Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Những biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 101 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN VN LM

Những biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN VN LM

Những biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN C PHC

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Lâm


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 7
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam ............ 7

1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn ........................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................... 12

1.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................................... 18
1.2.

Khái quát lịch sử các biện pháp ngăn chặn trong lịch sử
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước
khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003........................................ 20

1.3.

Quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra trong pháp luật của một số nước trên thế giới
và những giá trị có thể tham khảo ở Việt Nam ............................. 23

1.3.1. Quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn
điều tra trong pháp luật của một số nước trên thế giới ...................... 23
1.3.2. Những giá trị có thể tham khảo trong quy định pháp luật về các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo pháp luật của
một số nước trên thế giới.................................................................... 26
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 29


Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TẠI
TỈNH ĐẮK LẮK .........................................................................................31
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.

2.1.4.
2.1.5.
2.1.6.
2.1.7.
2.1.8.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.2.6.
2.3.

Quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra theo luật TTHS Việt Nam ........................................ 31
Quy định pháp luật về biện pháp bắt người ....................................... 31
Quy định pháp luật về biện pháp tạm giữ .......................................... 35
Quy định pháp luật về biện pháp tạm giam ....................................... 36
Quy định pháp luật về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong
giai đoạn điều tra ................................................................................ 38
Quy định pháp luật về biện pháp bảo lĩnh trong giai đoạn điều tra......... 39
Quy định pháp luật về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm trong giai đoạn điều tra ................................................... 40
Huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn diều tra ...... 41
Quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra ..................................................... 41
Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra theo luật TTHS Việt Nam tại tỉnh Đắk Lắk .......... 42
Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người ........................................... 42

Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giữ .............................................. 52
Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam ............................................ 53
Thực trạng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ....................... 55
Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................................. 58
Thực trạng áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm .............................................................................................. 59

Nhận xét, đánh giá về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
tại tỉnh Đắk Lắk................................................................................ 60
2.3.1. Những ưu điểm đạt được .................................................................... 60
2.3.2. Một số hạn chế tồn tại ........................................................................ 61


2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế tồn tại ....................................................... 62
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 63
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TẠI
TỈNH ĐẮK LẮK .............................................................................. 64
3.1.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam tại
tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 64
3.1.1. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội, dân cư của tỉnh
Đắk Lắk .............................................................................................. 64
3.1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................... 65
3.2.


Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam tại tỉnh Đắk Lắk ...................................................................... 66
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện
pháp ngăn chặn ................................................................................... 66
3.2.2. Hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................... 76
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra
và các cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam ..... 78
3.2.4. Thúc đẩy tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra ............................................ 81
3.2.5. Tăng cường vận động quần chúng tham gia vào việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra .............................. 84
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANCT:

An ninh chính trị

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:


Bộ luật Tố tụng hình sự

CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

NXB:

Nhà xuất bản

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTATXH: Trật tự an toàn xã hội


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Số liệu của Cơ quan điều tra tỉnh Đắk Lắk, từ năm
2010 đến 2014


44

Bảng 2.2: Số liệu của Cơ quan điều tra tỉnh Đắk Lắk, từ năm
2010 đến 2014

52

Bảng 2.3: Số liệu của Cơ quan điều tra tỉnh Đắk Lắk, từ năm
2010 đến 2014

53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng hình sự nước CHXHCN Vệt Nam quy định về các biện
pháp ngăn chặn trở thành công cụ hữu hiệu trong đấu tranh ngăn chặn tội
phạm, phục vụ cho công tác điều tra truy tố, xét xử và để đảm bảo thi hành án.
Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định pháp lý quan
trọng của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Việc quy định và áp dụng đúng
đắn các biện pháp ngăn chặn là sự đảm bảo rất quan trọng cho việc phát hiện
nhanh chóng, chính xác, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, không cho người phạm
tội tiếp tục thực hiện tội phạm, trốn tránh pháp luật, cản trở đến các hoạt động
điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự. Đồng thời đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là vấn đề hết sức nhạy cảm, nó
đụng chạm trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được quy định trong
hiến pháp và pháp luật như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, về

thư tín, điện tín… Vì thế khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải tuân thủ
đúng quy định của Luật TTHS. Thực tiễn việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong TTHS còn có những hạn chế, tồn tại nhất định đã gây ra những
khó khăn nhất định trong việc giải quyết vụ án tạo dư luận không tốt dẫn đến
hậu quả như: bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp
chế Xã Hội Chủ Nghĩa, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân.
Các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư
trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được quy định tại
Chương V Bộ luật TTHS Việt Nam. Việc tìm hiểu, nghiên cứu những quy
định này không chỉ cần thiết đối với người tiến hành tố tụng mà còn rất cần
thiết đôí với mọi công dân.
1


Nắm vững nội dung quy định về các biện pháp ngăn chặn trong luật
TTHS là điều kiện cần thiết giúp cho Điều tra viên áp dụng vào thực tiễn công
tác một cách hiệu quả.
Để phục vụ cho công tác điều tra, Cơ quan điều tra áp dụng các biện
pháp ngăn chặn cần thiết nhằm ngăn chặn tội phạm. Tuy nhiên việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vẫn còn những tồn tại,
vướng mắc khi xác định căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng. Nguyên nhân của
những tồn tại, vướng mắc là do pháp luật TTHS còn sơ hở, thiếu chặt chẽ,
chồng chéo dẫn đến khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp luật; trình
độ năng lực của một số điều tra viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Thực trạng đó đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự
phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết khắc phục những hạn chế, tồn tại và đưa
ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm góp phần đấu tranh ngăn chặn tội
phạm có hiệu quả đồng thời cũng bảo đảm bảo vệ quyền con người.
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
coi là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ chính trị đã ra
Nghị quyết số 08-NQ/TƯ ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày
02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị quyết trên
đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được nghiên cứu
một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS), tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hình sự.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, là vấn đề mang tính cấp bách, thiết
2


thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn đối với địa phương
trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự đã được
nhiều nhà tố tụng hình sự học trong nước quan tâm nghiên cứu.
Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ: "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997).
TSKH.PGS Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, ThS. Thịnh Quốc Toản
đồng chủ trì đề tài “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”.
TS. Nguyễn Vạn Nguyên: "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề
nâng cao hiệu quả của chúng" (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1995)
PGS.TS Nguyễn Đức Thuận: “Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của bộ luật TTHS năm 2003” (Tạp chí luật học số 07 năm 2008)
Một số điểm bất cập về tạm giữ và thủ tục bắt người trong trường hợp

khẩn cấp trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 – Khoa luật đại học Huế.
ThS Trịnh Tiến Việt: “Về tự do cá nhân và các biện pháp cưỡng chế tố
tụng” (NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2006).
TS. Trịnh Tiến Việt: “Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và
hướng sửa đổi, bổ sung” (Tạp chí nghiên cứu lập pháp).
ThS Phạm Khắc Vực: “căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam” (Tạp chí
khoa học pháp lý số 02 năm 2004).
Tuy nhiên, các công trình trên chưa đi sâu nghiên cứu về thực tiễn áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chính vì vậy, việc
tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS 2003 và
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn phục vụ cho công tác
đấu tranh ngăn chặn tội phạm và bảo vệ quyền con người.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn
diện về mặt lý luận về các biện pháp ngăn chặn, đánh giá đúng thực trạng áp
dụng các biện pháp ngăn chặn ở tỉnh Đắk Lắk., xác định đúng nguyên nhân
của những thiếu sót trong việc áp dụng và trên cơ sở đó đề xuất hệ thống các
giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, yêu cầu đặt ra phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn.
- Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng,
điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn.
- Phân tích thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh Đắk
Lắk.; làm rõ mặt được, mặt chưa được, xác định sơ hở, thiếu sót, nguyên nhân

của chúng. Trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các biện pháp ngăn chặn này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng quy định của luật TTHS về các biện pháp ngăn chặn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn có
liên quan trong áp dụng các biện pháp nhăn chặn trong giai đoạn điều tra trên
cơ sở số liệu thực tế tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2010 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

4


Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật được thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước về các
biện pháp ngăn chặn.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đề tài nghiên cứu bằng các phương pháp phân tích,
thống kê, logic, tổng hợp, so sánh, dự báo, phương pháp chuyên gia kết hợp
khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến của các cán bộ làm công tác nghiên cứu và
đồng nghiệp hoạt động thực tế trong điều tra phòng chống tội phạm trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần làm sáng tỏ và bổ sung vào khoa học pháp lý của luật
TTHS Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn. Là tài liệu tham khảo trong quá

trình nghiên cứu, giảng dạy pháp luật và các cơ sở đào tạo Luật của Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của đề tài có ý nghĩa quan
trọng đối với hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh Đắk Lắk
trong quá trình điều tra. Việc đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn, hướng dẫn áp dụng
thống nhất các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trong toàn
quốc nói chung và tại tỉnh Đắk Lắk. nói riêng và có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho Cơ quan điều tra và đội ngũ ĐTV của tỉnh Đắk Lắk.
Trong quá trình điều tra vụ án.

5


7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn trong
giai đoạn điều tra theo luật TTHS Việt Nam.
Chương 2: Quy định pháp luật và thực trạng áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật TTHS Việt
Nam tại tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật TTHS Việt
Nam tại tỉnh Đắk Lắk.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Trong quá trình phát triển của lịch sử, Nhà nước ra đời là một tất yếu
khách quan, là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai cấp cầm quyền, là công cụ
sắc bén để đảm bảo sự duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền ấy. Nhà
nước tồn tại bao giờ cũng gắn liền với một quyền lực mang tính chính trị, giai
cấp được thực hiện bởi bộ máy cai trị như: quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà
tù… mà ở đó Nhà nước bao giờ cũng quy định các biện pháp và giao cho
những người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý, lớp người này được tổ
chức thành các cơ quan nhà nước có sức mạnh cưỡng chế để thực hiện duy trì
đuiạ vị của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý trí thống
trị xã hội thông qua quyền lực chính trị của nhà nước, như Mác – Ăng Ghen:
“Nó thực chất là bạo lực có tổ chức của một giai cấp nhất định với giai cấp
khác. Chính bạo lực có tổ chức của giai cấp thống trị đối với các giai cấp
khác tạo nên bản chất của Nhà nước, đó là một tổ chức của quyền lực chính
trị nhằm trấn áp giai cấp bị thống trị” [10].
Những biện pháp trấn áp của giai cấp thống trị với giai cấp khác, tầng
lớp khác được thể hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, nó phản ánh
bản chất giai cấp của nhà nước. Do đó có thể coi cưỡng chế Nhà nước là việc
áp dụng các biện pháp bắt buộc để thực hiện các quyết định của Nhà nước đối
với cá nhân, tổ chức đã không tự nguyện chấp hành quyết định của Nhà nước.

7



Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm
chung của nhà nước còn có những đặc điểm riêng khác biệt được thể hiện:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên
phong của giai cấp công nhân, là Nhà nước của toàn thể nhân dân lao động.
Để bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được trong cuộc đấu trang giai cấp xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, ngăn ngửa và trừng trị những phần tử phá hoại
quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Nhà nước Xã hội chủ
nghĩa một mặt là một tổ chức chính trị hành chính, một cơ quan cưỡng chế
đồng thời là một tổ chức quản lý kinh tế- xã hội của tòa thể nhan dân lao
động. Bộ máy cưỡng chế hành chính của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa được lập
ra để bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
bảo đảm cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Do đó
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ của giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nhằm chống lại những hành vi xâm
phạm vào lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Để thực hiện được điều đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có những biện pháp cưỡng chế nhà nước, có bộ máy đặc biệt để thực
hiện việc cưỡng chế đối với tất cả các hành vi xâm phạm đến các lợi ích trên
một cách cương quyết và mạnh mẽ. Để quản lý xã hội, Nhà nước tiến hành
nhiều hoạt động trên cơ sở pháp luật, mỗi lĩnh vực, mỗi loại, nhóm quan hệ xã
hội phải có các quy phạm pháp luật tương ứng điều chỉnh. Thực hiện tốt các
quy phạm pháp luật lại là một đòi hỏi thiết thực hơn, bởi nó đi sâu vào tiềm
thức, vào lòng tin của cộng đồng và chỉ có kết hợp cả hai vấn đề trên càng trở
nên yêu cầu cấp thiết và chính đó đem lại cho ta tiêu chuẩn “Pháp chế Xã hội

8



chủ nghĩa”. Đây là một yêu cầu đòi hỏi phải tăng cường pháp chế khi mà đời
sống chính trị, xã hội của nước ta đang từng bước phát triển hội nhập.
Luật Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tỏ chức
của cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội trong đó thể hiện quyền lực
của cơ quan tổ chức đó, nó chứa đựng các quy phạm thể hiện quyền uy biểu hiện
cụ thể các hoạt động cưỡng chế, nó như là một phương thức tồn tại, trên cơ sở
của việc sử dụng chúng trở thành phương tiện để quản lý Nhà nước.
Luật hành chính cũng cố đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng,
khi thực hiện luật này nó cũng mang tính cưỡng chế, thể hiện phương pháp
điều chỉnh bất bình đẳng mà ở đó buộc các đối tượng vi phạm hành chính
phải chấp hành.
Bộ luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt, trong các quy phạm
này đã cho thấy hậu quả tất yếu của hành vi phạm tội là phải chịu trách nhiệm
hình sự với một mức hình phạt tương ứng. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình
sự bao gồm các “Quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”. Nó chứa đựng các quy phạm thể
hiện việc cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khi có căn cứ do luật định, ở đây tính cưỡng chế đã đạt tới mức
nghiêm khắc cao độ hơn hẳn các biện pháp cưỡng chế khác.
Các hoạt động chứa đựng tính cưỡng chế ở các lĩnh vực khác nhau đã
đem lại trong ý nghĩ nhiều người sự nhầm lẫn, làm mất đi giá trị nguyên bản
của nó. Mỗi loại biện pháp phải được áp dụng ở những điều kiện nhất định,
do những chủ thể nhất định tiến hành chứ không thể hiểu một cách mơ hồ đẫn
đến sai lầm pháp luật.
Đã có rất nhiều bài báo đưa vào dư luận xã hội một luồng thông tin
về hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn dưới dạng mượn dư luận để
gây sức ép, hoặc coi việc áp dụng một biện pháp ngăn chặn như là hình

9



thức trừng phạt người có hành vi phạm tội. Đó là dạng các kết cục cho
rằng: đối tượng A đã có hành vi(hành vi a,b,c nào đó) vì sao vẫn nhởn nhơ
ngoài vòng pháp luật?...
Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng: trong điều kiện phát triển kinh
tế theo cơ chế thị trường hiện nay cũng nên đặt vấn đề kinh tế để xem xét.
Nếu cứ áp dung các quy định của pháp luật tối tụng hình sự trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn(như tạm giam) thì số lượng bị can, bị cáo ở các
trại tạm giam tăng đáng kể gây áp lực về kinh tế và công tác quản lý giáo dục
mà ở đó Nhà nước phải tăng chi phí cho các hoạt động kèm theo: chế độ ăn,
ở, sinh hoạt, chế độ giam giữ canh gác, trang thiết bị cơ sở vật chất cũng phải
tăng cường. Vậy thì nên chăng có biện pháp quản lý, giám sát được đối tượng
mà vẫn đảm bảo mục tiêu ngăn chặn tội phạm, đảm bảo hiệu quả trong công
tác điều tra khám phá án đồng thời đảm bảo được quyền con người và để họ
tự lao động sản xuất nuôi sống bản thân trong cộng đồng xã hội nhằm giảm
bớt chi phí ngân sách của nhà nước.
Có quan điểm cho rằng phòng ngừa tội phạm cũng là biện pháp ngăn
chặn tội phạm trong Tố tụng hình sự. Đây là quan điểm hình thức mà chưa
thấy rõ bản chất phòng ngừa từ xa của công tác phòng ngừa tội phạm. Hiện
nay chúng ta đã và đang thực hiện Chương trình Quốc gia phòng chống tội
phạm, thực hiện các Nghị quyết của Đảng về đấu tranh phòng chống các loại
tội phạm trong tình hình mới như Nghị quyết 48, Nghị quyết 21….
Còn đó các quan điểm lấp lửng biến hóa, biến tướng tùy tiện, đặc biệt
trong hoạt động tạm giữ hành chính và tố tụng, coi đây như là một cứu cánh,
chữa cháy cho hoạt động điều tra vụ án. Đó là tình trạng hình sự hóa các quan
hệ pháp luật dân sự, hành chính, kinh tế hoặc ngược lại là lấy cưỡng chế thay
cho hoạt động điều tra thu thập tài liệu chứng cứ.
Từ các lý do đó đòi hỏi phải nghiên cứu những quy định của pháp luật


10


tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn để đánh giá, xem xét trong mối
quan hệ tương ứng để rút ra kinh nghiệm, kết luận đúng, áp dụng có hiệu quả
góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đồng thời đảm bảo
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mục đích cần đạt được là:
“Nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội”(Điều 1–BLTTHS). Hoạt động này do
nhiều chủ thể thực hiện trong đó vai trò, quyền và nhiệm vụ của các chủ thể
khác nhau, có khi đối lập nhau vì vậy có khi các chủ thể là người bị nghi thực
hiện tội phạm, bị can, bị cáo… thường tìm mọi cách gây khó khăn cản trở việc
điều tra giải quyết vụ án hình sự do vậy pháp luật Tố tụng hình sự quy định các
biện pháp ngăn chặn để áp dụng khi cần thiết phục vụ cho việc giải quyết vụ
án. Việc đưa ra khái niệm đầy đủ, chính xác là yêu cầu tất yếu, tuy nhiên đến
nay khái niệm về các biện pháp ngăn chặn vẫn còn có nhiều tranh luận.
Theo từ điển nghiệp vụ phổ thông ngành Công an thì: “các biện pháp
ngăn chặn trong phòng, chống tội phạm là biện pháp chủ động đối phó kịp thời
không để cho bọn phản cách mạng và bọn phạm tội khác thực hiện âm mưu
phạm tội của chúng”. Ở đây đã chỉ ra được rằng các biện pháp ngăn chặn là
biện pháp thể hiện tính chủ động tấn công, phòng ngừa tội phạm nhưng chưa
làm rõ được chủ thể cụ thể, đối tượng bị áp dụng và các căn cứ áp dụng.
Theo các tác giả Phạm Thanh Bình và Nguyễn Vạn Nguyên nêu ra
trong quyển: “Những điều cần biết về bắt người tạm giữ, tạm giam… đúng
pháp luật” thì các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế cần
thiết trong Tố tụng hình sự do các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo và trong một số trường hợp được pháp luật quy
định, có thể áp dụng đối với cả người chưa bị khởi tố (bắt trong trường hợp


11


khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã
hội và ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh hoặc có những hành động
gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Trong khái
niệm này, các tác giả đã làm rõ đối tượng bị áp dụng và mục đích của việc áp
dụng. Tuy nhiên chỉ nêu ra các chủ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án là chưa đủ vì việc bắt người phạm tội quả tang, người có quyết định
truy nã thì bát kỳ người nào cũng có quyền bắt hoặc lực lượng quản lý giáo
dục phạm nhân tiến hành công tác thi hành án phạt tù, nhưng cơ quan đó
không phải là cơ quan tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở trên có thể đưa ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn như
sau: Các biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình
sự do những người có thẩm quyền theo luật định áp dụng đối với những
người trong những trường hợp cụ thể do pháp luật tố tụng hình sự quy định
nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và
việc chấp hành bản án hình sự một cách đúng đắn, khách quan.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Một số nét về giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan
trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong
các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng
với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
Về khái niệm: Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ
hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp


12


cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của
vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng
thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và
trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn
bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và
đề nghị truy tố bị can.
Về bản chất pháp lý
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn
điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp
dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội
phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm
tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các
biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm;
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến
hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết
thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề
nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự
tương ứng.
Điều 79 Bộ luật TTHS quy định: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng
của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp
dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.


13


* Bắt người là biện pháp ngăn chặn bao gồm bắt bị can, bị cáo để tạm
giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã.
Bắt là một thuật ngữ đã có từ lâu với ý nghĩa chung là sự cưỡng chế,
tước bỏ tạm thời quyền tự do của con người, trong những điều kiện hoàn
cảnh, lý do nhất định và nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong mối quan
hệ giữa cá nhân và nhà nước, bắt thể hiện sức mạnh cưỡng chế của nhà nước,
của giai cấp thống trị xã hội đối với cá nhân và thương được quy định bằng
những quy tắc chặt chẽ vì nó liên quan đến các quyền cơ bản của con người.
- Bắt bị can để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự để tạm
giam phục vụ cho việc điều tra vụ án hình sự. Một người có hành vi phạm tội
đã bị Cơ quan điều tra khởi tố và có căn cứ quy định tại điều 88 Bộ luật
TTHS thì Cơ quan điều tra có thể áp dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam.
- Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là khi có căn cứ cho rằng một
người đang chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiệm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó trốn hoặc tiêu
hủy chứng cứ thì Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhằm
ngăn chặn tội phạm và ngăn chặn người phạm tội trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ. Sau khi thực hiện lệnh bắt thì Cơ quan điều tra phải báo ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn
cấp để xét phê chuẩn.
- Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi
bắt. Bắt người phạm tội đang bị truy nã là bắt người phạm tội đang lẩn trốn và
đã có quyết định truy nã.
Ở đây hành vi phạm tội đang diễn ra hoặc ngay sau khi thực hiện tội

phạm bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, việc đuổi bắt phải diễn ra liên tục về mặt
thời gian và ai cũng có quyền bắt, tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
14


* Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do
người có thẩm quyền áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
người bị bắt trốn việc điều tra, xác minh và để quyết định việc khởi tố bị can,
tạm giam hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Việc tạm giữ hình sự là để Cơ quan điều tra phân loại hành vi, củng cố
thu thập tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc điều tra vụ án.
* Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can trong những trường
hợp sau đây:
- Bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
- Bị can phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu
tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì
không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp
sau đây:
Bị can bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
Bị can được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra;
Bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Việc áp dụng biện pháp tạm giam là do Cơ quan điều tra thấy cần thiết
cho việc điều tra vụ án và phải có cắn cứ luật định khi áp dụng.

Việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy chế tạm giữ, tạm
giam, cụ thể:

15


Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 của Chính
phủ ban hành quy chế về tạm giữ, tạm giam có hiệu lực kể từ ngày 22 tháng
11 năm 1998, được sửa đổi, bổ sung bởi các Nghị định:
Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2002 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành
kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 của
Chính phủ, có hiệu lực kể từ ngày 12 tháng 12 năm 2002;
Nghị định số 09/2011/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung chế độ ăn và khám, chữa bệnh đối với người bị tạm giữ,
tạm giam quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Quy chế về tạm giữ, tạm giam
ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998
của Chính phủ, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 3 năm 2011.
Quy chế về tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể về tổ chức nhà tạm giữ,
tạm giam; chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam; chế độ đối với người bị tạm giữ,
tạm giam và điều khoản thi hành.
* Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng
đối với bị can có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra.
Là việc Cơ quan điều tra cấm người đã bị khởi tố đi khỏi nơi cư trú và
người này phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có
mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập. Nếu vi phạm thì sẽ bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn như tạm giam.
Khoản 1 Điều 12 Luật cư trú số 81/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2006 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2007, được sửa

đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2013/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2013 của Quốc
hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú, có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2014 quy định:

16


Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó
thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú
hoặc nơi tạm trú. Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà
khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc
quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân
cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Nơi
thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không
có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi
tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và
đã đăng ký tạm trú [41].
Khoản 2 Điều 12 luật cư trú quy định: “Trường hợp không xác định
được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư
trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống” [41].
* Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân
thân của bị can mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định
cho họ được bảo lĩnh.
Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can là người thân thích của họ.
Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo
lĩnh cho bị can là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân
hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can tiếp tục phạm tội và bảo
đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông

báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
* Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để
thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ

17


×