Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 33 trang )

“Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong giảng dạy văn bản Ngữ văn ở lớp
8/1 Trường THCS Bạch Đằng”
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài
“Kỹ năng sống” (được nhắc đến như một thuật ngữ), là cụm từ hay “xuất
hiện” những năm gần đây trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
cộng đồng. Kỹ năng sống là gì? Đó “là một tập hợp các kỹ năng mà con người
có được thơng qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý
những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của con người”
(Bách khoa toàn thư mở Wkipedia). Theo Tổ chức y tế Thế giới WHO định
nghĩa, kỹ năng sống là “khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá
nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày”. Theo các định nghĩa trên và với mục tiêu giáo dục là nhằm giúp
học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình
thành nhân cách con người…thì các nhà trường phổ thơng hồn tồn có thể và
cần thiết, thậm chí cấp bách để đưa giáo dục kỹ năng sống vào các mơn học
nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục tồn diện một cách hợp lý, nhẹ nhàng và hài
hòa hơn.
Tuy vậy, vấn đề trên không phải lúc nào cũng được chú trọng thường
xuyên, kỹ lưỡng và hiệu quả thiết thực. Nói cách khác, nhà trường phần lớn chỉ
thiên về kỹ năng học tập và giáo dục tư tưởng đạo đức, đơn thuần là “dạy chữ”,
“dạy văn hóa” chứ chưa đi sâu vào “dạy kỹ năng sống” theo đúng nghĩa của nó
dù là qua các mơn học được lồng ghép. Chính vì thế, theo chuyên viên tâm lý
Huỳnh văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: “hiện nay,
thuật ngữ kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị “lạm

1



dụng” khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng
chưa thật hiểu về nó”.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta đang phát triển mạnh
mẽ, đời sống nhân dân được nâng cao kèm theo những mặt trái của xã hội đã tác
động không nhỏ đến suy nghĩ và hành động của học sinh, cộng với việc thiếu sự
quan tâm chăm sóc động viên, giáo dục từ gia đình nên nhiều em còn thiếu hiểu
biết về pháp luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kỹ năng sống (KNS) còn yếu kém,
chưa biết ứng xử với lối sống có văn hóa, nhiều em học sinh chưa nhận thức
được việc vi phạm đạo đức của mình, chưa phân biệt được điều hay lẽ phải và
các sai phạm của mình, chủ yếu sống đua địi, vi phạm một cách hồn nhiên. Đã
vậy một bộ phận các em cũng ít chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà sống
buông thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em gia đình có điều kiện kinh tế,
được ha mẹ quan tâm đến “cưng chiều”, học lực khá, dù nhận thức được nhưng
lại ỉ lại, thiếu ý chí vươn lên trong học tập cũng như rèn luyện. Tâm lý chung
của các em trong độ tuổi Trung học cơ sở (THCS) là muốn tự xem xét sự việc
xảy đến với bản thân trong cuộc sống, khơng muốn có sự can thiệp của người
khác, kể cả bố mẹ. Sự phát triển của “tự ý thức” địi hỏi thiếu niên ln muốn
thốt khỏi những mối quan hệ phụ thuộc trước kia để trở thành cá thể độc lập…
Nhưng những mong muốn mang tính chủ quan cá nhân và những thách thức
cuộc sống đôi lúc khơng có sự tương ứng nên các em rơi vào trạng thái có thái
độ phản kháng bằng các hình thức như lì lợm, lạnh nhạt, bất hợp tác, thậm chí là
tỏ thái độ bất cần đời… Gần đây chúng ta thường thấy thực trạng trẻ vị thành
niên có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, sống ích kỷ, vơ tâm, khép
mình… Các em đã và đang trở thành nạn nhân của các tệ nạn xã hội, trở thành
những học sinh (HS) không ngoan đến “bất trị”, thành người con hư của gia
đình, thậm chí cịn vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành nhiên. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này. Một trong những nguyên nhân chính đó là HS ngày
nay thiếu những KNS cần thiết. Cuộc sống không phải lúc nào cũng suôn sẻ mà
2



trong đó những nguy cơ, chướng ngại, rắc rối, tình huống… luôn tiềm ẩn để sẳn
sàng lấn tới khi con người khơng biết “ứng phó, thích nghi” và giải quyết
chúng, với thế hệ trẻ KNS như là “hành trang” không thể thiếu cho các em bước
vào đời.
Do vậy, ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực học sinh thì việc giáo dục KNS cho cho học sinh cũng ngày càng
được quan tâm. Từ năm học 2010 – 2011 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa chương
trình “lồng ghép giáo dục kĩ năng sống“ vào các mơn học nói chung, trong đó
có mơn Ngữ văn. Thực chất của giáo dục KNS cũng chính là giáo dục đạo đức
lối sống cho HS trong trong trường học và phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực“ cũng khơng nằm ngịai mục tiêu đó.
Bản thân tôi đã, đang đứng lớp và giảng dạy môn Ngữ văn 8 tại Trường
THCS Bạch Đằng, tôi nhận thấy các em không chỉ mất hứng thú, xao nhãng
việc học; hơn thế các em gần như thiếu những kỹ năng cơ bản nhất như kĩ năng
giao tiếp ứng xử văn hóa, kĩ năng hợp tác, kỹ năng nhận thức, tự chủ, tự đánh
giá…Với phương châm:
Dạy văn là dạy đạo làm người
Học văn là học đạo làm người
Cho nên qua mỗi bài giảng ngồi rèn luyện kiến thức bản thân tơi luôn liên hệ
thực tiễn và rút ra những bài học giáo dục sâu sát để rèn KNS cho học sinh, giúp
các em có thêm hành trang vững bước vào tương lai.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống trong giảng dạy văn bản Ngữ văn ở lớp 8/1
Trường THCS Bạch Đằng” nhằm đưa ra một số biện pháp giải quyết vấn đề
cụ thể mà tôi đã áp dụng thành công trong các tiết dạy văn bản năm học vừa
qua.
2. Mục tiêu nghiên cứu

3



Giáo dục KNS thông qua các giờ học Ngữ văn theo phương pháp dạy học
tích cực ở trường THCS nhằm giúp HS:
Về kiến thức:
+ Nâng cao hiểu biết về giá trị truyền thống của dân tộc cũng như những giá trị
tốt đẹp của nhân loại; góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung, khắc sâu kiến
thức đã học về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và
xã hội, về nghề nghiệp.
+ Nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân sống tự tin, lành
mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể
chất và tinh thần của bản thân và người khác.
+ Nhận thức được những giá trị cốt lõi làm nền tảng cho các KNS.
Về kĩ năng:
+ Có kĩ năng làm chủ bản thân, có trách nhiệm biết ứng xử linh hoạt, hiệu quả
và tự tin trong các tình huống giao tiếp hằng ngày.
+ Có suy nghĩ và hành động tích cực, tự tin, có những quyết định đúng đắn
trong cuộc sống.
+ Có kĩ năng quan hệ tích cực và hợp tác, biết bảo vệ mình và người khác trước
những nguy cơ ảnh hưởng đế sự an toàn và lành mạnh của cuộc sống (tệ nạn xã
hội, HIV/AIDS, bạo lực, nạn xâm hại tinh thần và thể xác…); giúp HS phòng
ngừa những hành vi, nguy cơ có hại cho sự phát triển của cá nhân.
Về thái độ:
+ Hứng thú và có nhu cầu thể hiện các KNS mà bản thân đã rèn luyện được
đồng thời biết động viên người khác cùng thực hiện các KNS đó.
+ Hình thành và thay đổi hành vi, nhất là những hành vi liên quan đến lối sống
lành mạnh có trách nhiệm với bản thân, bạn bè, gia đình và cộng đồng.
+ Có ý thức về quyền và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, nhà trường và
xã hội; có ý thức nghề nghiệp.
3. Về đối tượng nghiên cứu:

4


- Chủ thể: Lồng ghép giáo dục KNS trong giảng dạy văn bản Ngữ văn 8
- Lớp thực nghiệm: Học sinh lớp 8/1 - Trường THCS Bạch Đằng – Nha Trang –
Khánh Hòa.
- Lớp đối chiếu: Học sinh lớp 8/2 - Trường THCS Bạch Đằng – Nha Trang –
Khánh Hòa.
- Hình thức: Lớp thực nghiệm (lớp 8/1) tiến hành giảng dạy theo các giải pháp
của Sáng kiến kinh nghiệm, lớp đối chiếu (lớp 8/2 ) giảng dạy theo cách thức
chung của tiết dạy văn bản trong môn Ngữ văn.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Các văn bản có nội dung lồng ghép giáo dục KNS trong bộ môn Ngữ văn 8.
- Trường THCS Bạch Đằng – Nha Trang – Khánh Hòa.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình nghiên cứu tơi thực hiện một số phương pháp sau:
- Tìm tịi, nghiên cứu nội dung để lồng ghép
- Khảo sát, điều tra, suy nghĩ, ghi chép, phân tích và tổng hợp
- Nắm bắt tình hình thực tiễn
- Đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy để tìm ra giải pháp.
- Rút kinh nghiệm – đưa ra giải pháp sau khi đánh giá kết quả cụ thể từ so sánh,
đối chiếu, rút kinh nghiệm.
- Trao đổi, thảo luận, góp ý thơng qua sinh hoạt chun mơn của nhóm Văn của
tổ Khoa học Xã Hội.
6. Thời gian nghiên cứu
- Thời gian bắt đầu: tháng 09 năm 2018
- Thời gian kết thúc: tháng 05 năm 2019
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở thực hiện đề tài
1.1. Cơ sở lí luận thực hiện đề tài

Giáo dục trong xu hướng hiện nay không chỉ hướng vào mục tiêu tạo ra
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phất triển kinh tế xã hội, mà còn hướng đến
mục tiêu phát triển đầy đủ và tự do giá trị của mỗi cá nhân giúp cho con người
5


có năng lực để cống hiến, đồng thời có năng lực để sống một cuộc sống có chất
lượng và hạnh phúc.
Xã hội hiện đại luôn nảy sinh những vấn đề phức tạp và những vấn đề bất
định đối với con người. Nếu con người khơng có năng lực để ứng phó vượt qua
những thách thức đó và hành động theo cảm tính thì rất dễ gặp rủi ro.
Chính vì vậy trong Diễn đàn thế giới về giáo dục cho mọi người họp tại
Senegan (2000) Chương trình hành động Dakar đã đề ra 6 mục tiêu, trong đó
mục tiêu 3 nói rằng “Mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận
chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp”. Còn trong mục tiêu 6 yêu cầu
“Khi đánh giá chất lượng giáo dục cần phải đánh giá kĩ năng sống của người
học”. Như vậy, học KNS trở thành quyền của người học và chất lượng giáo dục
phải được thể hiện cả trong kĩ năng sống của người học.
Việc thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông là đổi mới đồng bộ các
phương diện giáo dục từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đến
cách thức đánh giá, nhằm thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy
học tương tác, giúp HS phát triển năng lực cá nhân, phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, năng lực tự học, năng
lực hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, có tình cảm
nhân văn và niềm vui, hứng thú trong học tập.
Luật Giáo Dục 2005 (Điều 5) qui định, “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên ”. Với mục tiêu giáo dục phổ thơng là “giúp học sinh phát
triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,

phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động,
tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ”. Chương trình giáo dục phổ thơng ban
6


hành kèm theo quyết định số 16/2006/ QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ
Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc
điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm
học tập cho học sinh”. Nghị Quyết TW 2 khóa 8 cũng khẳng định “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp Giáo dục, đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm
điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh … ”
Cho nên, giáo dục KNS cho học sinh đang trở thành một nhiệm vụ quan
trọng đối với giáo dục cả nước. Giáo dục phải mang lại cho mọi người không
chỉ kiến thức mà cả KNS một cách trực tiếp, hay gián tiếp. Vì thế việc vận dụng
các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục KNS cho học sinh là việc làm cần
thiết, thông qua các hoạt động cũng như các hình thức giáo dục mà các KNS
của HS sẽ được hình thành và phát triển.
1.2. Cơ sở thực tiễn thực hiện đề tài
Có thể nói, KNS cần cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề khác
nhau trong đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, có khoảng cách giữa nhận thức và
hành vi của con người, có nhận thức đúng chưa chắc đã có hành vi đúng. Ví dụ:
nhiều người biết hút thuốc lá có hại cho sức khỏe, có thể gây ung thư phổi, ung
thư vịm họng nhưng họ vẫn hút thuốc; Có những người là luật sư, công an,

thẩm phán… họ hiểu biết rất rõ về pháp luật nhưng vẫn vi phạm pháp luật (như
chạy án, dung túng, tiếp tay cho tội phạm…) đó chính là vì họ thiếu KNS. Lúc
này KNS trở thành nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành hành vy, thái
độ và thói quen tích cực, lành mạnh. Ngược lại nếu thiếu KNS thì con người sẽ
bị vấp váp, dễ thật bại trong cuộc sống. Như vậy KNS không chỉ thúc đẩy sự
7


phát triển của cá nhân mà cịn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp
ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người.
Các em HS chính là những mầm non tương lai của đất nước, là những
người sẽ quyết định sự thịnh vượng của đất nước trong những năm tới. Nếu
khơng có KNS các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm với bản thân, gia
đình, cộng đồng và đất nước. Bởi vậy hơn ai hết, KNS đặc biệt cần thiết đối với
lứa tuổi học sinh (đặc biệt là Tiểu học và Trung học cơ sở); bởi các em còn là
lứa tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, khả năng và điều kiện sống gần như hoàn toàn
phụ thuộc vào cha mẹ, người lớn và gia đình. Thậm chí có khi cha mẹ, người
lớn vẫn không theo kịp những biến động xã hội ngày càng dồn dập và diễn biến
phức tạp, khó lường. Thêm nữa, với sự bùng nổ thông tin, các em tiếp cận với
đủ loại tác động tốt lẫn xấu; có khi các em phải rời bỏ gia đình để bươn chải
kiếm sống, phải làm cả trách nhiệm của người lớn. Lúc đó có nhiều việc các em
phải một mình quyết định nên không thể biết được thế nào là điều hay lẽ phải…
Đây cũng là lúc các em sẽ cần đến KNS nhiều hơn để có thể có khả năng hành
động đúng theo nhận thức. Chính lẽ đó nhà trường sẽ là nơi dẫn dắt, định
hướng, tạo điều kiện giúp đỡ các em “tham gia cuộc sống” một cách tích cực để
giải quyết những nhu cầu và thách thức của đời sống xã hội, nhất là xã hội hiện
đại, phát triển.
Vấn đề giáo dục và rèn luyện KNS cho HS khơng phải là điều hồn tồn
mới lạ nếu như khơng muốn nói là cũ mịn vì đây là vấn đề được Bộ giáo dục và
đào tạo chỉ đạo đưa vào lồng ghép trong các môn học từ những năm học 2010 –

2011. Cũng không thể phủ nhận rằng: rèn KNS cho HS thực sự có tác dụng tốt
đến việc giáo dục đạo đức HS trong nhà trường, không chỉ giúp các em có
những kỹ năng ứng xử, giao tiếp mà cịn tạo thành thói quen phân tích đánh giá
tình hình, thói quen chủ động vươn lên xử lý tình huống một cách hợp lí. Song,
có lẽ do “sức ép” thực tế quá lớn của chương trình, điểm số, thi cử, thành tích,
lối học “hàn lâm”…, việc giáo dục KNS không phải không bị xao nhãng, hời
8


hợt ở từng lúc, từng nơi. Điều đó làm cho các em vốn khơng có KNS lại càng
hạn chế, bất lợi hơn và thuật ngữ KNS đôi khi trở thành…xa lạ với các em.
Điều đó cho thấy cách dạy và học theo kiểu cũ (giảng sng, sáo mịn, máy
móc, áp đặt, học vẹt) sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với việc giáo dục và rèn luyện
KNS, như một rào cản khiến các em càng trở nên thụ động. Với ý nghĩa và quan
niệm đó, qua thực tế giảng dạy cũng như việc học tập của học sinh, tôi mong
muốn từng bước đưa việc giáo dục KNS (bằng cách lồng ghép) vào bộ môn
Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS) theo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy
trong nhiều năm qua. Như đã nói, dù đó khơng phải là điều hoàn toàn mới lạ,
nhưng vấn đề là tiềm năng để thực hiện, nhằm khắc phục những hạn chế đã nêu,
phần nào cải thiện được tình hình mà tơi cảm thấy chưa hài lịng với bản thân
trong q trình dạy học bộ môn Ngữ văn, nhất là việc giáo dục, rèn luyện KNS
cho các em. Cũng nói thêm, với đặc trưng khá “nhạy cảm”, mơn Ngữ văn có
phần thuận lợi hơn trong việc giáo dục, rèn KNS cho học sinh so với các môn
học khác. Bởi bản thân môn Ngữ văn đã chứa đựng trong đó yếu tố có thể bao
hàm KNS. Thậm chí, việc tưởng như đơn giản, chỉ một câu chào hỏi thân thiện,
chỉ một lời “cảm ơn, xin lỗi”, một cử chỉ, hành động thích hợp trong tình huống
nào đó…đều chứa đựng nội dung ít nhiều từ KNS. Nói cách khác, mơn Ngữ văn
dạy cho các em biết nói “khơng” với sự “vơ cảm”. Đó là tính nhân văn, “dạy
người” mà bản thân đặc trưng môn học có được.
Tóm lại: Với những đặc trưng riêng của một môn học về Khoa học xã hội

và nhân văn, môn Ngữ văn bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực
(năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản…), cịn giúp học sinh
có những hiểu biết về xã hội, nội tâm con người. Vì thế môn Ngữ văn phải là
môn đi đầu trong việc lồng ghép giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường
nói chung và đặc biệt là trường THCS nói riêng.
2. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết
2.1. Thực trạng vấn đề
9


Trường THCS Bạch Đằng là một ngôi trường nằm trên đảo Trí Ngun,
địa phận vừa được chính phủ cơng nhận là xã đảo Vĩnh Nguyên. Trường có 8
lớp học với số lượng HS dao động từ 200 đến 250 học sinh tùy mỗi năm học.
Tại địa phương, tuy đã được chính quyền quan tâm, vận động, nâng cao tầm
quan trọng của việc học và rèn luyện đạo đức, nhưng trên thực tế cơng tác giáo dục
vẫn cịn gặp rất nhiều khó khăn. Thêm vào đó, hầu hết kinh tế gia đình các em cịn
bếp bênh khơng ổn định nên cha mẹ các em dành nhiều thời gian để làm việc kiếm
tiền, không quan tâm nhiều đến việc giáo dục con cái.
Trong khi ở bậc THCS, học sinh lớp 8 là đối tượng có nhiều chuyển biến tâm
lí. Các em khơng chỉ tăng vọt về thể chất mà đây là lứa tuổi “bất trị” “khủng hoảng”
và “khó bảo” nhất. Lúc này các em đã ý thức về giới tính, phân biệt tình bạn và tình
yêu rất rõ. Bởi vậy việc giáo dục KNS cho các em càng trở nên bức thiết hơn bao
giờ hết. Tuy nhiên thời lượng của một tiết học chỉ 45 phút để giáo viên vừa truyền
đạt kiến thức cơ bản cho các em, vừa lồng ghép giáo dục KNS là điều không dễ
dàng.
Thực trạng dễ thấy nhất của học sinh lớp 8 trong trường THCS Bạch Đằng là:
- Ngồi số ít HS chăm ngoan, học giỏi thì phần nhiều là HS ham chơi, đi học bữa
được bữa mất, khơng có ý thức học tập. Trốn học chơi game, chát, xin tiền cha mẹ
đóng học nhưng lại dùng để tiêu xài cho những trị chơi vơ bổ...
- Kĩ năng giao tiếp của các em quá yếu, thường nói trống không với thầy cô

giáo. Ngay cả khi thầy cô giáo đang say sưa giảng bài các em vô tư cắt ngang
lời thầy cơ với những câu nói khơng liên quan như những người vơ ý hoặc thiếu
văn hóa giao tiếp vậy.
- Trong lớp học, khi các thầy cô đang giảng bài các em vẫn vô tư nằm ra ghế
hoặc nằm gập xuống bàn ngủ ngon lành. Nếu không vậy thì lại ngồi vẽ bậy lên
bàn ghế, sách vở hay chọc ngốy các bạn xung quanh khơng cho các bạn được
ngồi yên học bài. Ra ngoài lớp học, nhiều em nhìn thấy thầy cơ giáo vừa dạy
mình đi qua cũng không một lời chào, hỏi.
10


- Nói tục, chửi bậy trong trường trong lớp, vi phạm nội quy trường lớp...
- Khơng tự giác, tích cực học tập. Thậm chí có em đi học ngun một năm học
mà không viết hết một quyển vở ô ly 100 trang. Các em khơng có khái niệm đi
học để phấn đấu rèn luyện cho tương lai tốt đẹp. Với các em đơn giản đến
trường chỉ để đi cùng bạn bè, chơi cùng bạn bè, vì ở nhà khơng biết làm gì...
2.2. Số liệu điều tra về thực trạng của vấn đề
Để hiểu rõ thực trạng về KNS của học sinh lớp 8/1 ở Trường THCS Bạch
Đằng, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành cho các em làm bài khảo sát về
KNS vào ngày 28 tháng 9 năm 2018, với câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về tình
mẫu tử thiêng liêng?.
Kết quả thu được như sau:
Lớp / số

Kĩ năng tốt
Số lượng Tỉ lệ

học sinh
8/1 – 24 hs 4


16,7 %

Có hình thành kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng Tỉ lệ
5

19,2 %

12

53,4 %

Đánh giá kết quả: Đây là câu hỏi mở mà vấn đề trong đó gắn liền với
đời sống tình cảm của HS, đồng thời các em vừa được học văn bản “Trong lịng
mẹ” ( Trích hồi kí Những ngày thơ ấu) của nhà văn Nguyên Hồng (Ngữ văn 8
trang 15, tập 1) cũng với nội dung bài học về tình mẫu tử thiêng liêng. Đối với
câu hỏi này tôi hướng đến kiểm tra về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nhận thức giá
trị bản thân… chỉ cần các em cho bản thân mình chút lắng đọng và nghĩ đến
đấng sinh thành của mình đang vất vả góp chắt từng đồng tiền để các em được
đủ đầy cơm áo và đến trường trong niềm hạnh phúc mà thơi; hồn tồn khơng
u cầu các em phải học thuộc bài, không hề nặng kiến thức lý thuyết. Qua
bảng kết quả trên, tôi nhận thấy số học sinh nhận thức được giá trị của tình mẫu
tử thiêng liêng chỉ đếm trên đầu ngón tay, đó là các em đã mạnh dạn, chủ động
nói lên cảm xúc của chính mình; ngồi ra cịn một số em đã bước đầu nhận thức
được vấn đề và bước đầu có những KNS cơ bản nhưng chưa thực sự sâu sắc.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều em học sinh chưa thật sự sâu sắc trong tình cảm,
11



thiếu tự tin, không biết biểu đạt cảm xúc hay suy nghĩ của bản thân về tình mẫu
tử… Hơn nửa số học sinh còn lại của lớp 8/1 (53,4 %) các em khơng bộc lộ
được tình cảm của bản thân, nếu có thì cảm xúc cịn hời hợt, thậm chí bí từ khi
nói về chính tình cảm của bản thân với gia đình đặc biệt là mẹ. Để khắc phục
tình trạng trên thì cả giáo viên và học sinh cần phải nỗ lực rất nhiều. Đặc biệt từ
phía giáo viên cần có những biện pháp tích cực, phù hợp với HS trường đảo để
tạo hứng thú học tập cũng như rèn luyện KNS cho các em.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng vấn đề
Bằng kinh nghiệm của bản thân qua các năm giảng dạy và tìm hiểu đối
tượng HS, tơi nhận thấy nguyên nhân của thực trạng trên là:
- Về phía học sinh: HS lớp 8 là lứa tuổi có sự biến đổi tâm sinh lý bản
thân và sự biến đổi trong các mối quan hệ. Tình trạng chung của HS ở đảo Trí
Ngun là khơng coi trọng việc học tập và không phấn đấu học ở bậc học cao
hơn, các em hồn tồn bng lỏng suy nghĩ về tương lai. Đặc biệt là HS nam, số
nhiều là theo nghề biển cùng gia đình, có nhiều em sáng đến trường, chiều và
tối tranh thủ đi ghe đánh cá gần bờ cùng cha. Trong khi các em HS trong thành
phố phần đa được cha mẹ quan tâm sát sao trong việc học tập, rèn luyện, thậm
chí cha mẹ các em cịn đưa đón mỗi ngày đến trường để quản lý chặt chẽ quỹ
thời gian của con em mình thì các em học sinh trường đảo Trí Nguyên phần đa
là phải tự chăm sóc bản thân, tự chủ động đi học chứ cha mẹ các em ít khi nhắc
nhở, quản lý hay quan tâm, có khi em nghỉ học mà gia đình khơng hay biết.
- Về phía phụ huynh học sinh: Gia đình của các học sinh trường THCS
Bạch Đằng nói chung, trong đó có học sinh lớp 8 sống trên địa bàn đảo, kinh tế
gia đình của các em hầu như phụ thuộc vào nuôi trồng và đánh bắt trên biển.
Nhiều gia đình đi đánh bắt xa bờ rất dài ngày, có những chuyến đi kéo dài hơn
cả tháng hoặc hai, ba tháng là bình thường. Trong những chuyến xa khơi để
mưu sinh như vậy họ thường gửi con cái ở nhà nhờ ông bà trông, hoặc anh chị
em tự chăm sóc lẫn nhau, có trường hợp một số học sinh còn phải tự ở nhà một

12


mình và tự lo cho bản thân. Thêm vào đó phụ huynh học sinh trình độ dân trí
thấp, phụ huynh khơng khuyến khích con cái học tập, chưa có nhận thức đầy đủ
về nhiệm vụ giáo dục KNS cho con em mình, chưa thực sự gương mẫu cho các
con noi theo. Không phối hợp với nhà trường giáo dục các em. Phó mặc nhiệm
vụ giáo dục học sinh cho giáo viên và nhà trường.
- Về phía mơi trường xã hội: Sự phát triển nhanh về kinh tế - văn hóa –
xã hội tại địa phương đồng thời đem lại nhiều hệ lụy cho HS. Các tụ điểm vui
chơi game, Internet; Bi-a … quanh cổng trường hút tầm nhìn và kích thích trí tị
mị, lịng ham chơi của các em. Đa số HS trong khối 8 đang học tại Trường
THCS Bạch Đằng đều có điện thoại thơng minh để chơi game, lướt feabook…
Tất cả như một cánh tay khổng lồ lôi kéo HS rời xa học tập đồng thời tạo ra
nhiều nguy cơ tấn công vào tâm lý, sức khỏe của HS.
Như vậy, nguyên nhân quan trọng dẫn đến vấn đề trên là do các em học
sinh còn coi nhẹ việc học, buông lỏng việc rèn luyện mọi mặt của bản thân. Với
những nguyên nhân này thì tác động quan trọng nhất giúp các em tiến bộ đó là
sự tâm huyết, sát sao hướng dẫn từng bước của giáo viên bộ môn với những
phương pháp phù hợp với HS trường đảo.
3. Giải pháp thực hiện đề tài lồng ghép giáo dục KNS trong giảng dạy
văn bản Ngữ văn ở lớp 8/1 Trường THCS Bạch Đằng
3.1. Các địa chỉ lồng ghép giáo dục KNS trong giảng dạy văn bản Ngữ
văn 8
Lồng ghép giáo dục KNS cho HS thông qua các môn học phải được thực
hiện thật sự có hiệu quả, đặc biệt ở những bài học có yêu câu lồng ghép. Sau
đây là các địa chỉ lồng ghép giáo dục KNS trong môn Ngữ văn 8:
(Theo sách Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THCS – tài liệu
giành cho giáo viên, NXB Giáo dục Việt Nam, xuất bản năm 2010 - từ trang 55
đến trang 66)

STT Tên văn bản
1
Tôi đi học

Các kĩ năng cơ bản được giáo dục
- Suy nghĩ sáng tạo
13


- Xác định giá trị bản thân
2

- Giao tiếp
- Suy nghĩ sáng tạo

Trong lòng mẹ

- Giao tiếp
3

- Xác định giá trị bản thân
- Suy nghĩ sáng tạo

Tức nước vỡ bờ

- Giao tiếp
4

- Tự nhận thức
- Suy nghĩ sáng tạo


Lão hạc

- Giao tiếp
5

- Tự nhận thức
- Suy nghĩ sáng tạo

Cô bé bán diêm

- Giao tiếp
6

- Tự nhận thức
- Suy nghĩ sáng tạo

Chiếc lá cuối cùng

- Giao tiếp
7

- Tự nhận thức
- Suy nghĩ sáng tạo

Hai cây phong

- Giao tiếp
8


9

- Tự nhận thức
Thông tin ngày trái đất năm - Suy nghĩ sáng tạo
2000

- Giao tiếp

Ôn dịch thuốc lá

- Tự quản bản thân
- Suy nghĩ sáng tạo
- Giao tiếp

10

- Ra quyết định
- Suy nghĩ sáng tạo

Bài toán dân số

- Giao tiếp
11

- Ra quyết định
- Giao tiếp

Nhớ rừng

- Suy nghĩ sáng tạo

- Tự quản bản thân
14


12

Quê hương

- Giao tiếp
- Suy nghĩ sáng tạo

13

- Xác định giá trị bản thân
- Giao tiếp

Khi con tu hú

- Suy nghĩ sáng tạo
14

- Xác định giá trị bản thân
- Giao tiếp

Ngắm trăng, đi đường

- Suy nghĩ sáng tạo
15

- Xác định giá trị bản thân

- Giao tiếp

Chiêú dời đô

- Suy nghĩ sáng tạo
16

- Xác định giá trị bản thân
- Giao tiếp

Hịch tướng sĩ

- Suy nghĩ sáng tạo
- Xác định giá trị bản thân
3.2. Các bước cơ bản để thực hiện lồng ghép giáo dục KNS trong giảng
dạy văn bản Ngữ văn 8
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy
lồng ghép giáo dục KNS trong các mơn học trong trường THCS nói chung và
mơn Ngữ văn 8 nói riêng có thể được thực hiện theo trình tự một vài bước cơ
bản sau:
*Bước 1: Chuẩn bị nội dung lồng ghép KNS
Bước này được tiến hành khi ta soạn giáo án và được xem là bước khởi đầu
quan trọng. Muốn nội dung lồng ghép đạt hiệu quả giáo dục khơng mang tính
chất gượng ép mà rất tự nhiên, không làm đứt mạch bài giảng hay ảnh hưởng
đến thời gian, thì khi soạn giáo án giáo viên cần có sự cân nhắc và lựa chọn đối
với từng bài cụ thể nên lồng ghép giáo dục KNS gì? Lồng ghép ở phần nào?
Lồng ghép bằng cách nào?... Như vậy nội dung lồng ghép đã được chuẩn bị cụ
thể, giáo viên chủ động tiến hành.
*Bước 2: Thực hiện lồng ghép KNS trong bài giảng
15



Khi giáo viên đã có sự chuẩn bị trong giáo án thì đối với việc thực hiện lồng
ghép KNS trong giờ giảng được tiến hành quá thuận lợi và linh hoạt ở bất cứ
phần nào, có điều, nó tùy thuộc vào từng bài cụ thể, chẳng hạn:
+ Lồng ghép ở phần giới thiệu bài: Giáo viên xây dựng tính huống phản ánh
đúng nội dung giáo dục từ bài học và khéo léo dẫn dắt các em vào bài. Điều này
sẽ tạo được hứng thú học tập cho các em ngay từ bước đầu và kích thích kĩ năng
tư duy sáng tạo, khám phá của các em.
+ Lồng ghép trong quá trình giảng dạy: Ngồi việc hướng dẫn các em chủ động
chiếm lĩnh hệ thống trí thức của bài học, giáo viên đan xen các câu hỏi lồng
ghép và liên hệ giáo dục KNS sẽ làm cho bài giảng thêm phần sinh động, học
sinh sẽ thấy thoải mái hơn…
+ Lồng ghép trong phần luyện tập: Việc lồng ghép ở phần này có cái hay ở chỗ
giúp các em khắc sâu hơn các nội dung, giá trị của cả bài học và lồng ghép KNS
trong phần thực hành. Nhưng có điều nó còn tùy thuộc vào thời gian mỗi tiết
học giành cho phần luyện tập như thế nào…
Như vậy, trong giờ giảng Văn, việc dạy học lồng ghép giáo dục KNS cho
học sinh nên thực hiện ở khâu nào tùy thuộc vào sự bố trí, sắp xếp của từng giáo
viên.
3.3. Một số giải pháp thay thế
3.3.1. Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học
Nội dung của hoạt động đối thoại rất đa dạng, phong phú: thường là vấn
đề kiến thức bộ mơn, có khi là hiểu biết về đời sống, có khi là kiến thức về kĩ
năng diễn đạt, có khi là sự kết hợp của các vấn đề trên, …. Để nêu vấn đề đối
thoại, giáo viên sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau để nêu vấn đề cần đối
thoại. Câu hỏi nêu vấn đề để thực hiện đối thoại cần phù hợp, vừa sức và phát
huy được trí tuệ và năng lực, các năng lực tổng hợp của HS. Qua hoạt động đối
thoại giáo viên truyền thụ kiến thức bài học hay giáo dục năng lực đời sống và
rèn kĩ năng cho HS... Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý: Đối thoại giữa giáo

16


viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở để khuyến khích HS bộc lộ
suy nghĩ của bản thân về vấn đề đã và đang được đặt ra trong văn bản, vì vậy
HS sẽ có nhiều cách giải quyết khác nhau. Có thể sẽ có những cách giải quyết
chưa phù hợp thì giáo viên lắng nghe, sau đó tập trung ý kiến để đi đến thống
nhất quan điểm và uốn nắn các em hiểu đúng vấn đề. Bởi lẽ trong thực tế không
phải HS nào cũng hiểu đúng vần đề và có cách giải quyết đúng. Vì thế, vai trị
của giáo viên ở đây vơ cùng quan trọng trong việc uốn nắn các em phát triển
đúng hướng thì việc lồng ghép giáo dục mới thực sự có hiệu quả.
Ví dụ 1: Văn bản “ Tơi đi học’’ ( Truyện ngắn – Thanh Tịnh )
Như chúng ta đã biết, ở bậc trung học cơ sở, HS lớp 8 là đối tượng có
nhiều chuyển biến về mặt tâm lý. Do vậy, giáo viên được phân công giảng dạy
khối lớp 8 cũng có thể chuẩn bị một tâm thế rất thoải mái ngay từ ngày đầu tiên
bước vào lớp. Chính vì thế, tiết học đầu tiên theo tơi là vơ cùng quan trọng, giáo
viên phải làm thế nào để gây được ấn tượng, niềm tin và tạo được cho các em
một giờ học văn thật thoải mái, hứng khởi mà khơng hề có sự nhàm chán nào.
Và bài giảng văn bản Tơi đi học của nhà văn Thanh Tịnh chính là tiết học Ngữ
văn đầu tiên trong chương trình Ngữ văn lớp 8 tập 1. Đối với tiết học này, xét về
nội dung phản ánh thì đây là một vấn đề rất gần gũi nên các em khơng cảm thấy
khó khăn trong việc lĩnh hội trí thức bài học. Tơi đã có những câu hỏi về nội
dung lồng ghép được tiến hành cụ thể như sau:
Đó là những kỉ niệm hồn nhiên, trong sáng của nhân vật “tôi” trong ngày
đầu tiên đến trường. Còn trong mỗi chúng ta kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học
của các em như thế nào? Hãy cùng chia sẻ với mọi người.
Từ việc cho HS chia sẻ về kỉ niệm của mình, các em càng thấy yêu
trường lớp, thầy cô, bạn bè cũng như cảm nhận được sự quan tâm của mọi
người đối với mình để các em ln chăm ngon và cố gắng học tập tốt. Hơn nữa
để tạo khơng khí vui tươi, sơi nổi và tình thầy trị thêm gần gũi, bản thân giáo


17


viên chúng ta cũng cần chia sẻ những kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học của mình
cho học sinh nghe.
Ví dụ 2: Với tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” – O Hen – ri
Giáo viên dẫn dắt như sau :
- Theo em, vì sao cụ Bơ-men lại vẽ bức tranh chiếc lá thường xuân trên tường ?
- Từ cái chết bất ngờ của cụ Bơ-men và sự hồi sinh bất ngờ của nhân vật Giôn –
xi , em suy nghĩ gì về những điều bất ngờ ấy ?
- Em có đồng ý với ý kiến của bạn khơng ? Vì sao?
-Vậy theo em, nội dung bức thơng điệp nhà văn O Hen – ri muốn thể hiện qua
văn bản là gì?
Sau khi hồn chỉnh về giá trị của văn bản, giáo viên rèn năng lực giải quyết các
vấn đề của đời sống với một hay nhiều câu hỏi sau và chọn câu hỏi nào và mấy
câu là tùy thuộc vào năng lực của mỗi lớp.
Một số câu hỏi gắn liền thực tiễn đời sống tham khảo như sau:
- Em hiểu như thế nào về tình yêu thương trong cuộc sống giữa con người và
con người? (về giá trị ? những biểu hiện cụ thể ? )
-Theo em, đâu là thái độ đúng đắn cần có khi em muốn giúp đỡ một người
khác đang trong hoàn cảnh cần sự giúp đỡ? (bạn cùng lớp, cùng trường, hay
người có hồn cảnh éo le trong đời sống ngày thường…)
- Em hiểu như thế nào là sự hi sinh và vẻ đẹp của sự hi sinh trong cuộc sống?
Từ giá trị nội dung và nghệ thuật của bài học, qua các câu hỏi vừa nêu
trên giáo viên dẫn dắt học sinh nhận thức rõ hơn ý nghĩa sâu sắc về của tình
bạn. Hơn thế các em nhận thức được món q vơ giá mà chỉ tình bạn thực sự
mới có được.
Ví dụ 3: Với tác phẩm “ Cô bé bán diêm” – An-đéc-xen, tôi dùng các câu hỏi
sau:


18


- Ở phần cuối truyện, từ cái chết của em bé và thái độ hờ hững của mọi người
trước cái chết thương tâm, hai hình ảnh đối lập ấy cho em hiểu điều gì về thái
độ của tác giả?
- Đối với những người có hồn cảnh khơng may mắn, đáng thương ở xung
quanh, em cần cư xử như thế nào cho đúng dắn ? Vì sao?
(Gv có thể định hướng thái độ, cách giúp đỡ với những người có hồn cảnh
đáng thương, hay bạn bè gặp khó khăn sao cho tế nhị , tránh ban ơn, tránh gây
tổn thương,….Từ đó, giáo viên liên hệ với những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc lợi
dụng lòng thương người, lòng trắc ẩn một số người trong đời sống để học sinh
có nhận thức đúng với muôn mặt của cuộc sống, để tránh bị những người xấu
lợi dụng, lịng tốt khơng được phát huy tích cực khi khơng dành cho đúng đối
tượng, đúng hồn cảnh cần giúp đỡ; và học sinh không mất niềm tin trong cuộc
sống...)
Từ các câu trả lời của HS, giáo viên cần chú ý thêm cách diễn đạt, dùng
từ để có uốn nắn kịp thời , nếu cần – cũng bằng câu hỏi nêu vấn đề ( Bạn dùng
từ … , em thấy có phù hợp khơng? Nếu thay bằng từ …, em thấy từ nào hợp lí
hơn? Vì sao? ) hoặc sử dụng lời nhận xét về cách dùng từ tốt của học sinh.
Ngoài những câu hỏi đối thoại giữa giáo viên và học sinh như vừa nêu
trên, trong q trình giảng dạy giáo viên có thể tổ chức cho HS với HS đối thoại
với nhau bằng cách: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra câu hỏi, gọi một em
khác trả lời, hai em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của riêng mình. Chẳng
hạn sau khi các em học xong văn bản “Ôn dịch thuốc lá” (Nguyễn Khắc
Viện) các em sẽ đặt những câu hỏi như: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạn mình hút
thuốc lá quá nhiều và hút ngay trong trường học, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có
nhiều hướng giải quyết khác nhau, người giáo viên sẽ làm trọng tài cho cuộc
tranh luận giữa hai em học sinh để đi đến một cách giải quyết hợp lí nhất.

Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, cần xác định những vấn đề
trọng tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy
19


sáng tạo, thúc đẩy HS bộc lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra
để HS tham gia đối thoại vừa khơng thốt li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ
tiếp nhận của các em, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất trật tự, và
không mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh những hình thức câu hỏi mà
khi trả lời, HS chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm đã có hay chỉ trình
bày một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào đó. Ngồi ra, tơi
cũng dự đốn những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của HS để điều
khiển cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con
đường hợp lí nhất.
Qua hoạt động đối thoại này, tơi có thể giáo dục HS các KNS cơ bản sau:
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng tự giải
quyết vấn đề. Không chỉ giáo dục KNS cho HS, qua hoạt động đối thoại giáo
viên còn giúp các em phát triển được một số năng lực cơ bản: năng lực giao
tiếp, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực vận dụng kiến thức, sự hiểu biết của
bản thân để giải quyết vấn đề.
3.3.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự
tham gia tích cực của HS trong học tập; là phương pháp góp phần quan trọng
hình thành và phát triển năng lực hợp tác. Trong thảo luận nhóm, HS được tham
gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm.
Thảo luận nhóm cịn là hoạt động học mang tính dân chủ. Mọi cá nhân được tự
do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan
điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng
giải quyết vấn đề khó khăn trong cuộc sống thực tiễn…
Trong mỗi bài học, hoạt động giáo viên có thể đưa ra câu hỏi/bài tập

(khoảng 1-3 câu hỏi, bài tập). Các bài tập này thường là quan sát tranh/ảnh hay
các số liệu cụ thể để các em cùng trao đổi với nhau – thảo luận nhóm về một
vấn đề nào đó có liên quan đến bài học. Tuy nhiên, các câu hỏi không nên mang
20


nhiều tính lý thuyết mà nên huy động những kinh nghiệm thực tiễn có liên quan
đến nội dung bài học để tạo sự hứng thú và suy nghĩ tích cực cho HS.
Ví dụ 1 : Khi giảng văn bản Thơng tin ngày trái đất năm 2000
Giáo viên đưa ra những hình ảnh minh họa sau đó đặt câu hỏi để các em bày tỏ
ý kiến của mình.

Chẳng hạn:
+ Em thấy gì từ những hình ảnh trên ?
+ Trong cuộc sống em có thể làm gì để hạn chế rác thải, ô nhiễm môi trường ?
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản Bài tốn dân số
Vấn đề chính mà tác giả muốn đặt ra trong văn bản này là từ một bài toán
cổ, tác giả khiến ta phải suy ngẫm về sự gia tăng dân số của thế giới. Nếu không
hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.
Khi HS đã lĩnh hội được vấn đề cốt lõi của văn bản, giáo viên chiếu sơ đồ
và hình ảnh minh họa:

Và đưa ra những câu hỏi:
- Em có thể rút ra kết luận gì về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triern của
xã hội?
- Theo em con đường nào là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số?
Vì sao?

21



Thơng qua phương pháp thảo luận nhóm giáo viên hướng tới giáo dục
cho HS những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng hợp tác, kĩ năng tìm kiếm và xử lí
thơng tin; kĩ năng nhận thức những tác hại của môi trường, thuốc lá; kĩ
năng tư duy phê phán những hành động hút thuốc hay xả rác bừa bãi; kĩ
năng ra quyết định (không hút thuốc lá, không xả rác bừa bãi, sống thân
thiện với môi trường…) và kiên định với quyết định của mình. Đồng thời qua
đây giáo viên cũng định hướng hình thành năng lực tư duy sáng tạo cho học
sinh.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp
phần rèn luyện những KNS cho HS, song cũng cần lưu ý, sử dụng một phương
pháp dạy học (thảo luận nhóm) khơng có nghĩa là đề cao và coi đó là phương
pháp độc tơn bởi lẽ khơng có phương pháp nào là vạn năng.
3.3.3. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực hành để trình bày những
suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp
giảng dạy nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề từ góc nhìn của người
trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát được từ vai của
mình. Trong mơn học Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong
một số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học;
chuyển thể một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu; xử lí một tình huống
giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau,
… Phương pháp đóng vai có rất nhiều ưu điểm nổi bật. HS được rèn luyện thực
hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước
khi thực hành trong thực tiễn; Gây hứng thú và chú ý cho học sinh, thơng qua
đó hình thành kĩ năng giao tiếp, HS có cơ hội tự tin bộc lộ cảm xúc; Tạo điều
kiện làm phát triển óc sáng tạo của HS; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của
HS theo hướng tích cực; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc
việc làm của các vai diễn. Trong trường hợp, có thể có một số em “nhút nhát”,
22



“thiếu tự tin” khi đứng trước tập thể, vốn từ ít, khó thực hiện vai của mình, giáo
viên cần động viên, khuyến khích, tạo cơ hội cho các HS này tham gia bắt đầu
từ những tình huống đơn giản.
Ví dụ: Khi tìm hiểu tình yêu thương của Xiu giành cho Giôn-xi trong văn
bản Chiếc lá cuối cùng (O Hen-ri). Nhằm giúp HS dễ cảm nhận được tình yêu
thương và tâm lí nhân vật trước hết giáo viên chiếu đoạn phim hoạt hình ngắn
về hai nhân vật này để các em hiểu rõ được tâm trạng nhân vật, sau đó hướng
dẫn học sinh đóng vai để tái hiện lại tình huống cuộc trị chuyện của Xiu và
Giơn-xi. Qua việc “đóng vai” và diễn xuất sẽ giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn
tình yêu thương của các nhân vật trong truyện. Trên cơ sở đó bồi đắp tâm hồn
và giúp cho các em có hành vi ứng xử đúng đắn.
Hoặc giáo viên có thể đặt HS vào tình huống của các nhân vật trong văn
bản để các em tự nêu lên hướng giải quyết của chính mình. Từ đó, giáo viên sẽ
phân tích, lí giải rồi đi đến thống nhất cách giải quyết tối ưu để uốn nắn giáo
dục học sinh có những cư xử đúng đắn và các em sẽ có nhứng xư xử, hành động
đúng với chuẩn mực đạo đức chung.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Trong lịng mẹ (trích những ngày thơ ấu – Ngun
Hồng), ta có thể đặt tình huống như sau: Giả sử, em chính là chú bé Hồng trong
truyện thì em có làm như vậy khơng hay em sẽ cư xử thế nào?
Với tình huống trên ta hướng HS học tập cách cư xử của chú bé Hồng: phải biết
kìm nén cảm xúc của mình. Đặc biệt phải biết cảm thông và luôn yêu thương
những người thân trong bất cứ hoàn cảnh nào giống như tình mẫu tử thiêng
liêng của chú bé Hồng sẽ khơng hề vơi đi mặc dù bà cô của chú bé có rắp tâm
tanh bẩn bao nhiêu để chia cắt tình mẹ con của họ thì tình yêu thương của chú
bé Hồng giành cho mẹ lại càng mãnh liệt bấy nhiêu.
Hoặc khi dạy văn bản “Cô bé bán diêm” (An-đéc-xen) với hình ảnh một cơ
bé bán diêm mồ cơi, đói rét rồi chết giữa sự thờ ơ, dửng dưng lạnh nhạt của cả
xã hội Đan Mạch lúc bấy giờ, ta còn có thể đặt ra tình huống: nếu ra đường hoặc

23


bên cạnh các em có những em bé rơi vào tình cảnh như cơ bé bán diêm thi em
sẽ làm gì? Từ những hướng giải quyết của học sinh giáo viên phải giúp học sinh
hiểu để các em phân biệt đúng – sai trong cuộc sống và những việc cần phải làm
đúng với đạo lí con người Việt Nam từ xưa đến nay “Lá lành đùm lá rách”,
“Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Cũng từ đây hình thành trong các em kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị bản thân, sống phải có tình u
thương và trách nhiệm với bản thân và mọi người xung quanh.
3.3.4. Phương pháp tổ chức trò chơi
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và
chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt
mỏi. Nhưng qua trò chơi, người chơi còn cần được rèn luyện thể lực, rèn luyện
các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè trong
nhóm, tổ…Đối với học sinh THCS thì hoạt động chơi khơng cịn đóng vai trị
chủ đạo, song cùng với học thì chơi là nhu cầu khơng thể thiếu và nó giữ một
vai trò quan trọng đối với các em. Nếu ta biết tổ chức cho HS chơi một cách
hợp lý, khoa học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao.
Với mục đích giúp các em vơi đi những căng thẳng trong giờ học; khắc
họa, hình thành củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho HS và tạo cho các em sự
nhanh nhạy, kĩ năng quan sát, đọc, sử dụng có thẩm mỹ tiếng mẹ đẻ; tạo điều
kiện cho HS khám phá, tìm tịi và thể hiện.
Để nâng cao chất lượng trong việc tổ chức trò chơi đòi hỏi giáo viên phải
tư duy, sáng tạo lựa chọn hình thức chơi cho phù hợp với mục đích, yêu cầu
từng bài tập, từng tiết học, từng đối tượng sao cho đạt được kết quả hoạt động
cao nhất. Trị chơi Giải ơ chữ với sự tích hợp giữa phân mơn tiếng Việt và phân
mơn Văn bản trong chương trình Ngữ văn 8 là trị chơi dễ thực hiện, trò chơi
này giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức của tuần học, tháng học; đồng
thời rèn luyện kĩ năng ra quyết định, kỹ năng tự quản, kỹ năng giải quyết vấn


24


đề, vận dụng kiến thức của các loại văn bản vào giải ô chữ để thực hiện yêu
cầu của bài tập; phát huy kỹ năng tư duy sáng tạo, nhanh nhạy của học sinh.
Để thực hiện GV phải chuẩn bị như bảng ô chữ, câu hỏi, đáp án. Giáo
viên giao cho cán sự bộ mơn (hoặc lớp trưởng, lớp phó học tập) đọc lần lượt
từng câu hỏi để học sinh xung phong giải ơ chữ. Nếu trả lời đúng thì ghi dịng
chữ đó lên bảng.
V D : Ơ chữ dùng cho bài học: “ Cấp độ khái quát của từ” và bài “Tôi đi học
của Thanh Tịnh” (ngữ văn 8, tập 1).
1
2
3
4
5
6
7
8
9

T H Â Y
T R O
B U T T H Ư Ơ C
L Ơ P
N G U
B A N G H Ê
S A C H V Ơ
Đ I

H O C
Ô N G Đ Ô C
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Ô chữ hàng ngang là những từ đã được nhà văn Thanh Tịnh sử dụng trong văn
bản: “ Tôi đi học” (Ngữ văn 8, tập 1)
Tóm lại, tùy thuộc vào từng bài cụ thể mà giáo viên tự lựa chọn
hình thức và nội dung lồng ghép giáo dục KNS cho phù hợp làm sao mang tính
tự nhiên, mềm dẻo mà khơng gượng ép, cứng nhắc. Hơn nữa không làm ảnh
hưởng đến hiệu quả giờ dạy mà hiệu quả giáo dục sâu sắc, tiết học tạo được sự
hứng thú cho HS, HS tích cực, chủ động sáng tạo thì đó mới là giờ giảng văn có
lồng ghép KNS thực sự thành công.
Trên đây chỉ là một số ví dụ minh họa nên khơng thể chuyển tải hết tất cả
những KNS được giáo dục qua giảng dạy các văn bản Ngữ văn 8. Cịn trong q
trình giảng dạy, tùy thuộc vào nội dung từng bài mà giáo viên vận dụng phương
pháp lồng ghép sao cho phù hợp để mang lại hiệu quả giáo dục nhất định nhằm
góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh đúng với chuẩn
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×