Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài tập lớn hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.88 KB, 11 trang )

Mở đầu
Nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và tất cả các hoạt động đều vì lợi ích
nhân dân. Nhân dân lao động làm chủ nhà nước tham gia vào các hoạt động của nhà
nước điều này thể hiện rõ bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong đó nhân dân tham gia vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Đảng và
nhà nước tạo mọi điều kiện tốt nhất để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lí
hành chính. Nguyên tắc Nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành
chính nhà nước chính là sự cụ thể hóa của chủ trương đó nhằm hướng tới xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề em xin được chọn đề tài 02 “ phân tích
nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước
và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở
nước ta hiện nay”
Nội dung
I. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà
nước.
1. Cơ sở của nguyên tắc nhân dân tham gia động đảo vào quản lí hành chính nhà
nước.
*. Cơ sở pháp lí:
Nhà nước của nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước của
chính nhân dân lao động tổ chức thực hiện quyền lực của mình. Nó là một tổ chức
được thành lập ra nhằm phát huy tài năng, sức lực của người lao động trong việc
gánh vác các công việc của nhà nước và xã hội nhằm phục vụ lợi ích của chính họ.
Điều này được thể hiện cụ thể trong Điều 2 Hiến Pháp 1992 ( sửa đổi bổ sung năm
2001) : “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức.”.
Để nhân dân lao động thực sự giữ được vai trò của người làm chủ đất nước, việc
tạo điều kiện để nhân dân lao động tham vào quản lí hành chính nhà nước phải được
1


Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
ghi nhận và đảm bảo. Điều 3 Hiến Pháp 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001) : “Nhà
nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”.
Quy định này đặt nền móng pháp lí cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc nhân
dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà nước.
*. Cơ sở thực tiễn:
Nguyên tắc nhân dân tham gia động đảo vào quản lí hành chính nhà nước khẳng
định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lí hành chính nhà nước,
chủ nghĩa Mác-Leenin đã chỉ ra “ nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước” và
thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó . từ thời dựng nước và giữ nước tư tưởng
lấy dân làm gốc đã được áp dụng cho tới nay. Xuất pháp từ vai trò quan trọng của
nhân dân lai động trong quản lí nhà nước, từ yêu cầu đảm bảo cho nhân dân lao
động thực sự là người làm chủ đất nước.
2. Đặc điểm của nguyên tắc
Nhân dân lao động tham gia đông đảo vào Quản lý Hành chính Nhà nước là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong Quản lý Hành chính Nhà nước bởi lẽ đó
nguyên tắc này có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào Quản lý Hành
chính Nhà nước được nhà nước ta ghi nhận trong các văn bản pháp luật từ Hiến
pháp, các văn bản luật đến văn bản dưới luật và được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Cụ thể được quy định tại Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001)
khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi
mặt của công dân”. Như vậy, quyền được tham gia vào quản lý các công việc của
nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp ghi nhân và trên
thực tế, nó đã được bảo đảm thực hiện thông qua hàng loạt những hoạt động cụ thể
hoạt động bầu cử, ứng cử,…
- Thứ hai, vai trò của nhân dân lao động được đề cao và quan tâm khẳng định vai
trò quan trọng của nhân dân lao động trong Quản lý Hành chính Nhà nước đúng
như nguyên lý khoa học “nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước” mà chủ nghĩa
Mác-Lênin đã chỉ ra và thực tiễn đã chứng minh. Mặt khác, nó cũng xác định những

nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản
đề nhân dân lao động tham gia vào Quản lý Hành chính Nhà nước.
2
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
- Thứ ba, nguyên tắc này thể hiện tính khách quan và khoa học, vì:
+ Nguyên tắc này được xây dựng và đúc rút từ thực tế của cuộc sống nhân dân lao
động, từ thực tiễn Quản lý Hành chính Nhà nước của nước ta.
+ Nguyên tắc này được xây dựng và ghi nhận trong các văn bản pháp Luật. Thủ tục
xây dựng chặt chẽ và theo trình tự nhất định. Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ
sở của hoạt động Quản lý Hành chính Nhà nước chứ không phải ý muốn chủ quan
của các chủ thể Quản lý Hành chính Nhà nước.
- Thứ tư, là một nguyên tắc cơ bản trong Quản lý Hành chính Nhà nước nên nguyên
tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào Quản lý Hành chính Nhà nước mang
tính ổn định cao, vì:
+ Chúng phản ánh các quy luật khách quan của quản lý hành chính Nhà nước, cho
nên tính ổn định phải được đảm bảo trong từng thời kỳ. Song chúng không phải là
bất biến, bởi vì cuộc sống luôn phát triển cùng với qui luật của nó.
+ Có mối liên hệ với các nguyên tắc cơ bản khác trong Quản lý Hành chính Nhà
nước
3.Các hình thức tham gia vào quản lí hành chính nhà nước.
a, Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tích cực, trực
tiếp và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
người lao động nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật đều có thể tham gia
vào hoạt động của các cơ quan nhà nước để trực tiếp hay gián tiếp thực hiện công
việc quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống. Người lao động có
thể tham gia theo các con đường sau:
Con đường trực tiếp:
người lao động có thể tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là
thành viên của cơ quan này – những đại biểu được lựa chọn qua con đường bầu cử

người lao động có thể trở đại biểu Quốc Hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp,
…. Người lao động có thể tự ứng cử với các điều kiện pháp luật quy định hoặc được
3
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
đề cử. Với tư cách là thành viên của cơ quan này, người lao động có thể trực tiếp
xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương,
trong đó có các vấn đề quản lí hành chính nhà nước. Hoặc có thể nhân dân lao động
có thể tham gia vào hoạt dộng của các cơ quan nhà nước khác (cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với tư cách là những cán bộ, công
chức. Là cán bộ, công chức của Nhà nước, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách
trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý
hành chính nhà nước, thể hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của
mình. Họ sẽ có đầy đủ các điều kiện để biến ý chí, nguyện vọng của mình thành
hiện thực nhằm “Xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”
(Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)).
- Con đường gián tiếp :
Những người lao động có thể gián tiếp tham gia vào vào hoạt động của các cơ
quan nhà nước thông qua việc thực hiện lựa chọn bầu cử ra những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương.
Đây là cách thức rộng rãi nhất để nhân dân lao động có thể tham gia vào quản lý
các công việc của Nhà nước.
b, Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một
cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội ( Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,…). Nhà nước ban hành nhiều quy định liên quan
tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính
nhà nước nói riêng và của quản lý nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Ví dụ như khi Ủy ban

nhân dân họp về vấn đề kế hoạch hóa gia đình thì sẽ phải mời cả đại diện Hội phụ
nữ đến họp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất, và tinh thần để cho
các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong
việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của mình. Thông qua các hình thức
hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động
được phát huy trong quản lý hành chính nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức xã hội
đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý
4
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
hành chính nhà nước. Chẳng hạn, Hội nông dân Việt Nam thông qua các hình thức
hoạt động của mình phtas huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân lao động
trong quản lí hành chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thực hoạt động rất có ý
nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ví dụ như: số lượng các thành viên của các hội, hiệp hội, liên đoàn, câu lạc bộ,
… liên tục tăng trong những năm qua. Vì vậy, đây là một hình thức hoạt động rất có
ý nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nên dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
c, Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Hoạt động tự quản là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện và nó
có mối liên hệ chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản lí nhà nước quản lí xã
hội.
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các
hoạt động mang tính chất tự quản như bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ
chức đời sống công cộng,…. Đây là những hoạt động do chính nhân dân lao động
thực hiện và chúng có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản
lí nhà nước, quản lí xã hội. Những hoạt động này đều rất gần gũi và thiết thực đối
với cuộc sống của mỗi người dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự
quản mà người dân lao động là những chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân là pháp luật đã quy định thực sự
được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Nhà nước đã tạo những điều liện cần thiết về
vật chất và tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của nhân dân

lao động trong việc tham gia những hoạt động mang tính tự quản nêu trên.
d, Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lí hành
chính nhà nước
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định công
dân có quyền “Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi
nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã
quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau
của quản lý hành chính nhà nước. Những quyền, nghĩa vụ này của công dân có thể
5
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội (như
đã phân tích ở phần trên) hoặc cũng có thể được chính người dân trực tiếp thực
hiện. Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một hình
thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự
phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn
trọng và đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ hơn. Do vậy, đây là một hình thức có ý
nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình.
Đây là nguyên tắc được nhà nước thừa nhận và đảm bảo thực hiện Ðây là
nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể
hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành
chính nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động
của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu cho rằng cán bộ
hành chính nhà nước Vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện không đúng đắn, mà
còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể hiện
quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này khẳng định vai trò hết sức
đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời
xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo
những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành chính
nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận của nguyên tắc đó chính là nó chỉ thực sự có ý

nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền
của công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp
những gì mà Hiến pháp đã định.
4. Ý nghĩa của việc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành
chính nhà nước:
Tất cả các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội đều liên quan
trực tiếp tới nhân dân lao động, vì nhân dân phục vụ, như vậy ở đây nhân dân lao
động với tư cách là người chịu sự quản lý của các chủ thể quản lý cũng đồng thời là
đối tượng mà hoạt động quản lý hướng tới nhằm phục vụ, bảo vệ là người hơn ai
hết cần có quyền tham gia vào cỗ máy quản lý hành chính nhà nước này. Có như
vậy, quyền làm chủ của nhân dân mới có thể phát huy tối đa hiệu quả cũng như
lợi ích của nhân dân được bảo vệ. Nhân dân ủy quyền cho Quốc Hội và Hội
6
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
đồng nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Đây là ý nghĩa chính trị của sự ủy
nhiệm trong chế độ dân chủ đại diện của chế độ ta. Tuy nhiên, ủy nhiệm không phải
trao toàn bộ quyền lực của nhân dân cho bộ máy nhà nước mà là công dân giám sát
và góp ý hoạt động của cơ quan nhà nước. Nghĩa là dù bằng hình thức trực tiếp hay
gián tiếp, nhân dân lao động có quyền tham gia vào hoạt động quản lý hành chính
nhà nước và được bảo đảm quyền Hiến định đó.
II. Đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ta
hiện nay.
1.Điểm tích cực
Ngày nay nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính nhà nước càng
ngày càng đông đảo đặc biệt là trong các tổ chức xã hội như: Hội phụ nữ, Hội liên
hiệp thanh niên,…. Bên cạnh đó còn tham gia nhiều hoạt động ở cơ sở tự quản như:
tổ chức các tổ chức tự quản nhằm giữ gìn trật tự, vệ sinh công cộng,….Hoạt động
này ngày càng diễn ra phổ biến. Người lao động tham gia vào hoạt động của cơ
quan nhà nước các tổ chức xã hội, các hoạt động tự quản ở cơ sở và thông qua việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Dù trực tiếp hay gián tiếp, dù dưới hình thức

này hay hình thức khác, có thể nói rằng việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao
động tham gia đông đảo quản lí hành chính nhà nước trong quản lí hành chính ở
nước ta hiện nay đang theo chiều hướng tích cực. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước: khi đáp ứng đầy
đủ những yêu cầu mà pháp luật quy định, người lao động có quyền ứng cử vào cơ
quan quyền lực của nhà nước. Nhà nước có những văn bản hướng dẫn cụ thể như
Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội, Luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các văn bản
này giúp người lao động dễ dàng xác định những tiêu chuẩn cơ bản, cần thiết có thể
tham gia bầu ứng cử. Hoặc có thể đi bầu cử những người thực sự có tài đức vào
quốc hội hoặc ủy ban nhân dân các cấp. Những đại biểu được nhân dân bầu ra là đại
diện cho nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Theo điều 54 Hiến Pháp 1992 ( sửa đổi năm 2001) : “Công dân, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá,
nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ
hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân
7
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
theo quy định của pháp luật.”. Người dân nhìn nhận đúng đắn hơn về về bầu cử,
ứng cử thể hiện được vai trò của mình trong quản lí hành chính nhà nước. “ giá trị
thực tế” của lá phiếu ngày càng được nâng cao, tư cách phẩm chất của các cử tri
cũng được tăng dần. Đông đảo nhân dân cũng tham gia vào hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử,… Nhà nước cũng tạo điều
kiện để các cán bộ công chức nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như phẩm chất
đạo đức.
Thứ hai, trong việc tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội: trong những
năm gần đây, số lượng và chất lượng của nhân dân lao động trong các tổ chức xã
hội như mặt trận tổ quốc, các đoàn thể hội tăng lên đáng kể. Đánh giá cao hơn là sự
tự nguyện, tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội. Nhà nước tạo nhiều điều kiện
thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia vào các tổ chức xã hội và phát huy
vai trò của mình trong việc quản lí hành chính nhà nước.

Thứ ba, trong việc tham gia vào các hoạt động tự quản cơ sở: nhà nước đã và
đang tạo điều kiện về vật chất tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của
nhân dân lao động trong việc tham gia hoạt động có tính tự quản. Vì thế, các hoạt
động bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng,…
đang nhận được sự tham gia nhiệt tình của đông đảo người dân lao động. Số lượng
các đơn vị tự quản ngày càng tăng. Sự tham gia ở đây mang tính chất tự nguyện, thể
hiện vai trò làm chủ của mình trong quản lí hành chính nhà nước.
Thứ tư: trong việc trực tiếp thể hiện quyền và nghĩa vụ chính đáng của mình:
quyền và nghĩa vụ của công dân nói chung và người lao động nói riêng đang được
tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước tiến hành đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật để người lao động hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình để thực
hiện cho đúng. Bên cạnh đó, nhà nước cũng đã tạo được điều kiện để nhân dân trực
tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực quản lí hành chính
nhà nước. Như trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo. Có nhiều cải cách đa số các khiếu
nại, tố cáo được giải quyết kịp thời khuyến khích nhân dân tham gia bảo vệ lợi ích
hợp pháp của người khác.
2. Hạn chế bất cập:
8
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
- Trong vấn đề bầu cử các đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà nước. Tuy chất lượng
lá phiếu của cử tri dù có được tăng lên nhưng không nhiều và có nhiều điểm hạn
chế. Trong luật có quy định đại biểu phải tiến hành tiếp xuc cử tri. Tuy nhiên trong
thực tế thì vấn đề này còn nhiều hạn chế bởi nhiều lí do khác nhau. Nhiều cử tri
không biết đến các đại biểu mà mình lựa chọn là ai. Đa số chọn theo số đông và lựa
chọn cảm tính. Vậy nên, chất lượng đại biểu không được cao, không lựa chọn được
những đại biểu có đức có tài làm người đại diện cho mình.
- Công tác tuyển chọn cán bộ công chứ ở các cơ quan khác cũng gặp phải một số bất
cập. Tình trạng cán bộ công chức phân bố không đều “ nơi thừa cứ thừa, nơi thiếu
cứ thiếu”. Nhiều người được tuyển dụng có bằng cấp nhưng không biết vận dụng
kiến thức như thế nào, tư duy làm việc còn trên lí thuyết hiệu quả công việc không

được cao. Vấn đề công khai minh bạch trong tuyển công chức cũng chưa thực hiện
hiệu quả vẫn diễn ra rất nhiều tình trạng nhờ quen biết, chạy tiền,… để được vào
làm ở các cơ quan nhà nước.
- Hình thức tham gia tự quản vào hoạt động tự quản ở cơ sở là hình thức rất phổ biến.
Tuy nhiên, một số nơi xây dựng chế độ tự quản lại lựa chọn bố trí dân sự chưa hợp
lí hạn chế về năng lực trình độ. Hiệu quả làm việc chưa được cao.
- Quyền và nghĩa vụ của nhân dân đã được quy định và đảm bảo thực hiện tuy nhiên
trong quá trình thực hiện còn nhiều hạn chế. Tiêu biểu là vấn đề giải quyết khiếu
nại tố cáo. Bởi vì đảm bảo quyền lợi người này lại ảnh hưởng tới quyền lợi người
khác. Đôi khi vì các mối quan hệ mà cá nhân ngần ngại giải quyết. Đặc biệt hơn là
trong vấn đề tố cáo.
3. Các biện pháp giải quyết các bất cập hạn chế:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, cùng với thực hiện tốt hơn khâu quản lí,
tổ chức để các hoạt động quản lí được nhân dân lao động tham gia nhiều hơn, sâu
sắc hơn.
- Thực hiện công khai minh bạch trong khâu tuyển dụng, bầu cử cán bộ công chức.
Xử lí nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
- Nâng cao chế độ tự quản cấp ủy chính quyền cần quán triệt cho cán bộ, công chức
nắm rõ vai trò nhiệm vụ để cùng phối hợp hiệu quả. Thường xuyên đào tạo bồi
dưỡng nhiệm vụ, kiến thức pháp luật cho người tham gia vận động quần chúng
nhân dân. Nhằm phát huy tinh thần tự giác của mỗi cá nhân.
- Các cá nhân có thẩm quyền cần nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của mình để đáp
ứng các quyền lợi của nhân dân lao động. Cắt giảm thủ tục hành chính phức tạp
không cần thiết để nhân dân tiếp cần quyền của mình dễ dàng.
9
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
Kết bài
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính nhà
nước là nguyên tắc cơ bản và quan trọng của nhân dân khi tham gia vào quản lí
hành chính nhà nước. Đó là nguyên tắc khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà nước

pháp quyền của dân do dân và vì dân, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Việc
vận dụng nguyên tắc này ở nước ta có nhiều điểm tích cực cần phát huy nhưng
cũng những tiêu cực cần sửa chữa.
Mục lục:
Danh mục tài liệu tham khảo:
10
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam
1. Ts. Trần Minh Hương. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam. NXB- Công an
nhân dân. Hà Nội – 2008.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại tố
cáo, Nxb. Công an nhân dân
3. Luật Hiến Pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi năm
2001
4. Luật tố cáo năm 2011
5. Luật khiếu nại năm 2011;
11
Bài tập học kì – Luật hành chính Việt Nam

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×