Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Bài tập tư pháp quốc tế về tố tụng dân sự quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.79 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

*****

TỐ TỤNG DÂN SỰ QUỐC TẾ
Môn học: Tư pháp quốc tế
Giảng viên: ThS.NCS. Trần Thị Nguyệt
Lớp học phần: Tư pháp quốc tế (121) _01

Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2022


Tình huống:
Chị Nguyễn Xuân A (quốc tịch Việt Nam, hộ khẩu thường trú tại huyện VX thuộc
tỉnh L, Việt Nam). Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2020, do đi sang thăm bạn bè ở Thủ
Đô Viêng Chăn, Lào, chị quen và có quan hệ tình cảm với với anh M (quốc tịch Lào, có
hộ khẩu tại thủ đơ Viêng Chăn) và sau đó chị đã mang thai. Tháng 2/2020 chị về Việt
Nam và vào tháng 12/2020, chị đã sinh con là cháu Q (hiện 11 tháng tuổi) tại bệnh viện
tỉnh L, Việt Nam. Nay anh M không quan tâm đến con chung và cũng không thực hiện
nghĩa vụ làm cha nên chị Xuân A muốn thực hiện thủ tục kiện ra Tịa án đề nghị cơ quan
có thẩm quyền xác nhận cha cho con và đòi cấp dưỡng cho cháu bé. Biết rằng cả chị A và
anh M đều là những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Anh M không đồng ý với đơn khởi kiện trên vì cho rằng mình khơng phải là cha
của cháu Q và khơng có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Câu hỏi:
1

Xác định quan hệ dân sự trên có phải quan hệ dân sự thuộc đối tượng điều
chỉnh của Tư pháp Quốc Tế khơng?


2

Tịa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án (Nêu rõ căn cứ pháp lý)?

3

Vấn đề chọn Luật áp dụng trong trường hợp này?

4

Về Trình tự, thủ tục để giải quyết vụ án. (Giám định, các vấn đề cần chứng
minh, chứng cứ, ủy thác tư pháp...)

2


MỤC LỤC

Bài làm
1

Vụ việc có thuộc phạm vi điều chỉnh của TPQT hay không?

3


Thứ nhất, Quan hệ xã hội giữa cháu Q và anh M thuộc quan hệ hơn nhân và
gia đình.
Trong tình huống, chị A có nhận định anh M chính là cha đẻ của con chị và có mong
muốn anh M sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng cháu Q. Nếu cháu Q là con của anh M thì anh

M có nghĩa vụ cấp dưỡng cháu Q. Đây là quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng.
Căn cứ tại khoản 24 Điều 3 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014: “Cấp dưỡng là việc
một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người khơng sống chung với mình mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng
trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà khơng có
khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc người gặp khó khăn, túng
thiếu theo quy định của Luật này”.
Và Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên khơng
có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình trong trường hợp khơng sống
chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con (Điều
110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Mặt khác, quan hệ cấp dưỡng trên thuộc quan hệ tài sản – là một đối tượng điều chỉnh
của luật hơn nhân và gia đình. Do đối tượng điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình, cụ thể là quan hệ
nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa những người
thân thích ruột thịt khác. Trong đó quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội phát sinh giữa
các thành viên trong gia đình về những lợi ích tài sản.

Thứ hai, Quan hệ giữa chị A và anh M là quan hệ hơn nhân gia đình có yếu tố
nước ngồi

4


Trong tình huống trên, quan hệ giữa chị A và anh M là quan hệ hơn nhân gia đình có
yếu tố nước ngồi do trong quan hệ này có ít nhất một trong hai bên là anh M là người
nước ngoài, căn cứ theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014,
“Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ hơn nhân và gia đình mà
ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi; …”
Bên cạnh đó, Do có xung đột về lợi ích, chị A đã kiện anh M lên tòa án để đảm vào

anh M thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cháu Q nên đây là một vụ việc dân sự. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, một trong những căn cứ để xác
định một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi là khi có ít nhất một trong các bên tham gia
là cá nhân nước ngoài. Do vậy, có thể xác định được đây là một vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngồi.
Kết luận: Trong tình huống trên, quan hệ giữa chị A và anh M là quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi và thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Chủ thể của quan hệ
này là chị A (nguyên đơn), anh M (bị đơn) và cháu Q (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan).
Địa vị pháp lý của các chủ thể
Địa vị pháp lý là các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho mỗi chủ thể trong một
quan hệ pháp luật. Như đã chứng minh ở mục trên, quan hệ pháp luật được đặt ra trong
đề bài thuộc sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế, và nó có khả năng đồng thời được điều
chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau – pháp luật Việt Nam (nơi cư trú của người
yêu cầu cấp dưỡng) hoặc pháp luật của Lào (nơi cư trú của người cấp dưỡng). Do đó, để
biết được các quyền và nghĩa vụ của một chủ thể trong một quan hệ pháp luật, trước hết
chúng ta cần xác định pháp luật của quốc gia nào điều chỉnh quan hệ đó.

Các chủ thể trong tranh chấp hơn nhân gia đình này được xác định là:
Nguyên đơn: chị A, công dân Việt Nam.
5


Bị đơn: anh M, cơng dân Lào.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: cháu Q (11 tháng tuổi), con của hai người.
Địa vị pháp lý của nguyên đơn
Nguyên đơn của tranh chấp này là chị A. Chị A là một chủ thể của quan hệ tố tụng dân
sự quốc tế.
Chị A là một chủ thể của tư pháp quốc tế. Tư cách chủ thể của một cá nhân trong quan
hệ tư pháp quốc tế được quyết định bởi (i) năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và năng

lực hành vi dân sự) và (ii) sự tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước
ngồi.
Theo Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam và Lào, NLPL và NLHVDS của
cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà cá nhân đó là công dân. Như vậy, do
chị A là công dân Việt Nam, nên pháp luật của Việt Nam về vấn đề này sẽ quyết định
năng lực chủ thể của chị A. (i)
Theo pháp luật Việt Nam, “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân có quyền dân sự và nghĩa dân sự”; “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân
sự như nhau” và “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết.”. Điều 18 Bộ luật dân sự 2015 quy định không hạn chế năng
lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không
bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy định.”
Theo quy định tại Điều 19 về “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân”, thì: “Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Đề bài cũng đã nói rõ chị A có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, như vậy ta hiểu chị A
có năng lực tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam.

6


Bên cạnh đó, chị A đang tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự quốc tế với tư cách
là nguyên đơn trong tranh chấp về hôn nhân gia đình. Quan hệ này phát sinh khi chị A
kiện anh M ra tòa với yêu cầu xác định cha cho con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con (ii)
Như vậy chị A có đầy đủ tư cách chủ thể. Chính vì vậy, chị A có quyền tham gia quan
hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó, và năng lực của chị A khơng bị hạn chế.
Quan hệ tranh chấp này được pháp luật Việt Nam điều chỉnh (như đã chứng minh ở
phần 1), do đó địa vị pháp lý của chị A được pháp luật Việt Nam quyết định. Cụ thể, chị
có một số quyền và nghĩa vụ sau:





Quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 70 BLTTDS 2015);
Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn (Điều 71 BLTTDS 2015);
Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật. Ví dụ như quyền yêu cầu Tịa
án buộc người khơng tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa
vụ, Điều 119 LHNGĐ 2014).

Địa vị pháp lý của bị đơn
Anh M là bị đơn trong tranh chấp này.
Anh M là một chủ thể của tư pháp quốc tế. Tư cách chủ thể của một cá nhân trong
quan hệ tư pháp quốc tế được quyết định bởi (i) năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự) và (ii) sự tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước
ngoài.
Theo Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam và Lào, NLPL và NLHVDS của
cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà cá nhân đó là cơng dân. Như vậy, do
anh là cơng dân Lào, pháp luật của Lào về vấn đề này sẽ quyết định năng lực chủ thể của
anh M. (i)
Anh M đang tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự quốc tế với tư cách là bị đơn
trong tranh chấp về hơn nhân gia đình. (ii)

7


Như vậy anh M là một chủ thể trong một quan hệ tố tụng dân sự. Quan hệ này được
pháp luật Việt Nam điều chỉnh (như đã chứng minh ở phần 1), do đó địa vị pháp lý của
anh cũng được pháp luật Việt Nam quyết định.
Cụ thể, anh M có một số quyền và nghĩa vụ sau:





Quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 70 BLTTDS 2015).
Quyền và nghĩa vụ của bị đơn (Điều 72 BLTTDS 2015).
Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật. Ví dụ như nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với con chưa thành niên khi không sống chung với con (Điều 110
LHNGĐ 2014).

Địa vị pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tranh chấp là cháu Q.
Về tư cách chủ thể, cháu Q mới 11 tháng tuổi, chưa đủ 6 tuổi nên không có năng lực
hành vi tố tụng dân sự (Khoản 4 Điều 69 BLTTDS 2015)
Do đó, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của cháu
tức chị A thực hiện.
Cụ thể, cháu Q có các quyền và nghĩa vụ của đương sự; quyền và nghĩa vụ của người
có quyền và nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 70, 73 BLTTDS 2015 và các quyền
khác theo quy định pháp luật (ví dụ quyền quyền u cầu Tịa án buộc người khơng tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ, Điều 119 LHNGĐ 2014).
2.

Tồ án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án?
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án trên là Tòa án nhân dân tỉnh L.
Hành vi khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng của chị A là hành vi dân sự có yếu tố nước ngồi

mang tính đơn phương vậy nên thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc về Tòa Án.

8



Các Hiệp định TTTP đều thống nhất quy định Tòa án nơi thường trú của nguyên đơn
(bên yêu cầu cấp dưỡng sẽ có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con )
(Điều 23.2, Hiệp định Việt Nam - Cộng hoà Séc và Slovakia; Điều 30, Hiệp định Việt
Nam - Lào; Điều 29, Hiệp định Việt Nam - Nga; Điều 18.8, Hiệp định Việt Nam - Trung
Quốc. Điều 40, Hiệp định Việt Nam - Lào; Điều 42, Hiệp định Việt Nam - Nga).
Căn cứ theo khoản 1, khoản 4 điều 29 Hiệp định tương trợ tư pháp dân về dân sự và
hình sự giữa nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào thì việc xác định cha mẹ cho con và truy nhận con ngoài giá thú tuân theo pháp
luật của Nước ký kết nơi người con cư trú vào thời điểm có đơn yêu cầu. Và cơ quan có
thẩm quyền giải quyết vấn đề được quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 của Điều
này là cơ quan của Nước ký kết nơi người con cư trú.
Theo đó, hiện cháu Q đang cư trú tại Việt Nam nên việc giải quyết vụ án trên sẽ tuân
theo pháp luật Việt Nam
Căn cứ theo điều 30 Hiệp định tương trợ tư pháp dân về dân sự và hình sự giữa nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào:
“1. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà
người yêu cầu cấp dưỡng là cơng dân.
2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng của những người nói tại
khoản 1 Điều này là cơ quan của Nước ký kết nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.
3. Cơ quan của các Nước ký kết phải áp dụng các biện pháp cần thiết theo pháp luật của
nước mình để đảm bảo việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Toà
án của các Nước ký kết.”
Như vậy, việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng
là phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu cấp dưỡng. Do đó, chị Nguyễn Xuân A
(người nộp đơn yêu cầu) hiện đang cư trú tại Việt Nam nên theo quy định tại khoản 2

9



Điều 30 nói trên thì Cơ quan có thẩm quyền giải quyết là cơ quan của nước CHXHCN
Việt Nam.
(Ngoài ra: Nếu chị A đang cư trú tại Lào thì Cơ quan của Lào có thẩm quyền giải quyết)
Khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về thẩm quyền chung của Tòa án
Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi có quy định như sau:
“Tịa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
trong những trường hợp sau đây:
a) Bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
b) Bị đơn là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức có
chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động
của chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam;
c) Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
d) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam hoặc các đương sự là
người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
đ) Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở
Việt Nam, đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên lãnh thổ Việt Nam hoặc công việc
được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam;
e) Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở
ngồi lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân Việt Nam hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.”
Theo đó, vụ việc trên thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam. Mặt khác,
Khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền của TAND cấp tỉnh
như sau:

10


“1. Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy

định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều
35 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định
tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của Bộ
luật này;
c) Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.”
Lưu ý: Trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết là vì:
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật trọng tài chỉ cho phép giải quyết các tranh chấp
thương mại hoặc tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại bằng trọng tài theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó Hợp
đồng tương trợ tư pháp Việt Nam Lào cũng không ghi nhận, cho phép trọng tài giải quyết
án hôn nhân gia đình.
Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định thẩm quyền của trọng tài được giải
quyết:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài”.
Tóm lại, trọng tài quốc tế chỉ có thẩm quyền hợp pháp để giải quyết tranh chấp nếu
có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp được làm bởi các bên tranh chấp (trừ trường hợp
11


ngoại lệ). Thỏa thuận trọng tài phải là biểu hiện của sự thống nhất ý chí giữa các bên tranh
chấp chứ khơng phải là sự biểu hiện của ý chí đơn phương.
3.

Pháp luật điều chỉnh
Đây là một tranh chấp hôn nhân gia đình, cụ thể là về vấn đề xác định cha cho con và


nghĩa vụ cấp dưỡng của cha đối với người con chưa thành niên mà mình khơng trực tiếp
nuôi dưỡng mà pháp luật Việt Nam sẽ là pháp luật điều chỉnh tranh chấp này.
Theo Khoản 1 Điều 30 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước
CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào 1998 (Hiệp định tương trợ tư pháp Việt
Nam và Lào): “1. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của Nước
ký kết mà người yêu cầu cấp dưỡng là công dân.”
Điều 122 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định vấn đề áp dụng pháp luật đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi như sau:
“1. Các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó.
2. Trong trường hợp Luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu về
việc áp dụng pháp luật nước ngồi thì pháp luật nước ngồi được áp dụng, nếu việc áp
dụng đó khơng trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 2 của Luật này.
Trong trường hợp pháp luật nước ngồi dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng
pháp luật về hơn nhân và gia đình Việt Nam.

12


3. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có dẫn chiếu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngồi được áp
dụng.”
Về vấn đề xác định quan hệ cha con có yếu tố nước ngồi khi có tranh chấp
Điều 128 Luật hơn nhân gia đình năm 2014 quy định về xác định cha, mẹ, con có yếu
tố nước ngồi như sau:

“1. Cơ quan đăng ký hộ tịch Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ,
con mà khơng có tranh chấp giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, giữa cơng
dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở nước ngoài, giữa người nước ngoài
với nhau mà ít nhất một bên thường trú tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về hộ
tịch.
2. Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam giải quyết việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố
nước ngồi đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88, Điều 89, Điều 90, khoản 1,
khoản 5 Điều 97, khoản 3, khoản 5 Điều 98 và Điều 99 của Luật này; các trường hợp
khác có tranh chấp.”
Tịa án có thẩm quyền của Việt Nam, cụ thể là Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngồi đối với trường hợp cha,
mẹ không thừa nhận con.
Tuy nhiên, trong trường hợp trên, cha có quốc tịch Lào (khu vực biên giới của Việt
Nam). Vì vậy, Tịa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của cơng dân Việt Nam có thẩm
quyền giải quyết việc nhận cha, mẹ, con.
Về vấn đề xác định nghĩa vụ cấp dưỡng
Điều 129 Luật hơn nhân gia đình năm 2014 quy định như sau:

13


“1. Nghĩa vụ cấp dưỡng tuân theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư
trú. Trường hợp người u cầu cấp dưỡng khơng có nơi cư trú tại Việt Nam thì áp dụng
pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng là công dân.
2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng của người quy định tại
khoản 1 Điều này là cơ quan của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.”
Người cấp dưỡng ở đây là người mẹ, hiện đang có quốc tịch tại Việt Nam.
4.

Ưu, nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án

Trong vụ việc của chị A nêu trên, một số ưu điểm của phương thức giải quyết bằng

Tòa án và lý do chị A lựa chọn phương thức này là:
Về tính chất pháp lý của Tòa án: Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh quyền lực Nhà
nước nên phán quyết của Tịa án có tính cưỡng chế cao và được đảm bảo hiệu lực thi
hành. Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Tòa án vốn là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và hay được người dân áp
dụng đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình…Phán quyết của Tịa đảm bảo
thi hành bằng quyền lực của Nhà nước. Nếu các bên không chấp hành quyết định, bản án
của Tịa thì sẽ bị cưỡng chế bởi cơ quan thi hành án, tức là phản quyết của Tịa (nếu
khơng bị kháng cáo, kháng nghị) thì sẽ bắt buộc các bên phải thi hành.
Vì vậy, chị A sẽ chắc chắn rằng quyền và lợi ích chính đáng của mình sẽ được Nhà
nước bảo vệ.
Về nguyên tắc xét xử cơng khai của Tịa án: có tính răn đe đối với những đối tượng
vi phạm pháp luật.
Khi đưa vụ việc ra Tịa án, chị A mong rằng thơng qua câu chuyện của mình, bất cứ ai
cũng có quyền tin tưởng vào sự bảo hộ của pháp luật mỗi nước dành cho cơng dân của
nước mình. Các chế tài của pháp luật dành cho các đối tượng có hành vi vi phạm là một
bài học.
14


Đây cũng là một lợi thế đáng kể của Tòa án; vì nó có ý nghĩa răn đe và là bài học cho
tất cả mọi người, đặc biệt là các ông bố đã chối bỏ đứa con của mình, không làm trịn
nghĩa của một người cha và coi thường tính cơng bằng của pháp quyết tại Tịa án.
Về chi phí tố tụng tại Tịa án: chi phí thấp, tiết kiệm hơn cho với phương thức tố tụng
Trọng tài.
Hầu hết các vụ việc đều có thể giải quyết được thơng qua con đường Tịa Án. Chi phí
tố tụng tại Tịa án thấp hơn và tiết kiệm hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp tại
Trọng tài.

Như vậy, chị A vừa được giải quyết đơn khởi kiện của mình mà vừa tiết kiệm một
khoản chi phí đáng kể.
Về kháng cáo, kháng nghị quyết định, bản án của Tòa án: Phán quyết của Tịa án
thường có thể tiếp tục trải qua thủ tục kháng nghị, kháng cáo nên có thể thay đổi.
Quy định nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử là một quy định xét xử vơ cùng quan trọng
của Tịa án các cấp. Để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án,
bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, nhiều quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ
án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Tịa án để thực hiện ngun
tắc đó trong thực tế.
Như vậy, chị A hồn tồn có thể kháng cáo quyết định, bản án của Tòa nhằm đòi lại
quyền lợi cho cháu Q và mình nếu có lý do cho rằng phán quyết của Tịa có sự nhầm lẫn,
sai sót…
Về q trình tiến hành điều tra: Tịa án - đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều
kiện tốt hơn các trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra; có quyền cưỡng chế, triệu tập
bên thứ ba đến tòa.
Dựa vào các căn cứ pháp lý, Tòa án quốc gia tại Việt Nam có thẩm quyền sẽ giải quyết
vụ việc của chị A. Do chị A đang cư trú tại Việt Nam nên q trình chị A làm việc với Tịa
15


án sẽ diễn ra dễ dàng hơn, như thủ tục gửi đơn kiện, Tòa triệu tập và lấy lời khai của chị
A…
Mặt khác, thông qua các Hiệp định tương trợ tư pháp, Công ước Tống đạt giấy tờ tư
pháp và ngoài tư pháp… mà Việt Nam là thành viên, các thủ tục về tống đạt giấy tờ, thực
hiện ủy thác tư pháp sẽ được thực hiện dễ dàng hơn.
Nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng Tòa án:
Thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó, Tịa
án có điểm khác so với trọng tài ở quy tắc tố tụng này là do việc xét xử của Tịa án mang
tính nghi thức nên việc áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về địa điểm và chứng cứ
nói riêng là rất chặt chẽ. Thêm nữa, Tòa án là cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà

nước. Việc sử dụng quyền lực cơng của nhà nước phải theo trình tự nghiêm ngặt, tuân thủ
quy định của pháp luật nên không thể linh hoạt theo sự lựa chọn của các đương sự như
đối với tố tụng trọng tài. Vì thế, giải quyết tranh chấp bằng tịa án đơi khi khiến đương sự
gặp khó khăn.do khơng am hiểu quy định về thủ tục tố tụng. Vì vậy chị A có thể sẽ tốn
thời gian để chuẩn bị các giấy tờ cần thiết, hoặc gặp khó khăn trong việc chứng minh nếu
anh M khơng hợp tác.
Phán quyết của tịa án thường bị kháng cáo. Q trình tố tụng có thể bị trì hỗn và kéo
dài; có thể phải qua nhiều cấp xét xử, Quy trình tố tụng tại tịa án có thể bị trì hỗn và
thường kéo dài hơn so với tố tụng trọng tài. Bởi:


Thứ nhất, các tịa án quốc gia bị q tải cơng việc



Thứ hai, tịa án quốc gia có các cấp thẩm quyền khác nhau (Tòa sơ thẩm, Tòa
phúc thẩm và Tòa án tối cao). Trọng tài hay Tòa án

Điều này khiến cho các đương sự tổn thất về tiền bạc cũng như thời gian khi các bên
có quyền kháng cáo bản án theo quy định. Vì vậy nếu chị A có thể kháng cáo thì anh M
cũng có thể kháng cáo, dẫn đến thời gian giải quyết sẽ bị kéo dài.

16


Trình độ chun mơn của thẩm phán thường khơng cao bằng trọng tài viên. Đối với tố
tụng Tòa án, Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp được bổ nhiệm theo pháp luật quốc gia
cho nên chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm đối với kiến thức áp dụng pháp luật quốc
tế.khi giải quyết các loại vụ việc tranh chấp thương mại.
Ngồi ra, trong những trường hợp có tính chất kéo dài, có thể có các thẩm phán kế tiếp

nhau xét xử vụ kiện chứ khơng đảm bảo tính xun suốt về chủ thể như của trọng tài.
Thủ tục giải quyết vụ án

5

Người khởi kiện: Nguyễn Xuân A
Ngươi bị kiện: anh M
Bước 1: Đơn khởi kiện và thông tin cần thiết tới Tịa án có thẩm quyền
Chị A có thể tự mình hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau
đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. (Điều 186 BLTTDS 2015)
Chị A có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên,
địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của chị
A; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:


Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện.



Tên Tịa án nhận đơn khởi kiện.



Tên, nơi cư trú, làm việc của chị A
Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tịa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó:




Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân

17




Tên, nơi cư trú, làm việc của anh M. Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc
hoặc trụ sở của ANH m thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở
cuối cùng của anh M.




Tên, nơi cư trú của cháu Q
Quyền, lợi ích hợp pháp của chị Xuân A bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu
cầu Tòa án giải quyết đối với anh M, cháu Q



Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có).



Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.



Chứng cứ: Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp của chị Xuân A bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà

chị A khơng thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải
nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của chị A bị
xâm phạm. Chị A bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu
cầu của Tịa án trong q trình giải quyết vụ án.

Căn cứ Điều 473 BLTTDS 2015, chị Xuân A phải ghi đầy đủ họ, tên, địa chỉ, quốc tịch
của a M trong đơn khởi kiện kèm theo giấy tờ, tài liệu xác thực họ, tên, địa chỉ, quốc tịch
của anh M.
TH khơng xác định được địa chỉ của anh M thì chị Xn A có thể u cầu Tịa án Việt
Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Lào xác định địa chỉ của anh M hoặc có thể yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án
Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của Lào tuyên bố anh M mất tích hoặc đã chết
theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật Lào hoặc điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Lào trả lời cho Tịa án Việt Nam khơng xác
định được địa chỉ của anh M ở Lào hoặc sau 06 tháng mà khơng có trả lời thì Tịa án trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
18


Bước 2: Gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu chứng cứ như nộp trực tiếp, dịch vụ
bưu chính, gửi trực tuyến theo căn cứ Điều 190 BLTTDS 2015
Sau khi gửi đơn khởi kiện, chị A phải nộp án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Bước 3: Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện (Điều 191 BLTTDS 2015)
Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải nhận đơn khởi kiện do chị A nộp trực tiếp tại
Tịa án hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa án
nhận đơn khởi kiện được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tịa án in ra bản giấy
và phải ghi vào sổ nhận đơn.
Khi nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, Tịa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận
đã nhận đơn cho chị A. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu chính thì trong thời

hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải gửi thông báo nhận đơn cho chị
A. Trường hợp nhận đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tịa án phải thơng
báo ngay việc nhận đơn cho chị A qua Cổng thông tin điện tử của Tịa án (nếu có).
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tịa
án phân cơng một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem
xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:



u cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn
nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1

Điều 317 của Bộ luật này.
• Chuyển đơn khởi kiện cho Tịa án có thẩm quyền và thơng báo cho người khởi


kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó khơng thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án.

19


Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán quy định tại khoản 3 Điều này phải được ghi
chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho chị A qua Cổng thơng tin điện tử của Tịa án
(nếu có).
Bước 4: Thụ lý vụ án và thông báo thụ lý vụ án (Điều 195 và 196 BLTTDS 2015)
Tòa án thụ lý vụ án, ngày mở phiên họp, phiên tòa được quy định tại Điều 476

BLTTDS 2015.
Tịa án phải gửi thơng báo thụ lý vụ án, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải (sau đây gọi chung là
phiên họp hòa giải), mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa trong
văn bản thông báo thụ lý vụ án cho anh M ở Lào.
Thời hạn mở phiên tòa, phiên họp hòa giải được xác định như sau:


Phiên họp hịa giải phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng,
kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải (nếu



có) được ấn định cách ngày mở phiên họp hịa giải chậm nhất là 01 tháng.
Phiên tòa phải được mở sớm nhất là 09 tháng và chậm nhất là 12 tháng, kể từ ngày
ra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Ngày mở lại phiên tịa (nếu có) được ấn định
cách ngày mở phiên tòa chậm nhất là 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản

4 Điều 477 của BLTTDS 2015.
• Tịa án phải gửi thơng báo thụ lý việc dân sự, trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm
mở phiên họp, mở lại phiên họp giải quyết việc dân sự trong văn bản thông báo thụ
lý việc dân sự cho anh M tại Lào.
• Phiên họp phải được mở sớm nhất là 06 tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ
ngày ra văn bản thông báo thụ lý việc dân sự. Ngày mở lại phiên họp giải quyết
việc dân sự (nếu có) được ấn định cách ngày mở phiên họp lần đầu chậm nhất là
01 tháng.
Thông báo thụ lý vụ án

20



Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo
bằng văn bản cho chị A, anh M, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ
án.
Trường hợp chị A có đơn u cầu Tịa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu, chứng cứ thì
kèm theo thơng báo về việc thụ lý vụ án, Tòa án gửi cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp.
Bước 5: Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án
Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án của Thẩm phán được phân cơng thụ lý vụ án, Chánh
án Tịa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư,
khách quan, ngẫu nhiên.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tịa án quyết định
phân cơng Thẩm phán giải quyết vụ án.
Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tịa án phân
cơng Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định của Bộ luật
này.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục
tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tịa án phân cơng Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm
vụ; trường hợp đang xét xử mà khơng có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử
lại từ đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
Bước 6: Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử
Tòa án thực hiện việc tống đạt theo văn bản tống đạt của Tòa án cho anh M theo 1
trong các phương thức tống đạt của Khoản 1 Điều 474 BLTTDS 2015.

21


Nếu Tòa án thực hiện phương thức tống đạt quy định tại điểm a và điểm b khoản 1
Điều 474 BLTTDS 2015 thì được thực hiện theo Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và

hình sự giữa Việt Nam - Lào.
Trường hợp các phương thức tống đạt quy định tại khoản 1 Điều 474 BLTTDS 2015
thực hiện không có kết quả thì Tịa án tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan đại
diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Lào, Tòa án đang giải quyết vụ việc
hoặc tại nơi cư trú cuối cùng của anh M tại Việt Nam trong thời hạn 01 tháng và thông
báo trên Cổng thông tin điện tử của Tịa án (nếu có), Cổng thơng tin điện tử của cơ quan
đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở Lào; trường hợp cần thiết, Tịa án
có thể thơng báo qua kênh dành cho người nước ngồi của Đài phát thanh hoặc Đài truyền
hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.
Xử lý kết quả tống đạt của Tòa án và kết quả thu thập chứng cứ căn cứ theo Điều 477
BLTTDS 2015
Khi nhận được kết quả tống đạt và kết quả thu thập chứng cứ ở Lào, tùy từng trường
hợp cụ thể mà Tịa án xử lý như sau:


Khơng mở phiên họp hòa giải khi đã nhận được kết quả tống đạt theo một trong
các phương thức quy định tại khoản 1 Điều 474 của BLTTDS 2015, anh M đã cung
cấp đầy đủ lời khai, tài liệu, chứng cứ và vụ án dân sự thuộc trường hợp khơng tiến



hành hịa giải được quy định tại Điều 207 của BLTTDS 2015.
Hoãn phiên họp hịa giải nếu đã nhận được thơng báo về việc tống đạt đã hoàn
thành nhưng đến ngày mở phiên họp hịa giải mà Tịa án vẫn khơng nhận được lời
khai, tài liệu, chứng cứ của anh M và họ không đề nghị được vắng mặt tại phiên
họp hòa giải. Nếu đến ngày mở lại phiên họp hòa giải mà anh M ở Lào vẫn vắng
mặt thì Tịa án xác định đây là trường hợp khơng tiến hành hịa giải được.

Tịa án hỗn phiên tịa trong các trường hợp sau đây:



Anh M đề nghị hỗn phiên tịa lần thứ nhất.

22




Anh M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét

xử vắng mặt.
• Tịa án khơng nhận được văn bản thơng báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai,
tài liệu, chứng cứ của anh M ở Lào và đến ngày mở phiên tịa anh M khơng có mặt,
khơng có đơn đề nghị Tịa án xét xử vắng mặt họ thì Tịa án hỗn phiên tịa. Ngay
sau khi hỗn phiên tịa thì Tịa án có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp hoặc cơ quan đại
diện Việt Nam ở Lào thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa
án cho anh M trong trường hợp Tòa án thực hiện việc tống đạt thông qua các cơ
quan này theo một trong các phương thức quy định tại các điểm a, b và d khoản 1


Điều 474 của BLTTDS 2015.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản của Tòa án, cơ quan đại
diện Việt Nam ở Lào phải thơng báo cho Tịa án về kết quả thực hiện việc tống đạt



văn bản tố tụng cho anh M.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Bộ Tư pháp nhận được văn bản của Tòa án, Bộ
Tư pháp phải có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền ở Lào trả lời về kết quả


thực hiện ủy thác tư pháp.
• Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có
thẩm quyền ở Lào gửi về thì Bộ Tư pháp phải trả lời cho Tịa án.
• Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chuyển văn bản của Tịa án cho cơ quan có thẩm
quyền ở Lào mà khơng nhận được văn bản trả lời thì Bộ Tư pháp phải thơng báo
cho Tịa án biết để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Tòa án xét xử vắng mặt anh M trong các trường hợp sau đây:


Tịa án đã nhận được kết quả tống đạt theo một trong các phương thức tống đạt quy
định tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật này, anh M đã cung cấp đầy đủ lời khai, tài

liệu, chứng cứ và đương sự đề nghị Tịa án xét xử vắng mặt họ.
• Tịa án đã thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều 474 của Bộ luật này.
• Tịa án khơng nhận được thơng báo của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại
khoản 4 Điều này về kết quả thực hiện việc tống đạt cho đương sự ở nước ngồi.
Nếu Tịa án nhận được văn bản thơng báo về việc tống đạt không thực hiện được
do họ, tên, địa chỉ của anh M không đúng hoặc anh M đã chuyển đến địa chỉ mới
nhưng không rõ địa chỉ mới thì Tịa án giải quyết như sau:
23




Tòa án yêu cầu chị Xuân A và người thân thích trong nước của anh M (nếu có)
cung cấp địa chỉ đúng hoặc địa chỉ mới của anh M. Tòa án tiếp tục tống đạt thông
báo thụ lý cho anh M theo địa chỉ do chị A, người thân thích trong nước của anh M




cung cấp.
Nếu nguyên đơn, người thân thích trong nước của anh M khơng cung cấp được
hoặc người thân thích trong nước của anh M từ chối cung cấp địa chỉ đúng hoặc
địa chỉ mới của anh M hoặc anh M khơng có người thân thích ở Việt Nam thì Tịa
án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đồng thời, Tịa án giải thích cho
chị Xn A biết quyền u cầu Tịa án thơng báo tìm kiếm anh M vắng mặt tại nơi



cư trú hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố anh M mất tích hoặc đã chết.
Trường hợp ngun đơn là cơng dân Việt Nam yêu cầu ly hôn với anh M đang cư
trú ở Lào mà không thể thực hiện việc cung cấp đúng họ, tên, địa chỉ hoặc địa chỉ
mới của anh M theo yêu cầu của Tòa án mặc dù chị Xuân A, thân nhân của họ hoặc
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của anh M đã tiến hành xác minh tin
tức, địa chỉ của anh M đó nhưng khơng có kết quả thì chị Xn A u cầu Tịa án
thơng báo trên Cổng thơng tin điện tử của Tịa án (nếu có), Cổng thơng tin điện tử
của cơ quan đại diện Việt Nam ở Lào; trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của chị
Xuân A, Tòa án có thể thơng báo qua kênh dành cho người nước ngồi của Đài

phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.
• Trong trường hợp này, Tịa án khơng phải tống đạt lại văn bản tố tụng cho anh M.
Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày đăng thơng báo, Tịa án tiến hành xét xử vắng
mặt anh M.
Tòa án tiến hành mở phiên họp hòa giải giữa các bên theo Điều 205 BLTTDS 2015
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:








Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 BLTTDS 2015
Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác
Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng
Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án
Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
24




Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải
theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục

rút gọn theo Điều 208 BLTTDS 2015
• Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này.
Tòa án thực hiện thu thập chứng cứ tại Lào theo phương thức được quy định tại
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; theo đường ngoại giao đối được quy định
tại Điều 475 BLTTDS 2015.
Chứng cứ: Giấy giám định ADN, Giấy khai sinh của cháu Q
Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân anh M gửi cho Tòa án Việt
Nam căn cứ theo Điều 478 BLTTDS 2015.
Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của
Lào lập, cấp, xác nhận trong các trường hợp sau:
Giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt có cơng chứng, chứng thực đã được hợp
pháp hóa lãnh sự.
Giấy tờ, tài liệu đó được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật

Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tịa án Việt Nam cơng nhận giấy tờ, tài liệu do cá nhân cư trú ở Lào lập trong các
trường hợp sau đây:
• Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng Lào đã được dịch ra tiếng Việt có cơng chứng,
chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
• Giấy tờ, tài liệu được lập ở Lào được công chứng, chứng thực theo quy định của


pháp luật Lào và đã được hợp pháp hóa lãnh sự.
Giấy tờ, tài liệu do công dân Việt Nam ở Lào lập bằng tiếng Việt có chữ ký của
người lập giấy tờ, tài liệu đó và đã được cơng chứng, chứng thực theo quy định của
pháp luật Việt Nam.

-

Tòa án có thẩm quyền quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Điều 220 BLTTDS
2015

Bước 7: Phiên tòa sơ thẩm
25


×