Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Phân tích các công cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.63 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC …………
KHOA …………

TIỂU LUẬN
Phân tích và quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư

NHÓM…..
Tên học viên

Hà nội, năm 2022

Mã học viên


MỤC LỤC

2


Phần mở đầu
Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, hoạt động đầu tư tại Việt Nam cũng
phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng, quy mơ vốn và chất lượng dự
án. Hoạt động đầu tư trong những năm qua đã góp phần tạo việc làm, thu nhập
cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách nhà
nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mơ
hình tăng trưởng; nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài: “Phân tích các công cụ quản lý
nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Liên hệ thực tiễn việc vận dụng các công
cụ trên trong quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam hiện nay” để làm báo
cáo của nhóm


3


Chương 1 Cơ sở lý thuyết
1.1 Đầu tư
1.1.1 Khái niệm
Đầu tư là một hoạt động cơ bản tồn tại tất yếu và có vai trị quan trọng
trong bất kì nền kinh tế -xã hội nào.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại (như tiền, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. . . ) để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra
để đạt được các kết quả đó.
1.1.2 Phân loại đầu tư
Xét trong phạm vi một quốc gia, các hoạt động đầu tư có thể được phân
chia thành nhiều loại khác nhau theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Về cơ
bản chúng ta có thể phân biệt các loại hình đầu tư theo bản chất và phạm vi lợi
ích do đầu tư mang lại. Cụ thể chúng ta có các loại hình đầu tư sau:
+ Đầu tư tài chính: Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra
cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước (gửi tiết
kiệm mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi xuất tùy thuộc vào kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của đơn vị phát hành.
Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này), mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của
tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ
ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng
(rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều này
khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư để thu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá

4



trình thực hiện đầu tư họ có thể sẽ gặp phải rủi ro. Để hạn chế rủi ro trong loại
hình đầu tư này chủ đầu tư có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền
+ Đầu tư thương mại
Là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau
đó đem bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch giá giữa mua và
bán.
Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu
không xét quan hệ ngoại thương) mà chỉ làm tăng tài sản, tài chính của chủ đầu
tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người
mua và người bán với người đầu tư và giữa người đầu tư với khách hàng của họ.
Hai hình thức đầu tư trên là hai hình thức khơng tham gia trực tiếp vào q
trình sản xuất vật chất, nhưng thơng qua đó nguồn vốn được tập trung để đầu tư
vào sản xuất và thúc đẩy lưu thông hàng hóa, phân phối của cải vật chất do hoạt
động sản xuất vật chất tạo ra, từ đó thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất
vật chất, tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội.
+ Đầu tư phát triển
Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiều bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt
động nhằm tạo ra tài sản cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh
và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động.Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây
dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt
chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản nhằm duy trì tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội.

5


1.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế

Tất cả các lý thuyết kinh tế từ trước đến nay, từ cổ điển đến hiện đại đều
coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khố cho
sự tăng trưởng. Vốn đầu tư luôn là một biến số quan trọng trong hàm sản xuất
trong mọi mơ hình kinh tế. Vai trị của đầu tư phát triển được xem xét trên hai
góc độ nền kinh tế.
+ Đầu tư phát triển vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu
của nền kinh tế. Trong tổng cầu của nền kinh tế quốc dân, đầu tư là một yếu tố
chiếm tỷ trọng lớn, theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm
khoảng từ 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới và
tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn. Điều này có nghĩa là trong thời
gian thực hiện đầu tư và khi tổng cung chưa tăng (các kết quả đầu tư chưa phát
huy tác dụng) sự tăng lên của tổng cầu làm cho sản lượng cân bằng tăng theo và
giá cả các đầu vào tăng.
Khi các kết quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản
lượng tiềm năng tăng lên từ QE lên QE, giá sản phẩm giảm xuống từ PE - PE,
sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt
mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ
bản để tăng tích luỹ phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động,
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
+ Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu
và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là
tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố
phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.

6


- Đầu tư ln tác động hai mặt tích cực và tiêu cực.

Thứ nhất: Tăng đầu tư sẽ có tác động.
Tích cực: Tăng đầu tư sẽ tạo việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao đời
sống, giảm tệ nạn xã hội.
Tiêu cực: Tăng đầu tư sẽ phải chi một lượng tiền lớn, nếu tăng qúa mức sẽ
dẫn đến tình trạng tiền đang lưu hành bị mất giá (lạm phát) dẫn đến tăng giá cả
những sản phẩm có liên quan làm cho sản xuất bị đình trệ.
Thứ hai: Giảm đầu tư sẽ có tác động.
Tích cực: Giảm đầu tư thì lượng tiền chi ra ít nên sẽ giảm lạm phát, giá cả
đời sống ổn định, tệ nạn xã hội giảm đi.
Tiêu cực: Giảm đầu tư sẽ giảm việc làm, tăng thất nghiệp ảnh hưởng đến
đời sống xã hội. Như vậy: Trong điều hành vĩ mơ nền kinh tế, các nhà hoạt động
chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn
chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của
toàn bộ nền kinh tế.
+ Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy, nếu một quốc gia
muốn giữ tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trung bình 8% - 10% thì tỷ lệ đầu tư
phải đạt từ 15% - 20% tuỳ thuộc và hệ số ICOR của quốc giá đó. Hệ số ICOR
phản ánh suất đầu tư tính cho một đơn vị GDP tăng thêm - ICOR là tên viết tắt
của từ tiếng anh “tỷ suất vốn GDP” Icremental Capital Output Ration - Hệ số
ICOR được tính theo cơng thức sau:
ICOR = mức vốn đầu tư/mức tăng GDP.
Từ đó suy ra: mức tăng GDP = vốn đầu tư/ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
7


Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước.
+ Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy để có thể tăng trưởng
nhanh với tốc độ mong muốn từ 9% - 10% là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự
phát triển nhanh ở hai khu vực công nghiệp và dịch vụ vì hai khi vực này sử
dụng các tiềm năng về trí tuệ con người sẽ khơng khó khăn lắm để đạt tốc độ
tăng trưởng 15% - 20% còn khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản do giới hạn về
đất đai, khí hậu...Nên để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5%-6% là rất khó khăn.
Tuy nhiên, để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung đầu tư
phát triển cho các ngành có tốc độ tăng trưởng cao thì rõ ràng là phải có vốn đầu
tư, khơng có vốn đầu tư thì khơng thể nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khơng
thể nói đến sự phát triển của ngành này hay ngành khác.
Như vậy, Chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ở các quốc gia nhằm đạt đựơc tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nên kinh
tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thốt khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn
đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển theo.
* Đầu tư tác động đến khả năng công nghệ và khoa học của đất nước
chúng ta đều biết rằng công nghệ là trung tâm của cơng nghiệp hố, hiện đại hố
cịn đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công
nghệ của đất nước.
1.2 Quản lý hoạt động đầu tư

8


1.2.1 Khái niệm
Quản lý nói chung là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào các
đối tượng quản lý để điều khiển đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu

đã đề ra.
Đối với lĩnh vực đầu tư. Quản lý hoạt động đầu tư chính là sự tác động
liên tục, có tổ chức, có định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư và các yếu tố
đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp KT-XH, tổ chức kỹ thuật và các
biện pháp khác nhằm đạt được kết quả, hiệu quả đầu tư và hiệu quả KT-XH cao
nhất trong điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy
luật khách quan và quy luật đặc thù của đầu tư.
1.2.2 Mục tiêu của quản lý hoạt động đầu tư
* Trên giác độ quản lý vĩ mô
Trên giác độ này mục tiêu chung của quản lý đầu tư cần phải đạt là:
- Đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của quốc gia, cụ thể hơn là chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
thực hiện cơng nghiệp hố - hiện đại hố, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
- Huy động tối đa và sử dụng với hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước, tận dụng và khai thác các tài nguyên, các tiềm năng về tài
nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các tiềm năng khác, bảo vệ môi trường
sinh thái, chống mọi hành vi tham ơ lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai
thác các kết quả của đầu tư.
- Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng cơng trình theo quy hoạch
kiến trúc và thiết kế kỹ thuật được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan áp

9


dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời gian xây dựng
với chi phí hợp lý.
* Trên giác độ từng cơ sở doanh nghiệp có vốn đầu tư:
Trên giác độ quản lý vi mô, mục tiêu của quản lý đầu tư suy cho cùng là

nhằm đạt được hiệu quả kinh tế tài chính cao nhất với chi phí vốn đầu tư thấp
nhất trong mọi thời gian của từng dự án đầu tư.
Đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, mục tiêu chủ yếu của quản lý là đảm
bảo chất lượng và mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu, dự đốn tính
tốn.
Đới với giai đoạn thực hiện đầu tư, mục tiêu chủ yếu của quản lý là đảm
bảo tiến độ, chất lượng với chi phí thấp nhất.
Đới với giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư là nhanh chóng thu hồi đủ
vốn đã bỏ ra và có lãi đối với các cơng cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc đạt
được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất với chi phí thấp nhất đối với các hoạt
động đầu tư khác.
1.3 Quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
1.3.1 Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với đầu tư
Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành, do đó quản lý đầu tư là yêu cầu
khách quan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
Nhằm khắc phục những hạn chế vốn có của kinh tế thị trường đảm bảo
mục tiêu đầu tư đã đề ra.
Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh của mình, Nhà nước có thể và
cần phải giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế phổ biến, thường xuyên và
cơ bản trong đầu tư.

10


Do tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước nên Nhà
nước phải tham gia vào việc quản lý đầu tư để bảo vệ lợi ích của dân tộc, của
nhân dân.
1.3.2 Nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
Đầu tư là hoạt động mang tính liên ngành, có quan hệ quyết định đến quá
trình hình thành và hoạt động của mỗi ngành, mỗi địa phươg và mỗi cơ sở sản

xuất kinh doanh dịch vụ, có liên quan trực tiếp đến việc khai thác và sử dụng các
nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đại, rừng, biển, sử dụng một nguồn vốn lớn
của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực đầu tư
thường mạnh hơn so với các lĩnh vực khác.
Nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư bao gồm các
vấn đề sau:
Thứ nhất: Xây dựng các chiến lược phát triển, các kế hoạch định hướng,
cung cấp thông tin, dự báo để hướng dẫn đầu tư, xây dựng kế hoạch định hướng
cho các địa phương và vùng lãnh thổ làm cơ sở hướng dẫn đầu tư cho các nhà
đầu tư.
Thứ hai: Xây dựng luật pháp, quy chế và các chính sách quản lý đầu tư
như luật xây dựng, luật thuế, luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường, luật đất đai, luật
đấu thuầu.
Thứ ba: Tạo môi trường kinh tế thuận lợi và quy định khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động đầu tư thông qua các kế hoạch định hướng, dự báo thơng tin, luật
pháp và chính sách đầu tư.
Thứ tư: Điều hoà thu nhập giữa chủ đầu tư, chủ thầu xây dựng, người lao
động và các lực lượng dịch vụ, tư vấn, thiết kế... phục vụ đầu tư, có chính sách
đại ngộ thoả đáng với người lao động trong lĩnh vực thực hiện đầu tư.

11


Thứ năm: Quản lý việc sử dụng đất đai, tài nguyên một cách hợp lý bảo vệ
môi trường, quản lý việc xây dựng các kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, điện,
nước) và kết cấu hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hoá...) để đảm bảo các điều
kiện cho phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của mọi người dân.
Thứ sáu: Tổ chức các doanh nghiệp Nhà nước để tham gia điều tiết thị
trường và thực hiện đầu tư vào các lĩnh vực chỉ có nhà nước mới được đảm
nhiệm.

Thứ bẩy: Xây dựng chính sách cán bộ lĩnh vực đầu tư, quy định chức danh
và tiêu chuẩn cán bộ: quy hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ và xử lý vấn đề cán
bộ thuộc thầm quyền Nhà nước.
Thứ tám: Thực hiện sự kiểm soạt của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động
đầu tư, chống các hiện tượng tiêu cực trong đầu tư.
Thứ chín: Đảm bảo đáp ứng đòi hỏi phát triển của đất nước theo đường lối
mà các đại hội Đảng đã vạch ra, chuyển biến nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN một cách hợp lý.
Thứ mười: Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào hoàn cảnh Việt Nam
để xây dựng luật lệ, thể chế và phương thức quản lý nền kinh tế nói chung và mở
rộng quản hệ với các nước khác trong lĩnh vực đầu tư.
Thứ mười một: Đề ra các giải pháp quản lý sử dụng vốn cấp phát cho đầu
tư từ ngân sách, từ khâu xác định chủ trương đầu tư, phân phối vốn, quy hoạch,
thiết kế và thi công xây lắp cơng trình, quản lý việc sử dụng các nguồn vốn khác
để có các biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo sự cân đối tổng thể của toàn bộ nền
kinh tế.
Thứ mười hai: Đề ra các biện pháp nhằm đảm bảo chất lượng các cơng
trình xây dựng, đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và an toàn xã hội.

12


Thứ mười ba: Quản lý đồng bộ hoạt động đầu tư từ khi bỏ vốn cho đến khi
thanh lý các tài sản do đầu tư tạo ra.
Thứ mười bốn: Có chủ trương đúng đắn trong hợp tác đầu tư với nước
ngồi, chuẩn bị nguồn lực về tài chính, vật chất, lao động cho hợp tác đầu tư với
nườc ngoài.
1.4 Các công cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
Nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ và mục tiêu của quản lý hoạt động đầu
tư, quản lý nhà nước sử dụng các công cụ quản lý hoạt động đầu tư sau:

Công cụ 1: Các quy hoạch tổng thể và chi tiết
Các quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết của ngành và địa phương về
đầu tư và xây dựng là những công cụ quan trọng được sử dụng để quản lý hoạt
động đầu tư
Công cụ 2: Kế hoạch
Kế hoạch hóa đầu tư đóng vai trị quan trọng trong công tác quản lý hoạt
động đầu tư. Các dự án đầu tư thường đòi hỏi tổng mức đầu tư rất lớn và do đó
việc bố trí nguồn vốn từ ngân sách cần phải được lập kế hoạch chặt chẽ và có dự
tốn. Thực hiện tốt cơng tác này sẽ là cơ sở quan trọng để cách ngành, địa
phương chủ động đẩy mạnh đầu tư có định hướng, cân đối nguồn lực, tránh được
hiện tượng đầu tư chồng chéo, thiếu đồng bộ, dàn trải, lãng phí nguồn lực của
nhà nước.
Cơng tác quy hoạch có ảnh hưởng đặc biệt đến hiệu quả của hoạt động đầu
tư các dự án. Nếu quy hoạch sai sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư. Quy
hoạch dàn trải sẽ làm cho việc đầu tư trở nên manh mún, nhỏ lẻ, ít hiệu quả. Quy
hoạch cần phải công khai để người dân và các cấp chính quyền đều biết. Trên cơ
sở quy hoạch, nhà nước cần phải đưa vào kế hoạch đầu tư, khuyến khích các khu
vực vốn khác tham gia đầu tư để tránh tình trạng quy hoạch treo.
13


Công cụ 3: Hệ thống luật pháp
Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư cần nhiều loại quy định mang
tính pháp lý. Hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp lí của Nhà nước
liên quan đến lĩnh vực đầu tư bao gồm các Luật, Nghị định, Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, các Thơng tư của các bộ như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Xây dựng…, các quyết định của Bộ chủ quản nhằm đưa ra các quy
định và hướng dẫn cụ thể về việc quản lý nguồn vốn NSNN, quản lý các dự án
đầu tư, quản lý điều kiện hoạt động xây dựng.
Công cụ 4: Các định mức và tiêu chuẩn

Các định mức và tiêu chuẩn quan trọng có liên quan đến quản lý đầu tư và
lợi ích của tồn xã hội
Công cụ 5: Danh mục các dự án đầu tư
Các danh mục dự án đầu tư là một trong những công cụ quan trọng điều
tiết và phân bố các hoạt động đầu tư.
Công cụ 6: Các hợp đồng kinh tế
Các hợp đồng ký kết với các cá nhân và đơn vị thực hiện các cơng việc
của q trình thực hiện dự án.
Cơng cụ 7: Các chính sách và địn bẩy kinh tế
Những chính sách và địn bẩy kinh tế quan trọng gồm: chính sách giá cả,
tiền lương xuất nhập khẩu, thuế, tài chính tín dụng, tỷ giá hồi đối, thưởng phạt
kinh tế, chính sách khuyến khích đầu tư, những quy định về chế độ, hạch toán kế
toán, phân phối xã hội…
Những chính sách này là cơng cụ quan trọng để quản lý nhà nước trong
hoạt động đầu tư
Công cụ 8: Những thông tin cần thiết
14


Các thơng tin về tình hình cung cầu, kinh nghiệm quản lý, giá cả, các tài
liệu phân tích đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư và các thơng tin
khác có liên quan đến đầu tư góp phần giúp nhà nước quản lý mạnh mẽ các hoạt
động đầu tư.

15


Chương 2 Liên hệ thực tiễn
2.1 Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư tại Việt
Nam

2.1.1 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
Bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư bao gồm các chủ thể
với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các chủ thể. Bộ
máy quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư bao gồm từ Quốc hội là cơ quan
lập pháp, Chính phủ (Bộ Kế Hoạch đầu tư, Bộ Tài Chính, Bộ Xây Dựng…),
Kiểm tốn Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan
chuyên môn ở mỗi cấp…
Mỗi cơ quan trong bộ máy này thực hiện chức năng riêng biệt, đảm nhận
quản lý một hoặc một số khâu trong toàn bộ quá trình thực hiện các hoạt động
đầu tư từ việc lập kế hoạch, bố trí vốn, kiểm sốt chất lượng cơng trình, đấu thầu,
quyết tốn vốn, thanh tra giám sát… Sự phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy
quản lý sẽ tránh/hạn chế được sự chồng chéo trong hoạt động, tạo nên sức mạnh
tổng hợp, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước nói chung, của cơng
tác giám sát, đánh giá đầu tư nói riêng.
2.1.2 Ban hành và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật về hoạt
động đầu tư và quản lý đầu tư
Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư cần nhiều loại quy định mang
tính pháp lý. Hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp lí của Nhà nước
liên quan đến lĩnh vực đầu tư bao gồm các Luật, Nghị định, Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, các Thơng tư của các bộ như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Xây dựng…, các quyết định của Bộ chủ quản nhằm đưa ra các quy
định và hướng dẫn cụ thể về việc quản lý nguồn vốn ngân sách nhà nước, quản

16


lý các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước, quản lý điều kiện hoạt động xây
dựng, môi trường…
Các hệ thống luật và dưới luật như:
* Luật:

- Luật Đầu tư (2020), Luật Đầu tư công (2019)
- Luật Công ty (1990), Luật Doanh nghiệp (2020)
- Luật Xây dựng (2014)
- Luật Đất đai (2013)
- Luật Bảo vệ môi trường (2020)
- Bộ Luật lao động (2019)
- Luật Bảo hiểm xã hội (2014)
- Luật Quản lý thuế (2019)
- Luật phá sản (2014) …
* Các văn bản dưới luật: Các quy chế về quản lý tài chính, vật tư, thiết bị,
lao động, tiền lương, sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên khác…
2.1.3 Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đầu tư
Kế hoạch hóa đầu tư đóng vai trị quan trọng trong công tác quản lý đầu
tư. Các dự án đầu tư thường đòi hỏi tổng mức đầu tư rất lớn và do đó việc bố trí
nguồn vốn từ ngân sách cần phải được lập kế hoạch chặt chẽ và có dự tốn. Thực
hiện tốt cơng tác này sẽ là cơ sở quan trọng để cách ngành, địa phương chủ động
đẩy mạnh đầu tư có định hướng, cân đối nguồn lực, tránh được hiện tượng đầu tư
chồng chéo, thiếu đồng bộ, dàn trải, lãng phí nguồn lực của nhà nước.

17


Đầu tư xây dựng là gắn với quy hoạch xây dựng, quy hoạch xây dựng phải
đi trước một bước, là tiền đề cho đầu tư. Việc đầu tư phải phù hợp với quy hoạch
xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Quy hoạch xây
dựng là cơ sở cho việc triển khai các hoạt động đầu tư, kiểm sốt q trình phát
triển đơ thị và các khu chức năng, đảm bảo trật tự, kỷ cương trong hoạt động xây
dựng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, bảo vệ
mơi trường. Quy hoạch xây dựng là căn cứ cho việc hình thành các dự án và là
cơ sở để quản lý đầu tư và quản lý trật tự xây dựng.

Công tác quy hoạch có ảnh hưởng đặc biệt đến hiệu quả của hoạt động đầu
tư các dự án. Nếu quy hoạch sai sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư. Quy
hoạch dàn trải sẽ làm cho việc xây dựng của chủ đầu tư trở nên manh mún, nhỏ
lẻ, ít hiệu quả. Quy hoạch cần phải công khai để người dân và các cấp chính
quyền đều biết. Trên cơ sở quy hoạch, nhà nước cần phải đưa vào kế hoạch đầu
tư, khuyến khích các khu vực vốn khác tham gia đầu tư để tránh tình trạng quy
hoạch treo.
Hiện nay, các dự án luôn phải lên kế hoạch và được các cấp thẩm quyền
thông qua xét duyệt trên nhiều phương diện.
2.1.4 Phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư xây dựng sử dụng vớn
nhà nước
Phân cấp là q trình chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm từ chính
quyền trung ương cho các chính quyền địa phương hay cho khu vực kinh tế tư
nhân. Ở một số quốc gia đang tiến hành chuyển đổi hệ thống kinh tế như Việt
Nam, phân cấp còn bao hàm quyền hạn, trách nhiệm từ chính quyền trung ương
các doanh nghiệp nhà nước cho thị trường. Các hình thức phân cấp này có đặc
điểm chung là đều bắt đầu với sự minh định lại vai trị của nhà nước, để trên cơ
sở đó tiến hành phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền,

18


giữa nhà nước với thị trường và giữa khu vực nhà nước với khu vực tư nhân và
khu vực dân sự.
2.1.5 Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng sử
dụng vốn nhà nước
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng trong chu trình quản
lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước. Kiểm tra, giám sát nhằm tìm ra những mặt ưu
điểm, những nhân tố mới, tích cực để phát huy; đồng thời phát hiện những sai
lệch của đối tượng quản lý vốn để điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, qua kiểm tra,

giám sát có thể phát hiện những điểm bất cập, bất hợp lý trong cơ chế quản lý,
thậm chí ngay cả những chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư để kịp thời sửa đổi
cho phù hợp. Hàng năm bộ máy quản lý nhà nước thường xuyên tổ chức các hoạt
động thanh kiểm giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng.
2.2 Đánh giá
2.2.1 Các mặt đạt được
Việt Nam hiện nay đang phát triển nhanh chóng sau khi chuyển đổi thành
cơng từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường từ năm 1986.
Chính vì vậy, những dự án đầu tư cũng đang tăng lên rất nhanh, kéo theo nguồn
vốn đầu tư vào cũng rất đa dạng, phong phú.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư tương đối đầy đủ
và từng bước được hoàn thiện: Luật Xây dựng năm 2014, Luật Đầu tư công năm
2019, Nghị định số 59/2015/NĐ-CP, Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày
06/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư
công,… là cơ sở pháp lý vô cùng quan trọng cho các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc thực hiện và quản lý các dự án đầu tư. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ dành của ĐVSNCL
giúp tăng cường, mở rộng thẩm quyền quản lý, cụ thể như tự chủ, tự chịu trách

19


nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của
đơn vị sự nghiệp cơng.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 –
2020 của Chính phủ, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính nói chung, trong đó
có cải cách các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động quản lý và thực hiện
dự án đầu tư. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên
chức về mọi mặt nói chung và đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ
quản lý dự án đầu tư cũng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý dự án đầu tư.

2.2.2 Tồn tại, hạn chế
a. Ban hành các quy định pháp lí khơng đồng bộ, thiếu cụ thể
Hiện tại, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư sử dụng vốn nhà
nước ở Việt Nam được xây dựng và sửa đổi khá kịp thời, đây là công cụ hữu
hiệu để các cơ quan nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, kiểm soát và
khống chế tốt hoạt động đầu tư sử dụng vốn nhà nước.
Tuy nhiên thời gian qua, công tác giám sát, đánh giá (GS, ĐG) đầu tư
chưa thực sự được quan tâm triển khai triệt để tại địa phương. Mặc dù các văn
bản quy định, hướng dẫn thực hiện đã được ban hành nhưng hiệu quả thực tiễn
còn rất nhiều hạn chế và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đầu tư sử dụng
vốn nhà nước hiện nay. Có thể chỉ ra một số nội dung cụ thể sau:
- Việc quy trách nhiệm cho người quyết định chủ trương đầu tư sai dẫn tới
lãng phí trong quá trình đầu tư chưa cụ thể rõ ràng. Tại Điều 7 Luật Đầu tư công
quy định là Quốc hội và HĐND các cấp là những cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt CTĐT. Tại Điều 99 của Luật này cũng quy định nếu QĐĐT sai, dẫn đến
đầu tư kém hiệu quả, dàn trải, TTLP thì sẽ bị xử lý, bồi thường theo quy định của
pháp luật. Đây là một tồn tại cần phải sửa đổi, điều chỉnh ngay vì Quốc hội,
HĐND là cơ quan dân cử, nguyên tắc làm việc là theo chế độ tập thể, khi quyết

20


định vấn đề gì phải dựa trên lựa chọn của đa số đại biểu nên khơng thể xử lí
trách nhiệm đối với những người đứng đầu ở những cơ quan này.
Cũng trong Luật Đầu tư cơng, chưa có sự phân định độc lập, rõ ràng giữa
cơ quan lập dự án với cơ quan thẩm định. Và thực tế đã diễn ra, cơ quan lập DA
lại kiêm luôn cơ quan TĐDA hoặc cơ quan lập dự án và TĐDA thuộc cũng một
hệ thống dẫn đến tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi cịi. Quy định như vậy sẽ gây
nhiều khó khăn cho công tác GS, ĐG nhằm hạn chế các hành vi tiêu cực trong
quy trình đầu tư Mặt khác, Luật này cũng chưa xây dựng được các tiêu chí đánh

giá hiệu quả đầu tư cơng là gì? Nhưng lại quy định quản lý việc sử dụng vốn đầu
tư công phải bảo đảm hiệu quả. Do khơng có tiêu chí cụ thể nên việc kiểm tra,
đánh giá rất khó thực hiện.
Mặc dù cũng đã có quy định về tiêu chí và ngun tắc phân bổ ngân sách
song lại chưa có chính sách sàng lọc và sắp xếp thứ tự ưu tiên một cách rõ ràng
trong việc chọn lựa và phê duyệt dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước nên đã dẫn
đến hiện tượng đầu tư tràn lan, làm phân tán nguồn lực đầu tư, kéo dài thời gian
thực hiện dự án và giảm hiệu quả đầu tư.
- Luật Đầu tư (2014): Quy định về giãn tiến độ đầu tư không được hướng
dẫn cụ thể trong Luật và các văn bản hướng dẫn; nhiều quy định về đầu tư theo
Luật Đầu tư năm 2014 không thống nhất, chồng chéo với Luật Bảo vệ môi
trường, Luật Đất đai, Luật Bất động sản và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác.
- Theo Luật Đầu tư công, Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư là tài liệu
trình bày các nội dung nghiên cứu sơ bộ về sự cần thiết, tính khả thi và tính hiệu
quả của chương trình đầu tư cơng, các dự án nhóm B, nhóm C làm cơ sở để cấp
có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư. Như vậy tất cả các dự án nhóm B
và nhóm C đều phải lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư. Tuy nhiên Luật Xây
dựng hồn tồn khơng đề cập đến Báo cáo đề xuất CTĐT mà chỉ quy định đối

21


với các DA quan trọng quốc gia, DA nhóm A trước khi lập BCNCKT, CĐT phải
lập BCNCTKT. Chính vì vậy trình tự đầu tư quy định tại Điều 6 Nghị định số
59/2015/NĐ-CP cũng khơng có bước lập Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư
trong giai đoạn chuẩn bị dự án.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án sử dụng vốn nhà nước chưa
có quy định, hướng dẫn chung ở tất cả các bước lập dự án.
b. Phân cấp, ủy quyền trong quản lý đầu tư còn tồn tại nhiều vấn đề

Luật Đầu tư và Luật Đầu tư cơng hiện là văn bản pháp lí cao nhất quy định
về phân cấp trong quản lý đầu tư. Nhưng thực tế là nhiều địa phương đã lợi dụng
nhiều khe hở của quá trình phân cấp, kèm theo sự thiếu giám sát, điều phối và
quản lý kỷ luật lỏng lẻo của Trung ương cùng với chất lượng quy hoạch thấp là
nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, chồng chéo và
kém hiệu quả.
c. Chấp pháp trong quản lý dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước không
nghiêm minh
Trong những năm qua, Vốn đầu tư của Nhà nước liên tục gia tăng và
chiếm tỷ lệ khoảng 30% GDP, qua đó đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng về
cơ sở hạ tầng xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng
lực sản xuất, cải thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào phát triển
KTXH trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Tuy nhiên, việc
thực hiện các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước trong những năm qua còn
nhiều hạn chế và yếu kém, làm giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế. Một trong
các tồn tại bất cập đó là tình trạng vi phạm pháp luật về đầu tư sử dụng vốn nhà
nước đang xảy ra phổ biến ở các cấp độ cả Trung ương và địa phương

22


2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại trong quản lý dự án đầu tư xây
dựng sử dụng vốn nhà nước
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý dự án đầu tư sử
dụng vốn nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện
do tồn tại nhiều hạn chế, cả về hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư
nói chung. Chính các tồn tại, hạn chế trong quản lý đầu tư đã gây ra tình trạng
đầu tư khơng hiệu quả, TTLP, nợ công tăng. Các tồn tại, hạn chế này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, có thể kể đến:
a. Nguyên nhân khách quan

- Hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách liên quan trong đầu tư xây dựng
cịn nhiều bất cập.
- Tính phức tạp, đa dạng của lĩnh vực đầu tư.
- Số lượng lớn các dự án xây dựng sử dụng vốn nhà nước. Do sức ép về
nhu cầu đầu tư quá lớn nhằm đảm bảo cơ sở vật chất, hạ tầng KTXH đáp ứng
mục tiêu phát triển trong nước và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong khi
nguồn lực của Nhà nước có hạn. Trong năm 2019 đã có 13.102 DA được thẩm
định, các cấp có thẩm quyền QĐĐT 12.742 DA. Với thời gian thẩm định theo
quy định mà phải giải quyết được một khối lượng công việc đồ sộ, điều này mâu
thuẫn trực tiếp với thực trạng năng lực hạn chế, thiếu động cơ khuyến khích àm
việc của đội ngũ thẩm định, nguồn dữ liệu và thông tin chuyên môn khan hiếm.
Do vậy, trong nhiều trường hợp, việc thẩm định dự án hoặc phải kéo dài thời
gian, hoặc chỉ được làm sơ sài chiếu lệ.
*Điều kiện vật chất phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây
dựng còn thiếu
Để kiểm sốt, khống chế q trình đầu tư, cá nhân và các tổ chức cần các
công cụ, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc thực thi nhiệm vụ.

23


Mỗi nội dung này muốn triển khai có hiệu quả cần phải có kinh phí và cơ sở vật
chất tương ứng. Tuy nhiên, hiện nay kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ cho cơng
tác kiểm sốt, khống chế quá trình đầu tư chưa đáp ứng với yêu cầu triển khai
thực hiện nhiệm vụ được giao.
b. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân xuất phát từ trình độ của cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về đầu tư xây dựng
Để thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về đầu tư, các cán bộ phải có kiến thức
chun mơn về lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là kỹ năng nghiệp vụ chun sâu trong

cơng tác thẩm định dự án. Đó là tổng hịa của các mảng kiến thức chun mơn
như pháp luật, quản lý, kinh tế, thị trường và kỹ thuật cơng nghệ.
Thực tế cho thấy, chỉ có một bộ phận nhỏ cán bộ đáp ứng được yêu cầu
này. Về cơ bản, các cán bộ QLNN về đầu tư chỉ được trang bị kiến thức hoặc về
kinh tế hoặc kỹ thuật cơng nghệ hoặc pháp luật nên gặp nhiều khó khăn trong
thực thi chức trách, nhiệm vụ.
Lực lượng cán bộ làm cơng tác GS, ĐG đầu tư hiện cịn mỏng, chủ yếu là
kiêm nhiệm, một số cán bộ kinh nghiệm còn hạn chế, chưa được đào tạo sâu về
chuyên môn nghiệp vụ đánh giá đầu tư; cơ cấu tổ chức làm cơng tác GS, ĐG đầu
tư mới được hồn thiện ở cấp bộ, ngành và cấp tỉnh; cấp huyện chưa ổn định, cấp
xã hầu như chưa có. Điều này dẫn đến thực trạng lập các báo cáo GS, ĐG đầu tư
ở một số cơ quan theo định kỳ cịn mang tính hình thức, chất lượng báo cáo chưa
cao, chưa mang tính tự giác; việc xử lý vi phạm trong GS, ĐG đầu tư chưa được
thực hiện nghiêm túc. Vẫn còn một số cơ quan và chủ đầu tư chưa thực sự quan
tâm đến công tác GD, dự án đầu tư theo quy định, đặc biệt là việc tổ chức đánh
giá tác động của dự án đầu tư để làm rõ hiệu quả thực tế của dự án.

24


Bên cạnh đó, sự hiểu biết, khả năng phân tích chính sách, dự báo tác động
của văn bản, chính sách đối với đời sống KTXH, kiến thức về hội nhập, thương
mại quốc tế… của một bộ phận cán bộ còn hạn chế. Do trình độ chun mơn hạn
chế nên khi thực hiện nhiệm vụ thường có tư tưởng sợ sai, sợ trách nhiệm nên
tính tốn các chỉ tiêu cao hơn tiêu chuẩn (thiên về an toàn) dẫn tới dư thừa hoặc
tính sai, thiếu, dẫn tới sai lầm trong ra quyết định.
* Nguyên nhân xuất phát từ công tác thẩm định dự án chưa quan tâm đúng
mức
Trong thực tế việc loại bỏ các DA khơng có lợi ít khi xảy ra. Phần lớn các
trường hợp cơ quan thẩm định yêu cầu CĐT điều chỉnh lại DA cho phù hợp hơn

với các quy định hiện hành. Một trong những nguyên nhân là do các cơ quan
thẩm định khơng có đủ cơ sở quyết định loại bỏ DA vì khơng đủ căn cứ kiểm tra
độ chính xác của các số liệu, dự tính những tác động của DA.
Hầu hết các DA không định lượng được hiệu quả KTXH của DA bằng các
chỉ tiêu đo lường hiệu quả. Trong quy định pháp luật hiện hành khơng nói rõ việc
đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của DA phải được định lượng như thế nào cho
nên việc so sánh các DA để xem xét mức độ cấp thiết và sắp xếp thứ tự ưu tiên
các DA không thể thực hiện được.
* Nguyên nhân xuất phát từ lợi ích nhóm
Nhóm lợi ích bằng mọi cách, thủ đoạn để đạt lợi ích riêng (có tính đặc
quyền, đặc lợi); xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích chung của cộng đồng, xã
hội, quốc gia… thông qua việc lợi dụng quan hệ “thân hữu” để trục lợi chính
sách trên các lĩnh vực.
Nguyên nhân của sự hình thành và phát triển “lợi ích nhóm” (tiêu cực) là
do đang thiếu một hành lang pháp lí để phát huy tính tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của lợi ích nhóm; sự khơng minh bạch và thiếu tính khoa học trong quy

25


×