Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thực trạng giáo dục kỹ năng làm việc nhóm cho sinh viên năm 2, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.95 KB, 9 trang )

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM CHO
SINH VIÊN NĂM 2, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ
NGUYỄN THỊ ÁI TRINH
Khoa Tâm lý – Giáo dục
Tóm tắt: Việc nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng làm việc nhóm cho
sinh viên năm 2 trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, từ đó đề xuất các
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng này cho sinh viên là hết
sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biểu hiện của giáo dục kỹ
năng làm việc nhóm là: “ra các bài tập nhóm”, “hướng dẫn cách thực
hiện”, “chia nhóm làm việc”, “trình bày kết quả làm việc nhóm”, “nhận xét,
đóng góp ý kiến”. Tuy nhiên, các biểu hiện như: “phân công trách nhiệm cho
cá nhân trong nhóm”, “tổ chức quản lý nhóm”, “nói rõ lợi ích của nhóm”
vẫn cịn ít thể hiện trong q trình giáo dục. Trên cơ sở đó, nghiên cứu cũng
đã đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng làm
việc nhóm (KNLVN) cho sinh viên.
Từ khóa: Giáo dục, sinh viên, kỹ năng làm việc nhóm

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của xã hội cho thấy, mỗi người không thể phát triển tốt nếu không biết
phối hợp, hịa nhập tốt với người khác, với mơi trường. Làm việc theo nhóm là yêu cầu
quan trọng, cần thiết được đặt ra đối với tất cả mọi người trong các hoạt động sống. Ở
nước ta, trong những năm gần đây, nhận thấy khiếm khuyết của nền giáo dục đại học
Việt Nam về giáo dục kỹ năng mềm và trước nhu cầu của xã hội, đặc biệt là các doanh
nghiệp, các trung tâm đào tạo ngắn hạn về kỹ năng mềm đã mọc lên như nấm và thu hút
khá đông người theo học. Một số trường đại học trước tình hình này cũng đã bước đầu
chú trọng hơn đến việc giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên. Tuy nhiên, cho đến cuối
năm 2009, con số thể hiện trong kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu giáo dục VN
cơng bố trên báo Sài Gịn giải phóng ngày 14/12/2009 vẫn là con số đáng lo ngại: cứ
trong 100 sinh viên tốt nghiệp có 83 trường hợp bị đánh giá thiếu kỹ năng mềm, 73 sinh
viên khơng tìm được việc làm thích hợp vì ngun nhân thiếu kỹ năng mềm [6]. Trong
đó, bao gồm cả việc trang bị KNLVN. Nhiều sinh viên chưa nhận ra được vai trị, vị trí


của mình trong cơng việc, sinh viên Việt Nam tính cá nhân cịn cao, vì vậy khi làm việc
nhóm họ chưa phát huy cao sức mạnh tập thể, hiệu quả công việc chưa đạt được yêu
cầu. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Phạm Thị Hà, Lê Thị Hồng, Lê Đăng Lộc…
(2008) [1] hay nhóm tác giả Lê Ngọc Hạnh, Đoàn Quốc Huy… (2009) [2] cho thấy rằng
sinh viên làm việc nhóm cịn khá thụ động, phụ thuộc vào các thành viên khác, chưa ý
thức được trách nhiệm của mình đối với việc thực hiện mục tiêu nhóm. Theo nghiên
cứu của tác giả Lê Ngọc Huyền (2010) cho rằng nguyên nhân xuất phát bao gồm từ cả
về phía nhà trường, giáo viên và sinh viên [5]. Để quá trình giáo dục KNLVN hiệu quả,

Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 186-194


THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM CHO SINH VIÊN NĂM 2…

187

cần thiết phải có những nghiên cứu về thực trạng giáo dục KNLVN cho sinh viên, trên
cơ sở để đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng này.
Nghiên cứu được thực hiện trên 90 sinh viên năm 2, phân đều 3 khoa Tâm lý – Giáo
dục, khoa Vật lý và khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế thông qua
phương pháp nghiên cứu tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi, thống kê toán học. Kết quả
điều tra được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Nhận thức của sinh viên về vai trò của việc giáo dục KNLVN
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát và xác định 16 vai trò cụ thể mà giáo dục KNLVN
mang lại. Nội dung vai trò và kết quả được thể hiện thông qua bảng 1. Kết quả khảo sát
ở bảng 1 cho thấy, sinh viên nhận thức khá đầy đủ về vai trị của giáo dục KNLVN.
Trong đó, rất nhiều sinh viên đồng ý với việc kỹ năng này sẽ giúp cho sinh viên có thể
“Học hỏi được nhiều điều từ các thành viên khác” ( ̅ = 3,99), cụ thể tỉ lệ “Rất đồng

ý” chiếm 37,8%, “Đồng ý” chiếm 37,8%. Hay khi làm việc nhóm sẽ “Giúp cá nhân
giải quyết những cơng việc mà một mình khó làm được” ( ̅= 3,97) với tỉ lệ “Rất đồng
ý” chiếm 30%, “Đồng ý” chiếm 47,8%.
Thực tế cho thấy rằng, khi bước vào môi trường học tập ở Đại học, sinh viên phải trang
bị cho mình rất nhiều thứ, khơng chỉ kiến thức chun ngành mà đó cịn là kiến thức, kỹ
năng, thái độ về cuộc sống xung quanh, giúp con người có những hiểu biết để chuẩn bị
cho tương lai. Có được điều này, sinh viên phải khơng ngừng học hỏi từ sách vở, từ thầy
cô, từ bạn bè… và nhất là thơng qua các giờ làm việc nhóm.
Mỗi cá nhân trong nhóm với những kinh nghiệm và hiểu biết riêng sẽ cùng chia sẻ, giúp
đỡ, hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bằng cách này, sinh viên có thể học hỏi
được nhiều điều và giải quyết được các công việc mà với năng lực của cá nhân khơng
thể làm được.
Thế nhưng, so với các vai trị khác thì các vai trị như “Phá vỡ bức tường ngăn cách,
tạo sự cởi mở và thân thiện” ( ̅ = 2,28), hay “Có cái nhìn tồn diện về vấn đề” hơn (̅
= 2,31), “giải quyết nhanh vấn đề” ( ̅ = 2,49) không nhận được nhiều sự lựa chọn. Cụ
thể với vai trò 5 (theo số thứ tự ở bảng 1), tỉ lệ sinh viên “Khơng đồng ý” chiếm 52,2%,
“Hồn tồn khơng đồng ý” chiếm 18,9%; vai trị 6 tỉ lệ “Khơng đồng ý” chiếm 47,8%,
“Hồn tồn khơng đồng ý” chiếm 18,9%; vai trị 7 tỉ lệ “Khơng đồng ý” chiếm 40%,
“Hồn tồn khơng đồng ý” chiếm 14,4%. Kết quả mức độ lựa chọn này xuất phát từ
chính đặc điểm tính cách khác nhau của mỗi cá nhân. Khi tham gia vào nhóm nghĩa là
cá nhân đó phải điều chỉnh tích cách, suy nghĩ của mình sao cho phù hợp với số đơng
của nhóm, hoặc muốn nhóm đồng ý với ý kiến của mình thì phải tìm cách thuyết phục
các thành viên trong nhóm theo. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng suy nghĩ và làm được
điều này mà thường có tâm lý hoặc là quyết liệt phản đối, bắt mọi người theo ý kiến của
mình hoặc là mặc kệ, ỷ lại vào người khác. Chính vì vậy vấn đề khơng được nhìn nhận
một cách tồn diện, họ khơng có cảm giác thân thiện, thoải mái trong nhóm với nhau.


188


NGUYỄN THỊ ÁI TRINH

Kết quả cho thấy rằng, đa số sinh viên ai cũng nhận thức được các vai trò của việc giáo
dục KNLVN. Tuy nhiên mức độ này chênh lệch nhiều ở từng vai trị cụ thể. Vì vậy cần
nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng này để đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục KNLVN, giúp cho sinh viên có nhận thức tồn diện hơn về vấn đề này.
Bảng 1. Nhận thức của sinh viên về vai trò của việc giáo dục KNLVN

Nội dung

STT

SD

1 Giúp cá nhân có thể giải quyết những cơng việc mà một mình khó
được
Tất cả
các thành viên đều cảm thấy bình đẳng
2 làm

3.97

0.95

3.70

0.92

3 Học hỏi được nhiều điều từ các thành viên khác
4 Nêu lên được ý kiến của mình, thỏa mãn nhu cầu cá nhân


3.99

1.07

3.50

1.02

5 Phá vỡ bức tường ngăn cách, tạo sự cởi mở, thân thiện
6 Có cái nhìn tồn diện hơn về vấn đề

2.28

1.02

2.31

0.97

7 Giải quyết nhanh vấn đề
8 Phát huy được năng lực bản thân

2.49

0.99

3.70

0.83


9 Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho người học
Giúp người học có thể tự mình lĩnh hội, học hỏi được nhiều kiến
10
thức, kinh nghiệm từ các thành viên trong nhóm
Tạo ra mơi trường thoải mái, dễ dàng cho người học có thể trao
11
đổi, nói ra chính kiến của mình
Rèn luyện được các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng
12
thảo luận, kỹ năng trình bày
13 Nâng cao sự tự tin, khả năng giải quyết vấn đề hay tình huống khó
khănđiều kiện cho các thành viên giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau
14 Tạo

3.82

0.82

3.76

0.89

3.81

0.81

3.86

0.92


3.88
3.78

0.78
0.83

3.77

0.81

3.50

0.85

Là cách để tăng sự tương tác giữa các thành viên với nhau, giữa
người học và giáo viên
16 Vai trị khác
15

: Điểm trung bình

Ghi chú:

SD : Độ lệch chuẩn
1≤

≤5



THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM CHO SINH VIÊN NĂM 2…

189

2.2. Nội dung giáo dục KNLVN cho sinh viên năm 2, trường Đại học Sư phạm, Đại
học Huế
Bất kỳ một người nào muốn làm việc nhóm hiệu quả hay giáo dục kỹ năng này đều phải
quan tâm đến nội dung giáo dục. Đã có rất nhiều quan điểm của nhiều tác giả nghiên
cứu, tìm hiểu về vấn đề này, tuy nhiên trên cơ sở mục tiêu cũng như phạm vi nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi tập trung vào đánh giá các nội dung giáo dục KNLVN dưới bảng 2.
Từ kết quả có thể thấy rằng, việc sử dụng các nội dung giáo dục ở trường Đại học Sư
phạm, Đại học Huế đa số ở mức độ thường xuyên. Theo bảng 2, các nội dung giáo dục
được sắp xếp theo thứ bậc: “Giáo dục về cách nâng cao hiệu quả khi làm việc nhóm” xếp
thứ 1,“Giáo dục về cách họp nhóm hiệu quả” xếp thứ 2,“Giáo dục về cách thành lập và
xây dựng nhóm làm việc” xếp thứ 3,“Giáo dục về cách hoàn thiện bản thân khi làm việc
nhóm” xếp thứ 4 và “Giáo dục về cách giải quyết xung đột khi làm việc nhóm” xếp thứ 5.
Có kết quả trên có thể lý giải rằng, với kinh nghiệm giảng dạy của các thầy cô tại trường
Đại học Sư phạm Huế, sinh viên không những được tham gia vào q trình tổ chức hoạt
động mà cịn được tiếp nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau, ở đó có yêu cầu về việc thực
hiện KNLVN. Đồng thời, trong quá trình ấy ln ln có sự tương tác hai chiều giữa
giảng viên và sinh viên. Sinh viên là người tích cực, chủ động, tự giác còn giảng viên là
người trực tiếp điều khiển, định hướng thực hiện nhiệm vụ. Do đó, sinh viên biết cách
làm sao để thực hiện nhiệm vụ được hiệu quả nhất.
Bảng 2. Nội dung giáo dục KNLVN cho sinh viên năm 2,
trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

̅

SD


3.57

0.77

Giáo dục về cách nâng cao hiệu quả khi làm việc nhóm

3.69

0.90

Giáo dục về cách họp nhóm hiệu quả

3.60

0.76

Giáo dục về cách hoàn thiện bản thân khi làm việc nhóm

3.56

0.91

Giáo dục về cách giải quyết xung đột khi làm việc trong nhóm

3.42

0.98

Nội dung


Giáo dục về cách thành lập và xây dựng nhóm làm việc

Ghi chú: 1 ≤

≤5


190

NGUYỄN THỊ ÁI TRINH

Đồng thời ta có thể thấy bên cạnh việc giảng viên hướng dẫn sinh viên cách nâng hiệu
quả hoạt động nhóm thì cịn chú trọng đến việc giáo dục cách họp nhóm hiệu quả, cách
thành lập và xây dựng nhóm, cách hồn thiện bản thân khi làm việc nhóm. Tuy nhiên,
chúng cịn ở mức độ chưa được cao. Theo chúng tơi, ngun nhân là bởi vì đa số giảng
viên khi định hướng thực hiện nhiệm vụ cho sinh viên mới chỉ quan tâm đến kết quả,
còn tiến trình nhóm thực hiện như thế nào thì chưa có sự quan tâm nhiều, sự định hướng
mới chỉ cao ở cách nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, còn về việc bản thân cần phải
làm như thế nào, cách họp nhóm như thế nào thì chưa có sự quan tâm nhiều.
Từ bảng 2, ta cũng thấy được nội dung xếp thứ 5 là “Giáo dục về cách giải quyết xung
đột khi làm việc nhóm”. Nguyên nhân xuất phát từ việc trong q trình giáo dục đó
khơng phải lúc nào giảng viên cũng nhận ra được các mâu thuẫn, xung đột nảy sinh
trong khi sinh viên làm việc nhóm. Do đó khơng thể giáo dục trực tiếp về cách giải
quyết cho sinh viên được mà chủ yếu giáo dục gián tiếp, do đó khơng có sự cụ thể hóa
đối tượng, cách giải quyết vấn đề cịn mang tính chung chung.
Đồng thời, khơng phải tất cả mọi sinh viên đều có thể áp dụng được hay áp dụng hiệu
quả về cách xử lý xung đột. Bởi điều này bị chi phối và ảnh hưởng từ rất nhiều yếu tố,
trong đó bản thân cá nhân – bao gồm cả tính cách, trình độ, năng lực… là một điều quan
trọng nhất. Vì khi các thành viên trong nhóm đồng quan điểm với nhau thì nhóm sẽ
giảm thiểu tối đa các xung đột xảy ra. Giáo dục nội dung này tức là đã góp phần vào

việc thúc đẩy nhóm phát triển.
Qua kết quả, chúng tôi thấy rằng cần phải nâng cao việc giáo dục các nội dung cụ thể
cho sinh viên. Tránh hiện trạng tập trung vào nhiều quá về hình thức trong khi đó nội
dung giáo dục trực tiếp cho sinh viên thì khơng có dẫn đến tình trạng làm việc nhóm
theo kinh nghiệm, khơng đạt kết quả cao.
2.3. Các hình thức giáo dục KNLVN cho sinh viên năm 2, trường Đại học Sư
phạm, Đại học Huế
Giáo dục KNLVN có thể thơng qua nhiều hình thức khác nhau. Nó có thể diễn ra trong
giờ học hoặc ngoài giờ lên lớp. Trên cơ sở thực tế, chúng tơi tập trung đánh giá 8 hình
thức nội dung và kết quả được thể hiện ở bảng 4. Từ bảng dưới cho thấy rằng mức độ sử
dụng các hình thức “Nhóm thảo luận”, “Nhóm thuyết trình”, “Nhóm nhận xét, đánh
giá”, “Các trò chơi tập thể”, “Câu Lạc Bộ” khá thường xuyên. Trong đó, “Nhóm thảo
luận” tỉ lệ “Thường xuyên” chiếm 40%, “Rất thường xuyên” chiếm 21,1%; “Nhóm
thuyết trình” tỉ lệ “Thường xuyên” chiếm 45,6%, “Rất thường xuyên” chiếm 23,3%;
“Nhóm nhận xét, đánh giá” tỉ lệ “Thỉnh thoảng” chiếm 27,8%, “Thường xuyên” chiếm
43,3%; “Các trò chơi tập thể” tỉ lệ “Thỉnh thoảng” chiếm 23,3% và “Thường xuyên”
chiếm 44,4%; “Câu Lạc Bộ” tỉ lệ “Thỉnh thoảng” chiếm 30%, “Thường xuyên” chiếm
30%.


THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM CHO SINH VIÊN NĂM 2…

191

Có kết quả này là do chính đặc điểm chuyên ngành đào tạo của trường Đại học Sư phạm
và do chính mơi trường Đại học Sư phạm. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát đều trên 3
khoa Tâm lý – Giáo dục, khoa Vật lý và khoa Ngữ Văn, mỗi khoa có mỗi đặc thù
chuyên ngành riêng. Thêm vào đó, mơi trường sư phạm ở đây lại rất năng động. Nhà
trường thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể, đồng thời tính đến thời điểm bây
giờ, đa số mỗi khoa đều có 1 Câu Lạc Bộ riêng, chưa kể đến các Câu Lạc Bộ thuộc

Trường. Chính vì điều này đa tạo ra được sân chơi vơ cùng bổ ích cho sinh viên, nhằm
giúp phát triển khả năng làm việc nhóm với nhau khơng chỉ trong giờ mà cịn ngồi giờ
lên lớp.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng, các hình thức như “Diễn đàn” tỉ lệ “Không bao
giờ” chiếm 16.7%, “Hiếm khi” chiếm 21,1%. Điều này chứng tỏ ở trường Đại học Sư
phạm Huế, hình thức này chưa được đẩy mạnh. Nguyên nhân là ở trường cũng như khoa
có khá nhiều hình thức hoạt động, trao đổi học tập, thông tin khác và hiện nay đang diễn
ra tương đối hiệu quả. Chính vì vậy, “Diễn đàn” không được sử dụng thường xuyên ở
trường.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng, các hình thức như “Diễn đàn” tỉ lệ “Không bao
giờ” chiếm 16,7%, “Hiếm khi” chiếm 21,1%. Điều này chứng tỏ ở trường Đại học Sư
phạm Huế, hình thức này chưa được đẩy mạnh. Nguyên nhân là ở trường cũng như khoa
có khá nhiều hình thức hoạt động, trao đổi học tập, thông tin khác và hiện nay đang diễn
ra tương đối hiệu quả. Chính vì vậy, “Diễn đàn” không được sử dụng thường xuyên ở
trường.
Bảng 3. Các hình thức giáo dục KNLVN cho sinh viên năm 2 trường Đại học Sư phạm, ĐH Huế

̅

SD

Nhóm thảo luận

3.72

0.91

Nhóm thuyết trình

3.79


0.98

Nhóm nhận xét, đánh giá

3.61

0.91

Câu Lạc Bộ

3.20

1.11

Các trị chơi tập thể

3.27

1.04

Diễn đàn

2.73

1.08

Giao lưu

3.31


1.00

Hình thức khác

3.12

1.06

Nội dung

Ghi chú: 1 ≤

≤5


192

NGUYỄN THỊ ÁI TRINH

4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục KNLVN cho sinh viên
Quá trình giáo dục KNLVN có hiệu quả hay khơng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố
ảnh hưởng. Sau khi xem xét tất cả các yếu tố, chúng tôi phân thành yếu tố thuận lợi và
yếu tố khó khăn. Kết quả thể hiện dưới bảng 4.
Về yếu tố thuận lợi, các yếu tố “Giảng viên có năng lực”, “Cơ sở vật chất, trang thiết
bị đầy đủ”, “Sự thay đổi về hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ” và “Sinh viên tích
cực, chủ động, có sự say mê hứng thú” có giá trị trung bình giảm dần với ̅= 3,97, ̅ =
3,86, ̅ = 3,74 và ̅ = 3,70.
Từ đây, chúng ta nhận thấy rằng việc giảng viên có năng lực hay khơng thực sự rất quan
trọng đối với quá trình giáo dục nói chung và giáo dục KNLVN nói riêng. Bởi với sự

hướng dẫn của giảng viên, sinh viên sẽ định hướng được mình sẽ làm gì và làm như thế
nào, quá trình làm việc để đạt được nhiệm vụ cũng sẽ nhanh và hiệu quả hơn. Với đội
ngũ giảng viên có năng lực và kinh nghiệm như trường Đại học Sư phạm thì đây thực
sự là một điều hết sức thuận lợi cho sinh viên trong quá trình giáo dục kỹ năng. Đồng
thời, với điều kiện cơ sở vật chất hiện có của trường, có thể thấy đây cũng là một điều
thuận lợi cho sinh viên.
Bảng 4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục KNLVN cho sinh viên năm 2,
trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

̅

SD

Sự thay đổi hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ

3.74

0.80

Cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ
Giảng viên có năng lực

3.86
3.97

0.92
0.95

Sinh viên tích cực, chủ động, có sự say mê hứng thú


3.70

0.92

Nhà trường chưa tổ chức nhiều hình thức hoạt động

3.77

0.81

Số lượng sinh viên đông

4.00

0.97

Giảng viên chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục kỹ năng
làm việc nhóm cho sinh viên

3.50

1.02

Đặc điểm tính cách của cá nhân

3.62

0.83

Yếu tố

Thuận
lợi

Khó
khăn

Ghi chú: 1 ≤

≤5

Vì ngồi các điều kiện về khơng gian như: lớp học, sân trường, cây cối nhiều… thì nhà
trường cịn trang bị thêm các điều kiện về cơ sở vật chất như: máy chiếu, phịng thí
nghiệm, phịng thực hành… giúp cho sinh viên có mơi trường thuận lợi để làm việc
nhóm. Bên cạnh đó, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế còn là nơi đào tạo ra các
sinh viên hết sức chủ động, nhiệt tình và năng nổ. Cùng với sự thay đổi theo hình thức
đào tạo tín chỉ như hiện nay thì đây chính là mơi trường thuận lợi cho sinh viên có thể
hợp tác và trao đổi, thúc đẩy hiệu quả q trình làm việc nhóm.


THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM CHO SINH VIÊN NĂM 2…

193

Thế nhưng, thông qua kết quả từ bảng 5, chúng ta cũng thấy rằng vẫn còn tồn tại một số yếu
tố gây khó khăn đến q trình làm việc nhóm. Như “Số lượng sinh viên đơng” chiếm
̅ = 4.00 hay “Nhà trường chưa tổ chức nhiều hình thức hoạt động” chiếm ̅ = 3.77. Nguyên
nhân là vì hiện tại số lượng sinh viên được đào tạo chính quy tại trường là hơn 6.000. Số
lượng quá lớn làm cho việc giáo dục KNLVN cho sinh viên bị ảnh hưởng rất nhiều.
Do đó, trong q trình giáo dục của mình, giảng viên thường chọn các phương pháp giáo
dục mang tính chất đồng bộ và thuận lợi cho q trình. Thêm vào đó, việc số lượng sinh

viên đơng sẽ gây khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động tham gia. Cho nên, rất dễ
dàng có hiện tượng sinh viên thụ động và ỷ lại, mặc định “khơng có mình thì có người
khác”.
Chúng tơi nhận thấy rằng cần phải đưa ra một số biện pháp để giảm thiểu tối đa những
khó khăn ảnh hưởng đến q trình giáo dục KNLVN cho sinh viên.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Tóm lại, từ kết quả trên ta có thể thấy rằng, đa số sinh viên năm 2 trường Đại học Sư
phạm, Đại học Huế đã hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục KNLVN, nó được
thể hiện thơng qua các biểu hiện hết sức tích cực trong q trình làm việc nhóm của sinh
viên. Bên cạnh đó, việc giáo dục kỹ năng này cũng được các giảng viên sử dụng khá
thường xuyên, dưới nhiều hình thức khác nhau cả trong và ngồi giờ lên lớp, góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục cho người học. Tuy nhiên, đa số vẫn còn chưa hiểu được
chính xác về tầm quan trọng của giáo dục KNLVN cho sinh viên và cách giáo dục kỹ
năng này như thế nào sao cho đạt hiệu quả.
Xuất phát từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu
quả của việc giáo dục KNLVN cho sinh viên:
- Tăng cường các môn học kỹ năng mềm, trong đó có mơn KNLVN vào chương
trình học chính thức cho sinh viên, thời gian học là học kỳ 1 của năm 1 Đại học.
- Phát huy hơn nữa vai trị của các tổ chức đồn, hội và câu lạc bộ trong nhà trường
thông qua hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp mỗi sv hình thành và phát huy
KNLVN cho bản thân.
- Tằng cường các giờ thực hành, thường xuyên giao các bài tập dưới dạng làm việc
nhóm cho sinh viên thực hiện.


194

NGUYỄN THỊ ÁI TRINH

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]
[2]
[3]
[4]
[5]

[6]

Phạm Thị Hà và cộng sự (2008). Khả năng làm việc nhóm cho sinh viên trường Đại
học Kinh tế quốc dân hiện nay, Hà Nội.
Lê Ngọc Hạnh, Đoàn Quốc Huy, Phan Nữ Quỳnh Mơ, Lã Văn Thọ (2010). Vấn đề
làm việc nhóm của khoa Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Minh Hải (2007). Kỹ năng làm việc nhóm, trường Đại học An Giang.
Đỗ Hải Hồn (2015). Bài giảng Kỹ năng làm việc nhóm, học viện Cơng nghệ Bưu
chính viễn thơng.
Lê Ngọc Huyền (2010). Kỹ năng hoạt động nhóm trong học tập của sinh viên trường
Đại học Sài Gòn, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Bộ giáo dục và Đào tạo trường Đại
học thành phố Hồ Chí Minh.
Bùi Loan Thùy (2010). Tăng cường giáo dục và rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cho
sinh viên – yêu cầu cấp bách của đổi mới giáo dục đại học.

NGUYỄN THỊ ÁI TRINH
SV lớp TL-GD 3, khoa Tâm lý – Giáo dục, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 0169 9696 847, Email:



×