Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nguyên tắc suy đoán vô tội theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 111 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----------***------------

TRẦN HỮU KHÁNH LINH
MSSV: 1753801013102

NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2017-2021
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. LÊ THỊ THÙY DƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Ngun tắc suy đốn vơ tội theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu do chính bản thân tôi thực hiện
theo sự hướng dẫn của Th.S Lê Thị Thùy Dương. Các nội dung được trình bày
trong khóa luận là trung thực.
Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan của mình.
Tác giả

Trần Hữu Khánh Linh


LỜI CẢM ƠN
Tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Ban Điều hành Khoa luật Hình sự,
q thầy cơ Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện trong


việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp “Ngun tắc suy đốn vơ tội theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam”.
Đặc biệt, tác giả trân trọng cảm ơn Th.S Lê Thị Thùy Dương đã hướng dẫn tận
tình trong suốt q trình thực hiện khóa luận.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021.
Tác giả

Trần Hữu Khánh Linh


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUN TẮC SUY ĐỐN
VƠ TỘI........................................................................................................................ 6
1.1. Khái niệm chung về ngun tắc suy đốn vơ tội.............................................. 6
1.1.1. Khái niệm ngun tắc suy đốn vơ tội.........................................................6
1.1.2. Nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội.......................................................... 7
1.1.3. Ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội....................................................13
1.2. Mối quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội và các ngun tắc cơ bản
khác của Bộ luật Tố tụng hình sự........................................................................... 16
1.2.1. Mối quan hệ với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân......................................................................... 17
1.2.2. Mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án...........................17
1.2.3. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội..........................................................................................................................19
1.2.4. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của các cơ quan, người tiến
hành tố tụng......................................................................................................... 20
1.2.5. Mối quan hệ với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo....... 21
1.3. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một

số quốc gia..................................................................................................................22
1.3.1. Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật quốc tế................................ 22
1.3.2. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự của một số
quốc gia................................................................................................................25
1.4. Lược sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vô tội trong
pháp luật Việt Nam...................................................................................................30


1.4.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến ngun tắc suy đốn
vơ tội từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988........................30
1.4.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến nguyên tắc suy đốn
vơ tội từ năm 1988 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2015........................35
CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VƠ TỘI THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH........................................................ 41
2.1. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự42
2.1.1. Chủ thể thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội.......................................... 42
2.1.2. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.................................................... 47
2.1.3. Thời hạn tố tụng và các quyết định tố tụng...............................................49
2.2. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự.............. 51
2.2.1. Thời hạn truy tố vụ án hình sự và việc ra các quyết định tố tụng............ 52
2.2.2. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn........................................................... 55
2.3. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự............... 56
2.3.2. Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự.......................................................................................................................... 67
2.3.3. Ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn Giám đốc thẩm, Tái thẩm vụ
án hình sự.............................................................................................................70
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VƠ TỘI
TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN.............................................. 73
3.1. Thực trạng áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội tại Việt Nam.....................73
3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật tố tụng hình sự về ngun tắc suy đốn vơ

tội..........................................................................................................................73
3.1.2. Thực trạng áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội.......................................76
3.1.3. Ngun nhân dẫn đến các hạn chế và bất cập trong việc áp dụng ngun
tắc suy đốn vơ tội............................................................................................... 87


3.2. Một số định hướng nhằm hoàn thiện nguyên tắc suy đốn vơ tội trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam....................................................................... 91
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về ngun tắc suy đốn vơ
tội..........................................................................................................................91
3.2.2. Một số giải pháp khác............................................................................... 94
KẾT LUẬN................................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SĐVT

Suy đốn vơ tội

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng


LỜI NĨI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình tồn cầu hóa hiện nay,
các vấn đề liên quan đến quyền con người đang được thế giới nói chung, cũng như
Việt Nam nói riêng đặc biệt quan tâm. Để bảo vệ quyền con người, các quốc gia
trên thế giới khơng ngừng cải cách tư pháp, hồn thiện hệ thống pháp luật, tiến tới
xây dựng một nền tư pháp dân chủ, trong sạch, vững bền. Trong đó, tố tụng hình sự
là lĩnh vực được đặc biệt chú ý, bởi đây là lĩnh vực tác động trực tiếp đến quyền và
lợi ích của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền và lợi ích của người bị
buộc tội.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng tố hình sự, cụ
thể là người bị buộc tội, một số văn kiện quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc đã
đặt ra các nguyên tắc cơ bản, trong đó suy đốn vơ tội được xem là một trong những
nguyên tắc đặc thù và cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Đơn cử là, khoản 1
Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 đã quy định: “ Khơng
ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay khơng làm,
nếu những điều ấy khơng cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay
luật pháp quốc tế hiện hành” hay tại khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có
quyền được coi là vơ tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng
minh theo pháp luật…”. Tại Việt Nam, nguyên tắc suy đốn vơ tội được ghi nhận
như là một trong các quyền con người (khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013), là
một trong các nguyên tắc cơ bản của luật Tố tụng hình sự (Điều 13 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015), ngồi ra, ngun tắc suy đốn vơ tội cịn được các nhà làm luật
cụ thể hóa bằng nhiều quy định trong các văn bản pháp luật hình sự khác của nước
ta.

1


Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy ngun tắc suy đốn vơ

tội vẫn chưa được nhận thức và thực hiện thống nhất, toàn tiện mà cịn một vài bất
cập, vẫn cịn khơng ít người tiến hành tố tụng có cách hiểu sai lệch mang suy nghĩ
chủ quan, coi người bị buộc tội là người có tội. Việc nhận thức và áp dụng nguyên
tắc suy đoán vơ tội vẫn chưa đồng bộ, thống nhất, tình trạng “án tại hồ sơ” vẫn còn
tồn tại gây nên bức xúc trong người dân.
Việc nghiên cứu nội dung, vai trò, ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội là nội
dung có ý nghĩa to lớn về mặt khoa học pháp lý và áp dụng thực tiễn. Áp dụng
nguyên tắc suy đốn vơ tội một cách thống nhất sẽ làm cho hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm được thực hiện một cách hiệu quả, hoạt động xác định sự
thật khách quan vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện một cách chính
xác, tồn diện và đầy đủ, hạn chế tình trạng oan, sai.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tại Nguyên tắc suy đoán vơ tội theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam làm Khóa luận tốt nghiệp
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, ngun tắc suy đốn vơ tội lần đầu được quyết định tại Điều 10 Bộ
luật tố tụng hình sự 1988 - Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam và được
các nhà lập pháp không ngừng cải tiến thông qua các văn bản pháp luật như Hiến
pháp năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự
2015,…Đến nay đã có nhiều bài viết, cơng trình khoa học, tạp chí pháp lý liên quan
về vấn đề này. Có thể kể đến những bài viết được đăng trên các tạp chí nghiên cứu
khoa học chuyên ngành như: Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003
liên quan đến đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội theo tinh thần Hiến pháp 2013
góc nhìn từ thực tiễn vụ án hình sự (Trương Hồ Hải - tạp chí Nghề luật, số 4, năm
2015), Ngun tắc suy đốn vơ tội ngun tắc hiến định quan trọng trong Bộ luật
Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (Đào Trí Úc - tạp chí Kiểm sát, số 02, năm
2017), Mối qua hệ giữa ngun tắc suy đốn vơ tội và ngun tắc xác định sự thật

2



của vụ án (Nguyễn Duy Dũng - tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 12, năm 2015),
Quyền được suy đốn vơ tội theo luật nhân quyền quốc tế và những gợi mở cho việc
sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Vũ Cơng Giao, Nguyễn Minh Tâm - tạp
chí Nhà nước & Pháp luật, số 5, năm 2015), Về cơ chế thực thi ngun tắc suy đốn
vơ tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
(Nguyễn Tất Thành - tạp chí Tịa án nhân dân, số 5, năm 2016), Thực hiện ngun
tắc suy đốn vơ tội trong quy định về đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 (Vũ Gia Lâm - tạp chí Kiểm sát, số 12, năm 2016), u
cầu thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội trong giai đoạn xét xử (Phí Thành Chung tạp chí Tịa án nhân dân, số 12, năm 2017).
Bên cạnh đó cịn có các cơng trình nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên, luận văn thạc sĩ như: “Quyền được suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự Việt
Nam” (Nguyễn Đức Nguyên Vỵ, Ngô Quang Vũ, Nguyễn Việt Minh Thư - Cơng
trình nghiên cứu khoa học cấp trường lần thứ XVII năm học 2012 - 2013, TP. Hồ
Chí Minh), Ngun tắc khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tịa
án đã có hiệu lực (Phạm Minh Vương - Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh, năm 2013), Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam (Lâm Anh Tuấn - Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2016).
Trong các cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã phân tích khá đầy đủ về
ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên mỗi
cơng trình chỉ chủ yếu tập trung vào một khía cạnh nhất định, một giai đoạn tố tụng
nhất định hoặc nếu nghiên cứu toàn thể nội dung nguyên tắc suy đốn vơ tội thì
cũng dựa trên Bộ luật tố tụng hình sự 2003, chưa làm rõ được cái mới của nội dung
và tình hình áp dụng thực tiễn hiện nay như: Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam, (Nguyễn Thành Long - Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
năm 2011) hay Quyền được suy đốn vơ tội và vấn đề sửa đổi Hiến pháp năm 1992
(Võ Thị Kim Oanh, chủ nhiệm đề tài - Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học,

3



trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2012). Có lẽ do sự giới hạn về mục tiêu
nghiên cứu dẫn đến phạm vi nghiên cứu không thể mở rộng. Dẫu vậy, những cơ sở
lý luận, kiến nghị, giải pháp được đề cập và kết quả nghiên cứu của chúng mang ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong khoa học pháp lý hình sự và trong thực tiễn đấu
tranh phịng, chống tội phạm, là nguồn tư liệu quý báu để tác giả có thể kế thừa và
hồn thiện đề tài nghiên cứu này. Như vậy, đề tài “Nguyên tắc suy đoán vơ tội theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam” tuy không mới nhưng mang ý nghĩa riêng, nghiên
cứu về nguyên tắc suy đốn vơ tội một cách chi tiết, bao quát trên cơ sở pháp luật
hiện hành.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu ngun tắc suy đốn vơ tội theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
hướng đến phân tích chi tiết và toàn diện nội dung nguyên tắc suy đốn vơ tội theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng áp dụng nguyên tắc
này trên thực tiễn và đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hồn thiện ngun tắc
suy đốn vơ tội, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó đề tài có thể
trở thành tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu nguyên tắc suy đoán vô
tội và các vấn đề liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý, áp dụng thực tiễn và đề xuất những kiến nghị
nhằm hoàn thiện ngun tắc suy đốn vơ tội.
Việc nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi tồn quốc nhưng trong tình hình
dịch bệnh, việc xin số liệu khó khăn nên trong bài chỉ phân tích số liệu của một
quận của Thành phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp nghiên cứu

4



Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của học thuyết Mác - Lênin kết
hợp với các phương pháp như: phương phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp liệt kê,… để giải quyết vấn đề.
6. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung chính và Phần kết luận.
Lời nói đầu
Danh mục từ viết tắt
Phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đốn vơ tội;
- Chương II: Ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành;
- Chương III: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đốn vơ tội tại Việt Nam và
kiến nghị hồn thiện.
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

5


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI
1.1. Khái niệm chung về ngun tắc suy đốn vơ tội
1.1.1. Khái niệm ngun tắc suy đốn vơ tội
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một trong những nguyên tắc nền tảng của luật
TTHS, chi phối đến các nguyên tắc cơ bản khác của luật TTHS và quyết định tính
khách quan, cơng bằng của việc xác định sự thật vụ án.
Để làm rõ khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần hiểu khái niệm “nguyên
tắc”. “Thuật ngữ “nguyên tắc” theo tiếng La tinh là “principium” có nghĩa: 1)
Luận điểm cơ bản, luận điểm gốc của học thuyết; 2) Niềm tin, quan điểm đối với sự
vật; 3) Nguyên lý cấu trúc và hoạt động của dụng cụ, thiết bị” 1.

Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, thuật ngữ “nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ
bản đã được quy định để dùng làm cơ sở cho các mối quan hệ xã hội hay điều cơ
bản rút ra từ thực tế khách quan để chỉ đạo hành động”2.
“Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh “praesumptino” hay trong
tiếng anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho
đến khi có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó”3.
Cuối cùng, về thuật ngữ “vơ tội”. “Vơ tội là trạng thái bình thường của một
người, của một công dân khi chưa thực hiện hành vi nào mà theo luật TTHS hành vi
đó là hành vi phạm tội và họ chưa bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật”4.
Theo Từ điển Bách khoa luật học, “Suy đốn vơ tội là trạng thái mà theo đó
người bị buộc tội được suy đốn vơ tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa
Nguyễn Thành Long, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 20.
2
Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 1286.
3
Đỗ Đức Minh, Trần Quang Minh, Nguyên tắc suy đốn vơ tội: Khái niệm, nội dung và ý nghĩa, Suy đốn vơ tội (Kỷ
yếu hội thảo quốc tế), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 591.
4
Nguyễn Thành Long, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 21.
1

6


được chứng minh theo trình tự luật định”5. Khái niệm này đã chỉ rõ một trong
những nội dung quan trọng của SĐVT là người bị buộc tội chưa là người có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định. Tuy nhiên khái niệm trên chưa giải
quyết được vấn đề chủ thể nào có thẩm quyền kết luận một người là có tội hay

khơng có tội và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về chủ thể nào.
Hay theo Từ điển Bách khoa đương đại, “Suy đốn vơ tội là một trong những
nguyên tắc của nền tố tụng dân chủ, theo đó người bị buộc tội được SĐVT trong khi
việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa
được xác định bởi phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”6. Từ điển Bách
khoa đương đại đã khái quát khái niệm nguyên tắc SĐVT một cách khá đầy đủ và
toàn diện. Khái niệm trên đã chỉ rõ nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên
tắc của nền tố tụng dân chủ, giải quyết được vấn đề chủ thể có thẩm quyền kết luận
người bị buộc tội có hay khơng có tội và việc chứng minh tội phạm phải được thực
hiện theo trình tự, thủ tục luật định.
Qua các phân tích trên, theo tác giả, “Nguyên tắc SĐVT là một trong những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS, theo đó người bị buộc tội chưa là người có
tội và khơng thể bị đối xử như người có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật”.
1.1.2. Nội dung nguyên tắc suy đốn vơ tội
Ngun tắc SĐVT là một trong những ngun tắc nền tảng của nền tư pháp tố
tụng hình sự, có sự tác động qua lại với các nguyên tắc cơ bản khác của TTHS,
đóng vai trị thiết yếu trong việc đảm bảo sự thật khách quan, tính dân chủ, cơng
bằng, cơng khai, minh bạch của q trình TTHS.
Nội dung nguyên tắc SĐVT đã được quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 1988
và Điều 9 BLTTHS năm 2003 với nội dung: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Tuy
5

(Truy cập ngày 11/6/2021)

6

(Truy cập ngày 11/6/2021)
7



nhiên, việc quy định như vậy chưa thật sự đầy đủ và toàn diện. Trên cơ sở nghiên
cứu pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia, đánh giá hiệu quả áp dụng của nguyên tắc
SĐVT trong thực tiễn, cùng với việc tiếp cận và nghiên cứu quyền con người trong
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế trên. Cụ thể,
Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc SĐVT bao gồm những nội
dung sau:
*

Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã
có hiệu lực pháp luật
Việc tun bố một người là phạm tội và áp dụng các hình phạt đối với họ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền con người, số phận chính trị, pháp lý của họ; do đó chỉ
có Tịa án - cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, có thẩm quyền tuyên bố một cá
nhân có tội hay khơng có tội và áp dụng hình phạt đối với họ. Điều này có nghĩa,
một người có thể bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, nhưng người đó vẫn được xem
là vơ tội cho đến khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các
quyết định của các cơ quan THTT khác: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát khơng
có giá trị xác định một người có tội hay khơng. Ngun tắc này cũng được khẳng
định tại Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789: “Mọi người đều
được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội nếu xét thấy cần thiết phải bắt
giữ thì mọi sự cưỡng bức quá mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm
khắc”. Hay Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 quy
định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều được coi là vô tội cho đến khi một tịa án
cơng khai, nơi người đó đã có được tất cả những bảo đảm cần thiết để bào chữa
cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở pháp luật”.
Mặc dù Tịa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phán quyết một người có tội

hay khơng, nhưng việc phán quyết phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do
BLTTHS năm 2015 quy định7. Bản án kết tội của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tịa trên cơ sở tơn trọng sự thật khách quan của vụ án,
7

Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

8


tôn trọng quyền bào chữa của người bị buộc tội. Bất kỳ một phán quyết nào của Tòa
án được đưa ra mà không tuân theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
đều được xem là khơng có giá trị. Mọi sự vi phạm trình tự, thủ tục của Tịa án đều
có thể dẫn đến hậu quả pháp lý là bản án, quyết định do Tòa án đó tun sẽ bị Tịa
án cấp trên có thẩm quyền hủy, xét xử lại hoặc hủy, đình chỉ xét xử vụ án.
Ngoài điều kiện trên, bản án kết tội phải đáp ứng điều kiện thứ hai, là bản án
phải có hiệu lực pháp luật. Tại thời điểm bản án sơ thẩm được tuyên, chưa có hiệu
lực pháp luật ngay. Theo đó, người bị buộc tội chưa bị coi là người có tội. Theo
BLTTHS năm 2015, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật trong các trường hợp:
Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tịa án
khơng bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị8; Bản án phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày tuyên án9. Chỉ khi thuộc một trong các trường hợp trên, người
bị buộc tội mới bị coi là có tội.
Nội dung này của nguyên tắc SĐVT đòi hỏi cơ quan THTT, người THTT phải
đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án kết tội, không được áp đặt, đối xử
với người bị buộc tội như người có tội, không được để ý kiến chủ quan ảnh hưởng
đến q trình THTT, khơng định kiến hay đối xử bất công với người bị buộc tội;
ngay cả khi người bị buộc tội bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giam,
tạm giữ, họ chỉ bị hạn chế một số quyền nhất định trong giới hạn pháp luật quy định,

các quyền con người khác vẫn được tôn trọng và bảo đảm.
*

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng, người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là
mình vơ tội
Một nội dung quan trọng khác của ngun tắc SĐVT là trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội có
quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội10. Cơ sở lý luận của nội
Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Khoản 2 Điều 355, khoản 1 Điều 395 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
10
Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
8
9

9


dung trên đã được hình thành từ luật La Mã cổ đại: Trách nhiệm chứng minh thuộc
về người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ định. Các cơ quan THTT
khẳng định một người phạm tội, thì các cơ quan đó phải có trách nhiệm chứng minh.
“Người bị buộc tội là người phủ định mình khơng có tội, khơng có trách nhiệm
chứng minh”11. Nội dung trên được thể hiện trong pháp luật TTHS Việt Nam thông
qua quy định tại Điều 15, Điều 85 BLTTHS 2015. Việc quy định trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về cơ quan THTT, người bị buộc tội có quyền nhưng khơng có
buộc phải chứng minh mình vơ tội là hồn tồn phù hợp. Bởi lẽ, mối quan hệ trong
TTHS vốn là mối quan hệ giữa một bên là Nhà nước mà đại diện là cơ quan THTT
và bên còn lại là người bị buộc tội. Trong mối quan hệ này, người bị buộc tội luôn ở

vị trí yếu thế hơn, có ít tài lực, nhân lực để chứng minh mình vơ tội. Do đó, nếu quy
định người bị buộc tội buộc phải chứng minh mình vô tội sẽ là một quy định bất khả
thi và khơng phù hợp. Ở phía cịn lại, cơ quan THTT có các điều kiện để thực hiện
việc chứng minh tội phạm như: Đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo bài bản; có
trình độ, chun mơn, kinh nghiệm trong việc chứng minh tội phạm, xác định sự
thật khách quan của vụ án; có sự đầu tư về trang thiết bị, khoa học kỹ thuật phục vụ
công tác điều tra và được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, điều này
không đồng nghĩa với việc chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, cịn việc
chứng minh vơ tội thuộc về bên bị buộc tội. Đây là quan niệm sai làm và không phù
hợp với bản chất của nguyên tắc SĐVT.
Mặc dù người bị buộc tội không buộc phải chứng minh mình vơ tội nhưng khơng
có nghĩa là họ rơi vào thế bị động trong quá trình THTT. Để người bị buộc tội có
thể thực hiện quyền chứng minh vơ tội của mình, khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm
2015 quy định người bị buộc có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa trình bày
lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội,…
Nếu pháp luật La Mã mang quan điểm tuyệt đối hóa lời khai của người bị buộc
tội với quy định chứng cứ được rút ra từ lời nhận tội của bị cáo được coi là chứng
cứ tốt nhất thì theo pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể là khoản 2 Điều 98 BLTTHS
11

Nguyễn Thành Long, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, tr. 9-22
10


năm 2015, đã phủ định quan điểm trên với quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo
chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án và
không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội,
kết tội. Bởi trong thực tiễn THTT có khơng ít người bị buộc tội khai báo thành khẩn
với mục đích nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, che giấu một hành vi phạm tội

khác nghiêm trọng hơn, che giấu cho đồng phạm. Hay có thể là do bị ép cung, mớm
cung, nhục hình, bị buộc phải nhận tội… Nếu xem lời khai nhận tội của bị can làm
chứng cứ duy nhất và chỉ căn cứ vào đó để giải quyết vụ án là khơng khách quan,
toàn diện và rất dễ dẫn đến oan, sai. Trong trường hợp người bị buộc tội nhận tội thì
theo nguyên tắc SĐVT, họ vẫn chưa bị xem là người có tội cho đến khi có bản án
kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
*

Khi khơng đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo

trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội
Nội dung này của nguyên tắc SĐVT được thể hiện thơng qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, các chứng cứ chứng minh tội phạm phải được thu thập một cách đầy
đủ và theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Nếu không thu thập đủ và đúng
các chứng cứ chứng minh tội phạm thì khơng thể kết tội người bị buộc tội.
Trong quá trình xác định sự thật vụ án, các cơ quan THTT có trách nhiệm làm rõ
mọi vấn đề cần được chứng minh và các tình tiết khác trong vụ án hình sự. Mọi sự
nghi ngờ cần phải được giải quyết đúng đắn, khách quan và đúng trình tự thủ tục.
Điều 85 BLTTHS năm 2015 đã liệt kê các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình
sự gồm: Có hành vi phạm tội xảy ra hay khơng, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay
khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; Có năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; mục
đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình
tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự,
11



miễn hình phạt. Theo đó, tội phạm chỉ được chứng minh khi trả lời đủ và đúng tất
cả các vấn đề trên thơng qua các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nếu cơ
quan THTT đã chứng minh được tất cả các vấn đề trên nhưng quá trình thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm không được thực hiện theo quy định pháp luật thì
mọi tài liệu được thu thập đều không được công nhận là chứng cứ. Hoặc ngược lại,
nếu cơ quan THTT không thể chứng minh tất cả các vấn đề cần chứng minh của vụ
án hình sự thì cho dù các vấn đề đó được chứng minh theo đúng quy trình pháp luật
quy định thì vụ án hình sự vẫn khơng được giải quyết.
Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác
định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Theo đó, chứng cứ phải thỏa
mãn 03 thuộc tính: Tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Cả ba thuộc
tính trên đều quan trọng và khơng thể tách rời. Các chứng cứ phải được kiểm tra,
đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định
những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự12. Các
cơ quan THTT, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng sự thật vụ án, không áp đặt ý chí chủ quan và tn thủ đúng
trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Tuy nhiên trong quá trình xác định sự thật vụ án, ngay cả khi các cơ quan tiến
hành tố tụng đã sử dụng tất cả phương pháp, phương tiện được pháp luật cho phép,
vẫn có thể có những nghi ngờ khơng thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định thì sự nghi ngờ đó phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị
buộc tội. Nội dung này của nguyên tắc SĐVT thể hiện sự nhân đạo của pháp luật
TTHS. Tòa án sẽ không chấp nhận xét xử đối với những vụ án vẫn còn tồn tại
những mâu thuẫn chưa được giải quyết triệt để. Đây là động lực để cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát xác định sự thật khách quan của vụ án.

12


Khoản 1 Điều 108 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
12


Thứ hai, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thì cơ quan, người THTT phải kết luận
người bị buộc tội không có tội.
Như đã trình bày ở trên, một người chỉ bị xem là người có tội khi bị kết tội bởi
bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ
quan có thẩm quyền THTT. Đồng thời sự thật này phải được chứng minh một cách
đầy đủ, tồn diện. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền THTT khi khơng đủ căn
cứ kết tội phải kết luận người bị cáo buộc phạm tội khơng có tội.
Một trong những mục đích quan trọng của TTHS là phát hiện, xử lý triệt để tội
phạm, không làm oan, sai người vô tội. Tuy nhiên, trong thực tế, khơng ít vụ án có
chứng cứ yếu, khơng đủ để kết luận người bị buộc tội có tội hay khơng, có khả năng
kết tội oan người bị buộc tội và bỏ lọt tội phạm. Trong trường hợp này, nguyên tắc
SĐVT theo hướng khi không thể giải quyết mọi nghi ngờ theo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định dù cơ quan, người THTT đã áp dụng mọi biện pháp, phương pháp mà
pháp luật cho phép thì cơ quan, người THTT phải giải thích nghi ngờ đó theo hướng
có lợi cho người bị buộc tội.
Bên cạnh đó, Tịa án - cơ quan đại diện Nhà nước - thực hiện vai trị phán quyết
một người có tội hay khơng có tội. Bản án do Tịa án tun có ý nghĩa pháp lý vơ
cùng quan trọng, quyết định sinh mệnh chính trị của một người, đánh dấu sự kết
thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nội dung của nó phải phản ánh những
kết quả của phiên tịa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Do đó, Tịa
án khơng thể ra bản án kết tội người bị buộc tội khi chưa làm sáng tỏ căn cứ buộc
tội hoặc khơng tn theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.1.3. Ý nghĩa của ngun tắc suy đốn vơ tội
Trong lịch sử lập pháp TTHS, việc thừa nhận nguyên tắc SĐVT được coi là
thành tựu quan trọng của khoa học pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người trong

lĩnh vực TTHS. Việc Hiến pháp và pháp luật TTHS nước ta ghi nhận nguyên tắc

13


SĐVT là một trong các nguyên tắc cơ bản TTHS với những ý nghĩa đặc biệt thể
hiện ở một số nội dung sau:
Về mặt chính trị - xã hội
Thứ nhất, nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
tố tụng hình sự thế giới được thể hiện thông qua một số văn kiện quốc tế như Tuyên
ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948, Cơng ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm
1789,… Việt Nam đã ghi nhận và nội luật hóa nguyên tắc SĐVT vào trong hệ thống
pháp luật TTHS quốc gia. Từ đó đã đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo quyền con
người, đảm bảo dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan, sai người vô tội. Nội dung của
nguyên tắc SĐVT trong từng giai đoạn tố tụng được cụ thể hóa trong các quy định
pháp luật liên quan đến nguyên tắc này, thơng qua đó cơ quan, người THTT có thể
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội một cách có hiệu quả. “Việc ghi nhận quyền con người của người bị buộc
tội sẽ đảm bảo sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là Nhà nước với bộ
máy điều tra, truy tố, xét xử hùng mạnh được thực hiện bằng quyền lực Nhà nước
và một bên yếu thế hơn là người bị buộc tội. Đảm bảo người bị buộc tội khơng bị
phân biệt đối xử khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án và là
nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực TTHS”13. Điều này cho thấy, Việt
Nam đã đi cùng xu hướng của thế giới về việc thực hiện nguyên tắc SĐVT, từ đó
đảm bảo quyền con người, bảo vệ sự thật khách quan.
Thứ hai, nguyên tắc SĐVT góp phần đảm bảo tính khách quan trong cơng tác
đấu tranh, phịng chống tội phạm. Nó địi hỏi cơ quan THTT không được đối xử với
người bị buộc tội như với người có tội. Họ chỉ bị xem là người có tội sau khi đã có

bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngay cả khi người bị buộc tội bị
áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giam, tạm giữ thì họ chỉ bị hạn chế
một số quyền nhất định trong phạm vi do pháp luật quy định, các quyền con người
Đỗ Đức Minh, Trần Quang Minh, Ngun tắc suy đốn vơ tội: Khái niệm, nội dung và ý nghĩa, Kỷ yếu hội thảo quốc tế,
Nxb. Hồng Đức, tr. 596.
13

14


còn lại vẫn được đảm bảo. “Nguyên tắc này thể hiện thái độ thận trọng của Nhà
nước trong việc đưa ra phán xét về số phận chính trị, pháp lý của công dân khi chưa
bị kết tội bởi bản án của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật, là sự thể hiện rõ ràng nhất
bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa của dân, do dân,
vì dân”14.
Thêm nữa, ngun tắc SĐVT cịn thể hiện bản chất dân chủ, công bằng và nhân
đạo của luật TTHS khi quy định mọi sự nghi ngờ không thể loại trừ, cho dù đã sử
dụng tất cả các biện pháp, phương tiện mà pháp luật cho phép thì phải giải thích sự
nghi ngờ đó theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bên cạnh đó, việc quy định cơ
quan THTT không được đối xử với người bị buộc tội như người phạm tội góp phần
bảo vệ nhân phẩm, danh dự, thậm chí là sự an tồn về sự khỏe, tính mạng của người
bị buộc tội và người thân của họ.
Thứ ba, nguyên tắc SĐVT giúp củng cố niềm tin của người dân đối với sự cơng
bằng, liêm chính của cơ quan, người có thẩm quyền THTT cũng như tin vào sự
chính xác, hợp pháp của các kết luận được đưa ra bởi các cơ quan này. Việc quy
định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan, người THTT, người bị
buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh mình khơng có tội thể hiện
thái độ thận trọng, nhất quán của Nhà nước đối với trách nhiệm đảm bảo quyền con
người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là người
bị buộc tội trong quá trình tham gia THTT. Cơ quan, người THTT có trách nhiệm

xác định sự thật vụ án bằng các phương tiện, phương pháp được pháp luật cho phép;
thu thập, nghiên cứu cả chứng cứ buộc tội lẫn chứng cứ gỡ tội. Người bị buộc tội tự
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thơng qua quyền bào chữa, quyền tranh
tụng và các quyền khác được pháp luật quy định của bản thân. Nguyên tắc SĐVT
đảm bảo thực hiện triệt để mục đích quan trọng nhất của quá trình THTT, là xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khơng để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội
phạm; đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả xét xử, từ đó, củng cố niềm tin
Nguyễn Thành Long, Ngun tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 21.
14

15


của người dân vào cơ quan, người THTT, vào sự cơng bằng của hệ thống tư pháp
hình sự nước ta.
Về mặt pháp lý, nguyên tắc SĐVT là căn cứ pháp lý mà các chủ thể THTT có thể
áp dụng trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, hạn chế tình
trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Nguyên tắc này yêu cầu chủ thể có thẩm quyền
THTT phải nhận thức được cơng việc mình được giao là một cơng việc có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi, danh dự, nhân phẩm, số mệnh chính trị, thậm chí là
sức khỏe, danh dự của con người. Từ đó thúc đẩy họ khơng ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, luôn tôn trọng sự thật khách quan, áp dụng các biện
pháp, phương pháp mà pháp luật cho phép để xác định sự thật khách quan, hạn chế
tình trạng oan, sai, khơng bỏ lọt tội phạm.
Nhìn chung, TTHS là lĩnh vực nhạy cảm, dễ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của con người, do đó nguyên tắc SĐVT là cơ sở pháp lý quan trọng để người
bị buộc tội có thể bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. “Nói cách
khác, việc thừa nhận nguyên tắc này trong thực tiễn TTHS là một bước tiến lớn
trong nhận thức của con người về sự cần thiết phải xây dựng một nền tư pháp cơng

bằng, văn minh, dân chủ hóa trong q trình TTHS”15.
1.2. Mối quan hệ giữa ngun tắc suy đốn vô tội và các nguyên tắc cơ bản
khác của Bộ luật Tố tụng hình sự
Trong TTHS, để đảm bảo hoạt động của các cơ quan THTT được tiến hành
khách quan, đúng pháp luật thì một trong các yêu cầu được đặt ra là các nguyên tắc
cơ bản trong TTHS phải được tuân thủ một cách nghiêm túc. Các nguyên tắc cơ bản
này vừa tồn tại một cách độc lập vừa có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, góp
phần tạo nên hệ thống pháp luật TTHS thống nhất, chặt chẽ. Vì thế, ngun tắc
SĐVT chỉ có thể được đảm bảo thực hiện trên thực tế khi các nguyên tắc cơ bản
khác cũng được tuân thủ.

Nguyễn Thành Long, Nguyên tắc suy đốn vơ tội trong luật tố tụng hình sự (sách tham khảo), 2011, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 22.
15

16


1.2.1. Mối quan hệ với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là nguyên tắc
bao trùm, xun suốt trong tồn bộ q trình tiến hành tố tụng hình sự, đảm bảo
quyền con người, quyền cơ bản của công dân được bảo vệ và thực thi. Đây có thể
được xem là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, với cái chung là nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân và cái riêng là nguyên tắc SĐVT.
Trong đó cái chung (nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của cơng dân)
là ngun tắc mang tính nền tảng, chi phối cái riêng (nguyên tắc SĐVT) mang tính
chi tiết, cụ thể. Nếu thực hiện đúng nguyên tắc SĐVT, cụ thể người bị buộc tội
được coi là khơng có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật, đồng nghĩa với việc đã thực hiện được mục tiêu đảm bảo không một công

dân nào bị xâm hại đến quyền con người và các quyền cơ bản của nguyên tắc tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Bởi khi người bị buộc tội chưa bị
coi là có tội thì các quyền con người của họ vẫn được đảm bảo, trừ một số quyền đã
bị hạn chế bởi các quy định pháp luật. Khơng một chủ thể nào có quyền xâm phạm
đến những quyền này của người bị buộc tội. Nếu cơ quan THTT đối xử với người bị
buộc tội như với người có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật thì họ đã vi phạm ngun tắc tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân.
1.2.2. Mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Theo tinh thần của nguyên tắc SĐVT, người bị buộc tội được coi là người khơng
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và
có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa “pháp luật
coi người bị buộc tội là những người khơng có tội cho tới khi điều ngược lại được
chứng minh”16. Trong khi đó, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án yêu cầu trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
Nguyễn Duy Dũng (2015), Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đốn vơ tội và ngun tắc xác định sự thật của vụ án, tạp
chí Dân chủ & Pháp luật, số 12 (285), tr. 8.
16

17


quan, toàn diện và đầy đủ17. Đồng thời, cơ quan THTT phải làm rõ chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Từ đó có thể thấy, cả hai nguyên tắc đều
đưa ra yêu cầu về sự đúng đắn trong việc chứng minh hành vi phạm tội của người bị
buộc tội.
Tuy nhiên, mỗi nguyên tắc có ý nghĩa và yêu cầu riêng. Cụ thể, nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án đặt việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án hình sự lên hàng

đầu mà loại trừ khả năng tồn tại những nghi ngờ đối với người bị buộc tội, bỏ qua
trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh được tội phạm dù đã
sử dụng mọi biện pháp, phương pháp mà pháp luật cho phép. Khi tồn tại nghi ngờ
không thể loại trừ, lúc này bắt buộc phải áp dụng nguyên tắc SĐVT với nội dung:
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội18. Ngun tắc SĐVT buộc cơ quan tiến
hành tố tụng phải giải thích mọi sự nghi ngờ khơng thể loại trừ theo hướng có lợi
cho người bị buộc tội. Qua đó tác giả nhận thấy, nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án khơng thể tồn tại một mình. Ngun tắc SĐVT đã mở ra “ngõ cụt” mà nguyên
tắc xác định sự thật của vụ án khơng thể giải quyết, đó là tun bố người bị buộc tội
khơng có tội nếu cơ quan tiến hành tố tụng không thể chứng minh tội phạm, không
thể xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện và đầy đủ về mặt nội dung và
hình thức theo quy định của pháp luật.
“Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa nguyên tắc SĐVT và nguyên tắc xác định sự
thật của vụ án còn thể hiện ở chỗ thực hiện tốt nguyên tắc SĐVT sẽ là tiền đề quan
trọng để thực hiện tốt nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, tránh sự thiên lệch theo
hướng buộc tội từ phía cơ quan và người tiến hành tố tụng, bảo đảm sự cân bằng,
hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người bị buộc tội cũng như của
những người tham gia tố tụng khác”19.

Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
19
Nguyễn Duy Dũng (2015), Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, tạp
chí Dân chủ & Pháp luật, số 12 (285), tr. 9.
17
18

18



×