cách trực tiếp. Khi nền kinh tế phát triển, đặc biệt trong thời kỳ sản
xuất hàng hóa t bản chủ nghĩa, nhà t bản với t cách là ngời chiếm hữu t bản
đồng thời cũng là ngời chủ kinh doanh, thì lúc này các quyền năng của
quyền sở hữu có thể gắn liền với chủ sở hữu, nó cũng có thể tách rời chủ sở
24
hữu. Ví dụ ngời sở hữu tài sản sử dụng tài sản của mình để trực tiếp kinh
doanh hoặc thông qua ngời khác kinh doanh. Trong những trờng hợp nh vậy,
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tách rời nhau. Theo
Mác, lúc này "T bản sở hữu tách rời t bản hoạt động, hay t bản hoạt động
tách rời t bản chức năng". Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng
hóa, quan hệ về sở hữu t liệu sản xuất là tiền đề làm phát sinh, tồn tại quan
hệ hàng hóa tiền tệ; nó quy định địa vị của con ngời trong xã hội có giai

cấp; nó cũng là tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ của xã hội. Sự biến đổi của
quan hệ sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực l-
ợng sản xuất, vừa là hình thức xã hội để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của lực lợng sản xuất. Vì vậy, bất cứ một sự thay đổi nào của quan hệ
sở hữu đều là kết quả tất yếu, khách quan tạo nên lực lợng sản xuất mới.
Từ nhận thức nh vậy, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, theo nghĩa
chủ quan "quyền sở hữu là khả năng đặc biệt tối đa của chủ sở hữu làm chủ
hoàn toàn về mặt kinh tế đối với tài sản của mình, thể hiện quyền chiếm
giữ, sử dụng và định đoạt tài sản của mình theo sự xét đoán của riêng mình,
nghĩa là thực hiện bất kỳ hành vi nào đối với tài sản đó mà không trái với
quy định của pháp luật" [56, tr. 25]. Khái niệm này đã nêu rõ đặc trng của
quyền sở hữu không chỉ ở trạng thái tĩnh mà còn nêu đợc "động thái" của
việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Từ những vấn đề phân tích
trên, có thể đa ra khái niệm: quyền sở hữu tài sản của công ty là khả năng
đặc biệt tối đa của công ty làm chủ hoàn toàn về mặt kinh tế đối với tài sản
của mình, công ty có quyền chiếm giữ, sử dụng và định đoạt tài sản của
công ty và thực hiện các giao dịch đối với tài sản vì lợi ích của công ty và
không trái với các quy định của pháp luật. Để tìm hiểu rõ hơn đặc trng của
quyền sở hữu tài sản của công ty, luận án sẽ phân tích cấu thành về chủ thể,
khách thể và nội dung của quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn.
25
1.1.3. Cấu thành quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn
1.1.3.1. Chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn
Chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể quyền sở hữu công ty đối vốn là một tổ chức kinh
tế có t cách pháp nhân
Trớc hết, chủ thể quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn là một tổ
chức kinh tế có t cách pháp nhân. Khác với tổ chức xã hội, công ty đối vốn
là một tổ chức kinh doanh. Vì vậy, trong quá trình thành lập cũng nh hoạt

động, hành vi kinh doanh luôn luôn là mục đích của việc hội vốn là hành vi
có tính chất liên tục trong quá trình tồn tại của công ty theo đúng lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh đã đăng ký. Khác với công ty đối nhân - một thực
thể pháp lý không có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó và
của chủ sở hữu, công ty đối vốn là một thực thể có tài sản độc lập tách bạch
với tài sản của thành viên tham gia vào công ty. Trong quá trình thành lập,
khi thực hiện xong nghĩa vụ góp vốn, thì phần vốn góp của thành viên
chuyển thành sở hữu của công ty, công ty phải chịu trách nhiệm đối với tài
sản của mình. Tiêu chí lợi nhuận luôn là động lực và mục tiêu của công ty.
Khi tiến hành hoạt động, công ty đối vốn chịu trách nhiệm dân sự bằng tài
sản của mình với t cách là một tổ chức kinh tế. Với mô hình thiết kế về
pháp lý nh vậy, luật pháp đã thừa nhận công ty đối vốn là một tổ chức kinh
tế có t cách pháp nhân hởng quy chế trách nhiệm hữu hạn. T cách pháp
nhân của công ty đối vốn thể hiện nó là một thực thể pháp lý:
- Đợc thành lập một cách hợp pháp;
- Có tài sản độc lập;
- Tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình bằng tài sản của công ty;
26
- Là nguyên đơn hay bị đơn trớc các cơ quan tài phán.
Sự thừa nhận t cách pháp nhân của công ty đối vốn thể hiện tình
trạng tách bạch về quyền sở hữu tài sản của nó với quyền sở hữu tài sản của
thành viên đã thành lập ra nó. Điều đó đòi hỏi: trong việc góp vốn vào công
ty, quyền sở hữu vốn và tài sản góp vốn của thành viên công ty phải đợc
chuyển dịch sang cho công ty và lúc đó công ty đối vốn với t cách là thực
thể pháp lý độc lập, có t cách pháp nhân sẽ là chủ thể quyền sở hữu vốn và
tài sản đã góp đó. Công ty là chủ thể thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản của công ty vì mục đích kinh doanh.
Thứ hai, công ty đối vốn là một tổ chức kinh tế phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật.
Công ty đối vốn muốn đợc thừa nhận là tổ chức kinh tế, có t cách

pháp nhân, sáng lập viên công ty phải tiến hành các thủ tục pháp lý cần
thiết theo quy định của pháp luật tại cơ quan nhà nớc có thẩm quyền. Trớc
đó, các thành viên hội vốn đã bàn bạc, thỏa thuận và nhất trí với nhau về
điều lệ công ty, chỉ định ngời quản lý công ty và các công việc cần thiết nh
đặt tên gọi, đặt trụ sở, ký một số hợp đồng mua bán Khi hội đủ những yếu
tố và điều kiện để công ty ra đời, sáng lập viên sẽ tiến hành thủ tục đăng ký
việc thành lập công ty tại cơ quan có thẩm quyền. Luật pháp một số nớc gọi
thủ tục này là thủ tục đăng ký kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là thủ tục
hành chính t pháp, là khâu cuối cùng của quá trình thành lập công ty nhằm
khai sinh công ty. Mục đích của thủ tục này nhằm thừa nhận địa vị pháp lý
của công ty và thông tin chính thức, công khai về hoạt động của công ty với
công chúng. ở nhiều nớc phơng Tây ngời ta giao nhiệm vụ này cho Tòa án
(cơ quan t pháp) thực hiện. Phần lớn các nớc ở châu á, việc đăng ký kinh
doanh do cơ quan hành pháp thực hiện. ở Việt Nam hiện nay, việc đăng ký
kinh doanh thuộc thẩm quyền của phòng đăng ký kinh doanh (theo quy
27
định của Luật Doanh nghiệp). Chỉ sau khi đợc cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, công ty mới đợc nhà nớc thừa nhận địa vị pháp lý trên th-
ơng trờng. Việc đăng ký kinh doanh buộc những chủ sở hữu có nhu cầu hội
vốn thành lập công ty phải là những chủ thể trớc hết chịu trách nhiệm trớc
cơ quan nhà nớc và bên thứ ba về tính chính xác và trung thực của các
thông tin đợc khai báo. Ngoài ra, quy định nh vậy còn thúc đẩy những bên
có liên quan kiểm soát lẫn nhau trong khi thiết lập các giao dịch pháp lý
trong quá trình thành lập công ty. Chỉ sau khi đợc cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, công ty đối vốn mới có t cách pháp nhân hay nói cách
khác: hành vi đăng ký kinh doanh làm phát sinh địa vị pháp lý của công ty.
Cũng từ thời điểm này mới làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty
đối vốn.
Tính cá thể hóa pháp nhân đòi hỏi công ty phải có tên gọi riêng.
Tên gọi của công ty do sáng lập viên công ty tự lựa chọn và ghi vào điều lệ

của công ty. Do đó, việc thay đổi tên gọi công ty phải sửa đổi điều lệ và
đăng ký lại với cơ quan nhà nớc có thẩm quyền, đồng thời thông báo công
khai cho khách hàng và mọi ngời biết để tiện liên hệ. Quyền sở hữu vốn và
tài sản của của công ty phải mang tên chủ sở hữu là công ty. Khi tài sản
góp vốn cha hoặc không sang tên sở hữu cho công ty thì công ty cha đợc
coi là chủ sở hữu hợp pháp đối với vốn và tài sản đó. Còn đối với thành viên
góp vốn thì cha đợc coi là đã thực hiện xong nghĩa vụ góp vốn và cha đợc
giải phóng khỏi nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của
công ty.
Địa vị pháp lý của công ty do pháp luật của nớc mà công ty mang
quốc tịch quyết định. Quốc tịch của công ty là mối liên hệ pháp lý giữa
công ty với pháp luật của một nớc nhất định, là sự lệ thuộc về mặt pháp lý
của công ty vào một quốc gia. Nếu nh quốc tịch của một thể nhân là một
thuộc tính xác định khó thay đổi thì quốc tịch của một pháp nhân lại có thể
28
thay đổi theo từng điều kiện nhất định của luật pháp mỗi nớc. Một công ty
có thể đợc coi là công ty trong nớc ở phơng diện này, nhng lại có thể đợc
coi là công ty nớc ngoài ở phơng diện khác. Việc xác định địa vị pháp lý
của công ty có ý nghĩa nhằm xác định quyền sở hữu tài sản của công ty bị
chi phối bởi luật nào? Chẳng hạn, Luật ở nơi công ty mang quốc tịch hay
luật ở nơi có tài sản.
Theo pháp luật và thực tiễn pháp lý của các nớc trên thế giới, nhìn
chung quốc tịch của công ty thờng đợc xác định theo những cơ sở sau:
- Theo nơi thành lập, tức là nơi cấp giấy phép thành lập và đăng ký
điều lệ của công ty (luật Anh, Mỹ thờng áp dụng tiêu chuẩn này).
- Theo trung tâm quản lý, tức là nơi đặt trụ sở quản lý điều hành
chính của Hội đồng quản trị công ty (luật Đức, Pháp thờng áp dụng).
- Theo trung tâm sản xuất kinh doanh, tức là nơi hoạt động sản xuất
hoặc kinh doanh chính của công ty (luật các nớc phát triển nh Ai Cập, Xiri
thờng áp dụng)

Nh vậy, kể từ thời điểm đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, công ty đối vốn mới có t cách pháp nhân và bắt đầu thực hiện các
giao dịch nhân danh công ty, trách nhiệm tài sản phát sinh là trách nhiệm
của công ty. Các hoạt động trớc đó liên quan đến việc thành lập công ty
thuộc trách nhiệm cá nhân của các sáng lập viên và họ phải chịu trách
nhiệm vô hạn về những thiệt hại phát sinh. Chỉ sau khi đợc cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, với t cách là chủ thể quyền sở hữu tài sản công ty
mới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình.
Các thành viên công ty có thể thỏa thuận việc công ty tiếp nhận các nghĩa
vụ đã phát sinh trớc khi đăng ký kinh doanh nếu các nghĩa vụ đó phát sinh
do từ việc thành lập công ty.
29

×