Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.59 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay là một trong các hoạt động truyền thống và chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại. Trên thực tế, đối với hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam
hiện nay cơ cấu tài sản chủ yếu là các khoản vay. Chính vì vậy, chất lượng của các
khoản vay đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng
thương mại. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay trở thành yêu cầu cấp thiết trong
tình hình thị trường tài chính đầy biến động khi Việt Nam gia nhập WTO, nhất là khi
những yếu tố và nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng đa
dạng và phức tạp. Do những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương
Việt Nam”
Mục đích nghiên cứu
o Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động cho vay và quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thương mại.
o Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay và quản trị rủi ro trong hoạt động cho
vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
o Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản
trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ
thương Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
o Đối tượng nghiên cứu là hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần
kỹ thương Việt Nam
o Phạm vi nghiên cứu là quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam năm 2005,2006, 2007 và những
tháng đầu năm 2008.
1
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt luận văn là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp định lượng như phân tích
kinh tế, thống kê và một số phương pháp khác.


Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn bao gồm những nội dung chính sau:
o Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động cho vay và quản trị
rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
o Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng
thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
o Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam.
Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, PGS.TS. Đinh Thị Diên
Hồng- Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã giúp đỡ hoàn thành luận văn này.
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Rủi ro trong hoạt động cho vay
1.1.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay
1.1.1.1. Rủi ro và rủi ro trong kinh doanh
Theo cách nghĩ truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc
các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể
xảy ra cho con người. Có thể nói với quan điểm này, rủi ro là những điều không
may mắn, không tốt, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, tổn thất.
Theo trường phái trung hoà: Rủi ro là giá trị và kết quả của hiện thời chưa biết
đến. Rủi ro là sự bất trắc, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, mất mát, nguy hiểm và có
thể lường được. Trong lĩnh vực kinh doanh, rủi ro được hiểu là khả năng giảm sút
về tài sản hay sự giảm sút lợi nhuận thực tế với lợi nhuận dự kiến, hoặc là những
bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách khác,
rủi ro trong kinh doanh là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy
ra sẽ làm cho kết quả thực tế khác xa kết quả mong muốn, dự kiến. Do đó, chấp
nhận có rủi ro trong kinh doanh và từ đó tìm ra giải pháp hạn chế rủi ro là yêu cầu

đòi hỏi chính đáng của mỗi doanh nghiệp.
Đối với các NHTM, rủi ro là những biến cố không mong đợi có thể xảy ra gây mất
mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá trình hoạt động. Các NHTM cần đánh
giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra những cơ
hội đạt được lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt
động tốt nếu mức rủi ro mà các NHTM gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được,
đồng thời nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính của NHTM.
Thành phần của rủi ro: Rủi ro bao gồm các thành phần sau
3
 Mối nguy hiểm: là các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng các khả năng rủi ro, gồm
Nguy hiểm vốn có: chất hóa học, chất phóng xạ, cơ học, năng lượng....Nguy
hiểm do con người: ý thức cá nhân, sai lầm của con người, tác động của môi
trường.
 Nguồn gây ra rủi ro: có 07 nguồn chính là
- Rủi ro kinh tế vĩ mô như: Suy thoái kinh tế - sức mua của cá nhân
giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp bị giảm; Thâm hụt ngân
sách chính phủ cao hơn GDP; Lạm phát; Mất khả năng thanh toán
của Chính phủ do tỷ lệ nợ ngắn hạn cao hơn mức dự trữ ngoại tệ;
Dự trữ ngoại tệ thấp hơn kim ngạch nhập khẩu; Nợ nước ngoài
cao hơn GDP.
- Rủi ro chính trị: Chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách
về thuế, hạn ngạch và các giới hạn thương mại khác; Chính sách tài
chính, lưu thông tiền tệ, kiểm soát ngoại hối, lãi suất; Chính sách
lao động và tuyển dụng lao động; Chính sách môi trường, sức
khỏe; Quốc hữu hóa và sung công...
- Rủi ro pháp lý: các rủi ro liên quan đến pháp lý, kiện tụng làm hao
tổn sức người và tài sản như Vi phạm hợp đồng kinh tế hoặc đầu
tư; Tranh chấp hàng hóa, nhãn hiệu và thương hiệu; Bồi thường
khiếu nại đối với khách hàng; Thay đổi luật pháp liên quan đến
kinh doanh như: quy định về nhãn hiệu hàng hóa, môi trường và

lao động...
- Rủi ro xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của con
người; Cấu trúc xã hội thay đổi; Trình độ dân trí...
- Rủi ro hoạt động (vi mô): Tuyển dụng và sa thải lao động dẫn đến
những rủi ro pháp lý...Thải chất độc hại trong quá trình sản xuất
gây ô nhiễm môi trường, làm tổn hại sức khỏe cộng đồng.
- Rủi ro do ý thức con người: Nhận thức của mỗi người về nguồn rủi
ro khác nhau và có thể không thấy được rủi ro; Sự bất cẩn của con
4
người dẫn đến những rủi ro về hỏa hoạn hay tai nạn gây chết
người; Phương pháp xử lý rủi ro chưa thấu đáo, bài bản...
- Rủi ro do môi trường tự nhiên như: thiên tai, động đất, bão, lụt ...
 Nguy cơ rủi ro gây ra:
- Rủi ro tài sản: là khả năng tổn thất về tài sản vật chất, tài sản tài
chính hay tài sản vô hình (thanh danh, uy tín, quyền tác giả ...).
- Rủi ro trách nhiệm pháp lý: là những tổn thất có thể xảy ra có liên
quan đến vấn đề pháp lý (tranh chấp, kiện tụng).
- Rủi ro nguồn nhân lực: là những khả năng tổn thất liên quan đến
tính mạng con người của một tổ chức, trong đó có thể kể đến khách
hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, cổ đông và người lao động.
1.1.1.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay
Có nhiều quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay (RRTCV) mà chúng ta có
thể dẫn ra là:
 Rủi ro trong hoạt động cho vay theo định nghĩa của Uỷ ban Basel: “Rủi ro
trong hoạt động cho vay là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác
không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả
thuận”; cũng theo Uỷ ban này, một định nghĩa khác có thể nêu ra là “Rủi ro
thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp
đồng”, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng
nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi”.

 Theo quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc NHNN, tại khoản 1, điều 2
đề cập khái niệm “Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng của TCTD là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức cho vay do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”
 Theo Timothy W.Koch tác giả quyển sách Quản trị ngân hàng do nhà xuất bản
Dryden – Đại học tổng hợp Nam Carolina xuất bản năm 1995: Một khi ngân
hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa
5
là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín
dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ
việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn
 Theo Thomas P.Fitch tác giả Từ điển thuật ngữ Ngân hàng do nhà xuất bản
Barron ấn hành năm 1997: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong
nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi
ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
 Theo Hennie van Greuning - Sonja B rajovic Bratanovic – chuyên viên nghiên
cứu chính sách tài chính – Ngân hàng thế giới :Rủi ro tín dụng được định
nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn
gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn
có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn,
hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với
dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghiã về rủi ro trong hoạt động cho vay,
song các quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay đều hội tụ với nhau về bản
chất đó là: Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng (xác xuất) xảy ra những
thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán
nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc và/hoặc lãi).

RRTCV gắn liền với chính hoạt động cho vay của NHTM. Nguồn thu nhập từ
hoạt động cho vay của NHTM phụ thuộc vào tình hình sử dụng vốn vay của
người vay. Rủi ro mà người đi vay tham gia cũng chính là rủi ro mà NHTM phải
gánh chịu. Vì vậy, có thể nói, chất lượng khoản vay sẽ quyết định hiệu quả của
hoạt động cho vay và hiệu quả kinh doanh của NHTM. Rủi ro trong hoạt động
cho vay có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng
và giảm giá trị thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua
6
lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Tuy nhiên, đứng trên
góc độ quản lý, RRTCV là điều không thể tránh khỏi, luôn tồn tại song hành cùng
hoạt động kinh doanh và chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.
1.1.2. Phân biệt rủi ro và tổn thất
Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ được đề cập trong các khái niệm về
Rủi ro trong hoạt động cho vay đó là rủi ro và tổn thất. Rủi ro trong hoạt động cho
vay là khả năng khách hàng không trả được nợ, vì vậy cần nhận thức rõ khả năng
này có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Khi rủi ro trong hoạt động cho vay xảy ra,
khách hàng thực sự không trả được nợ đúng hạn, ngân hàng không thu hồi được
nợ thì được hiểu là tổn thất. Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất
giữa giá trị tổn thất với khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay. Sự nhầm lẫn này
sẽ tác động bất lợi đến quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, trong đó ảnh hưởng
lớn nhất đến tính chủ động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát
từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập
quĩ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá
trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay trên cơ sở mức độ xác xuất xảy
ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng:
Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không được
trích lập;
Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, mức
độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trường hợp có cú
sốc thì ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro;

Thứ ba, nó làm cho ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của
mình, mặc dù trên thực tế có những ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhưng danh
mục cho vay lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dư nợ vào nhóm khách hàng
hay ngành rủi ro phá sản cao.
Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qũi dự
phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình quản trị RRTCV.
7
1.1.3. Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay
Có nhiều cách phân loại RRTCV, việc phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay
tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc
phân loại RRTCV có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách,
qui trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận
biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ
phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp cho vay
giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thường.
Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho
quá trình quản rị RRTCV có hiệu quả.
1.1.3.1. Phân loại RRTCV theo đối tượng sử dụng vốn vay:
a. Rủi ro khách hàng cá thể:
Là rủi ro xảy ra khi cho các khách hàng là cá nhân vay vốn. Thông thường số
lượng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ
sẽ thấp, mức độ ảnh hưởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay
là nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
b. Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế:
Đây là rủi ro khi cho khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế vay vốn. Tùy theo qui
mô của công ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro
các khoản vay vào đối tượng này sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động
của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao.
c. Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý:
Những ngân hàng hoạt động phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc

gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia RRTCV tập trung theo khu vực địa
lý, ví dụ như mức độ rủi ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam.
1.1.3.2. Phân loại RRTCV theo giai đoạn phát sinh :
a. Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng. Do hiện
tượng thiếu thông tin dẫn đến “thông tin không cân xứng” làm cho TCTD thường
8
chấp nhận cho các khách hàng có khả năng trả nợ tồi vay vốn dẫn đến rủi ro
không thu hồi được vốn sau khi cho vay. Hơn nữa, do thiếu thông tin và tin tưởng
vào tài sản đảm bảo, bảo lãnh, bảo hiểm từ phía khách hàng dẫn đến đánh giá sai
giá trị các khoản thế chấp, bảo lãnh bảo hiểm gây ra rủi ro không thu hồi được nợ
khi khách hàng không trả được nợ.
b. Rủi ro khi cho vay : Là rủi ro mà khi giải ngân vốn sai mục đích làm cho khoản
vay không phát huy hiệu quả. Rủi ro này có thể phát sinh trong quá trình đưa ra
quyết định cho vay khi thiếu thông tin hoặc có sự thoái hoá đạo đức của cán bộ
cho vay để cho khách hàng cố ý sử dụng vốn sai mục đích ngay từ đầu làm cho cơ
cấu khoản vay và mục đích vay không tương thích dẫn đến rủi ro không trả được
nợ của người vay.
c. Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi
nợ không theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn
quay vòng vào việc khác không thu được nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu được
nợ.
1.1.4. Chỉ tiêu cơ bản đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay
Để đo lường rủi ro trong hoạt động cho vay của một TCTD, người ta thường dùng
hệ thống các chỉ số : xác xuất bị rủi ro, tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ lãi
treo và tỷ lệ miễn giảm lãi vay.
a. Xác suất bị rủi ro = Số món bị rủi ro trong kỳ/Tổng số món cho vay trong kỳ
(hoặc bằng giá trị các món bị rủi ro trong kỳ/tổng giá trị các món cho vay trong
kỳ).
b. Tỷ lệ nợ quá hạn = Giá trị các khoản nợ quá hạn trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân
trong kỳ.

c. Tỷ lệ nợ xấu = Giá trị các khoản nợ xấu trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân trong kỳ.
d. Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh/Tổng thu nhập từ cho vay.
e. Tỷ lệ miễn giảm lãi = Lãi miễn giảm/Tổng thu nhập từ cho vay.
9
Nhìn vào các chỉ số này có thể thấy mức độ rủi ro trong danh mục khoản vay của
một TCTD hoặc của cả một hệ thống tài chính. Vì vậy, Chính phủ các nước
thường quy định cụ thể về mức độ rủi ro chấp nhận được của một TCTD thông
qua việc khống chế giá trị các chỉ tiêu đo lường rủi ro này. Để đạt được mục tiêu
duy trì các chỉ số đo lường rủi ro theo đúng quy định Chính phủ, các TCTD phải
thiết lập một hệ thống đo lường rủi ro của riêng họ theo quan điểm quản trị rủi ro
hiện đại.
1.1.5. Các nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTCV, chúng ta có thể phân chia ở những
nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
1.1.5.1. Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng vay vốn làm cho họ
bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, như: Thiên tai, chiến
tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất nhập khẩu, thuế
quan..) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và ngân hàng.
1.1.5.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém
trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ... là nguyên nhân gây ra
rủi ro trong hoạt động cho vay. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ
đoạn ứng phó với ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua
chuộc...Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, thích mở rộng đầu
tư, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra, không có
khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp
còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn,
họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, quỵt nợ, sử dụng vốn vay càng lâu

càng tốt.
10
1.1.5.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách hàng), những
nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng được Uỷ ban Basel (2000) đã thống kê
cho thấy, rủi ro trong hoạt động cho vay thường xảy ra ở 2 lĩnh vực chủ yếu: ( i )
mức độ tập trung, ( ii ) các vấn đề về quy trình cấp cho vay.
a. Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề Rủi ro
trong hoạt động cho vay.
Rủi ro tập trung cho vay tồn tại khi mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay của một
nội dung trong danh mục cho vay trở nên tương đối lớn so với mức vốn hoặc tài
sản của Ngân hàng. Rủi ro tập trung cho vay có thể được phân thành 2 loại: Rủi ro
tập trung cho vay thông thường và rủi ro tập trung cho vay do các yếu tố rủi ro
chung hay có liên hệ với nhau. Rủi ro tập trung cho vay thông thường xảy ra khi
cho vay được tập trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc
ngành/lĩnh vực, chẳng hạn lĩnh vực bất động sản. Trong khi đó, rủi ro tập trung
cho vay do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên quan nhiều đến các yếu
tố đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích. Ví dụ cho loại rủi ro này là
cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997. Trong cuộc khủng hoảng này, sự
liên hệ rủi ro thị trường và Rủi ro trong hoạt động cho vay, cũng như giữa rủi ro
này với rủi ro thanh khoản, đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp (hiệu ứng
domino).
b. Các vấn đề trong quy trình cấp cho vay cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro
trong hoạt động cho vay, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và
theo dõi cho vay.
Rất nhiều Ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá trình đánh giá cho vay
kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong Ngân hàng ngày càng tăng. Do áp lực này mà
nhiều Ngân hàng có xu hướng dựa vào một số chỉ tiêu đơn giản để cấp cho vay.
Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm định và đánh giá các kỹ thuật cho vay
mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro. Chính vì thế, một trong những nguyên tắc theo

11
thông lệ tốt nhất của lĩnh vực Ngân hàng là phải áp dụng một số bước bắt buộc đối
với các sản phẩm cho vay mới.
Các nguyên nhân khác liên quan đến qui trình cho vay gồm: Thiếu đánh giá lại
chất lượng cho vay; Không theo dõi, giám sát thường xuyên khách hàng hoặc tài
sản bảo đảm; Áp dụng lãi suất không dựa trên rủi ro; Không tính đến chu kỳ kinh
doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá, nhất là đối với các
Ngân hàng có mức độ tập trung cao vào lĩnh vực bất động sản. Đây là sự yếu kém
trong quản lý danh mục cho vay; Không dự kiến phương án trong trường hợp xấu
nhất, làm cho Ngân hàng không có sự chuẩn bị kỹ càng để đối phó với rủi ro.
1.2. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
1.2.1.1. Quản trị rủi ro nói chung trong kinh doanh của NHTM
Quản trị rủi ro là quá trình ngăn ngừa tiềm năng xuất hiện một kết quả không
mong đợi của các biến cố sẽ xảy ra trong tương lai. Hay nói cách khác, quản trị
rủi ro là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và tài trợ những nguy cơ rủi ro
về tài sản và thu nhập từ các hoạt động xản xuất - kinh doanh - dịch vụ của một tổ
chức. Quản trị rủi ro không có nghĩa là né tránh rủi ro mà là đối diện với rủi ro để
lựa chọn rủi ro nào sẽ lưu giữ và rủi ro nào phải chuyển giao. Mục tiêu của quản
trị rủi ro là : tối thiểu hóa hậu quả của tổn thất, loại trừ tổn thất từ các rủi ro bất
ngờ, tối thiểu hóa tổn thất có thể xuất hiện
Quản trị rủi ro của NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có hướng
đích của các nhà quản trị ngân hàng lên các đối tượng quản trị và khách thể kinh
doanh nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh
từ đó nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng
trưởng trong ngắn hạn và dài hạn của mỗi NHTM.
Nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng cho rằng: Đối với
các NHTM quản trị kinh doanh cũng chính là quản trị rủi ro, hay nói cách khác
12
quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị và điều hành của mỗi

NHTM. Hiểu một cách đơn giản thì quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM
áp dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị kinh doanh của
các NHTM ở các quốc gia phát triển vào hoạt động kinh doanh của mình để giám
sát phòng ngừa hạn chế giảm thấp rủi ro trong hoạt động cho vay, đầu tư và hoạt
động kinh doanh khác để giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng, đồng thời không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thương trường.
Từ những vấn đề ở trên, chúng ta cũng có thể thấy nếu nói quản trị rủi ro chính là
trung tâm quản trị và điều hành của NHTM, trong khi rủi ro trong hoạt động cho
vay là rủi ro thường gây thiệt hại lớn nhất cho NHTM, dễ dẫn đến rủi ro phá sản
một NHTM, thì cũng có thể nói quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay là trung
tâm của mọi hoạt động quản trị rủi ro.
1.2.1.2. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay là quá trình xây dựng và thực thi các chiến
lược, chính sách quản lý và kinh doanh cho vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong
phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay ở
mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn
chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh cho vay, nhằm tăng doanh
thu cho vay, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả trong kinh
doanh cho vay cả trong ngắn hạn và dài hạn. Kiểm soát quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và
được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của ngân hàng trong dài hạn.
Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay ở các góc
độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học,
chúng ta có thể diễn giải khái niệm quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay là quá
trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát
kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp cho vay, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng
với mức rủi ro có thể chấp nhận.
13
1.2.1.3. Các bước cơ bản của quá trình quản trị
Trên thực tế, quá trình quản trị rủi ro có 4 khâu: xác định; đo lường; quản lý và

kiểm soát. Điều quan trọng quá trình quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay muốn
đạt hiệu quả thì phải bảo đảm rằng các công đoạn như phát hiện kịp thời, xác định
được rủi ro đang tồn tại, phân tích và định lượng nó để từ đó có công cụ cũng như
biện pháp ứng phó. Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay hiệu quả không có
nghĩa là rủi ro không xảy ra mà là rủi ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ
dự đoán trước và ngân hàng đã chuẩn bị đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro có thể
xảy ra đó.
a. Xác định/phát hiện RRTCV
Đây là việc nhận biết được các nguy cơ rủi ro tồn tại trong hoạt động cho vay. Sự
phát triển của công nghệ, thị trường và xu hướng toàn cầu hoá làm cho số lượng
rủi ro ngày càng gia tăng, và khả năng xảy ra rủi ro sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy
một hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả phải là hệ thống có khả năng nhận biết hết
các rủi ro hiện hữu trong cho vay. Ngân hàng nắm được tình hình rủi ro của danh
mục cho vay và ngân hàng xác định rõ nguyên nhân RRTCV
b. Tìm hiểu, đo lường, phân tích
Đây là các bước tiếp theo sau khi đã phát hiện được nguy cơ rủi ro. Trên thực tế
các bước này khá gần gũi với nhau và thường được gộp chung lại trong quá trình
thực hiện tác nghiệp. Mục đích của các bước này là giúp cho toàn bộ bộ máy quản
trị rủi ro hiểu chính xác và nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ
nguyên nhân và quan trọng nhất là lượng hoá mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với
ngân hàng.
c. Theo dõi:
Sau khi đã xác định, phân tích và hình thành các chỉ tiêu đo lường, rủi ro cần phải
được theo dõi thường xuyên. Mục đích của khâu này giúp cho bộ máy quản trị rủi
ro nắm được tình trạng rủi ro của ngân hàng diễn biến theo thời gian như thế nào.
d. Quản lý, báo cáo, kiểm soát rủi ro:
14
Đây là những khâu thể hiện rõ nhất tính chiến lược, cũng như tư tưởng của ngân
hàng về rủi ro trong hoạt động cho vay. Trước hết ngân hàng cần xây dựng được
hệ thống các công cụ quản lý hạn chế rủi ro như hạn mức rủi ro, mức uỷ quyền,

các tiêu chuẩn cấp tín dụbng, xếp hạng cho vay….Bên cạnh đó là chính sách
chuẩn bị nguồn lực để bù đắp cho rủi ro kỳ vọng.
Kiểm soát RRTCV là việc giám sát một cách độc lập RRTCV và quản lý rủi ro đó,
quá trình kiểm soát RRTCV phải bảo đảm đánh giá một cách độc lập nhằm tuân
thủ các mục tiêu và chỉ thị cho vay của ban lãnh đạo ngân hàng.
1.2.2. Sự cần thiết phải thực hiện công tác quản trị rủi ro trong cho vay
1.2.2.1. Quản trị rủi ro trong cho vay bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền
vững của NHTM.
Quá trình xây dựng khung lý thuyết cho quản trị hoạt động của NHTM đa phần
được đúc kết từ thực tiễn hoạt động của NHTM, vì vậy trong lịch sử hoạt động
ngân hàng, thì rủi ro trong hoạt động cho vay là loại rủi ro được đề cập sớm nhất
và cũng là nhiều nhất. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động ngân hàng với
vai trò của một trung gian tài chính, huy động vốn để cho vay. Hoạt động cho vay
là chức năng chính của NHTM với việc trao quyền sử dụng vốn cho người khác sử
dụng và nhận được lời cam kết sẽ hoàn trả đủ gốc và lãi sau một thời gian nhất
định. Như vậy, bản thân khi khoản tiền vay xuất ra khỏi ngân hàng đã tiềm ẩn rủi
ro không có khả năng thu hồi, một khi kinh doanh của khách hàng vay vốn gặp rủi
ro thì ngay lập tức khoản vốn cho vay của NHTM cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy,
giống như bảo hiểm, hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh rủi
ro. Hoạt động cho vay vẫn là hoạt động chính của ngân hàng, nó chiếm tới trên 1/2
đến 2/3 bảng cân đối và mang lại thu nhập chính cho sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng, nhưng đi liền bên cạnh là RRTCV cũng mang lại hậu quả thiệt hại thu
nhập, thậm chí có thể phá sản một NHTM, và ở mức cao có thể gây khủng hoảng
cả hệ thống tài chính ngân hàng. Vấn đề là để chấp nhận một mức rủi ro và đạt
được lợi nhuận tối đa NHTM cần phải tổ chức quản trị tốt RRTCV. Hay nói cách
15
khác quản trị RRTCV chính là chốt hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của một ngân hàng.
1.2.2.2. Mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay ngày càng gia tăng
Tính cấp thiết của quản trị RRTCV không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và

nguy cơ rất lớn của RRTCV mà còn do xu hướng kinh doanh của ngân hàng ngày
nay càng trở nên rủi ro hơn. Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng ngày càng gia tăng:
Thứ nhất, do quá trình tự do hoá, nới lỏng qui định trong hoạt động ngân hàng trên
phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hoá, tự do
hoá kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng
đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng
phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh
tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh vực
cho vay các sản phẩm cho vay có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản
phẩm cho vay truyền thống. Các sản phẩm cho vay dựa trên cơ sở của sự phát triển
công nghệ như thẻ cho vay, cho vay cá thể…luôn chứa dựng rủi ro mới. Với sự đa
dạng phức tạp của sản phẩm cho vay cũng như RRTCV càng đòi hỏi quản trị
RRTCV phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.
Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình
chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế không ổn định, hệ thống pháp
luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng
càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác quản
trị RRTCV là một công việc tối quan trọng.
16
1.2.3. Công cụ quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay
Trên thực tế, công tác quản trị RRTCV của ngân hàng được thể hiện cụ thể qua
chính sách quản trị RRTCV và bộ máy thực hiện các biện pháp quản trị RRTCV
tại Ngân hàng
1.2.3.1. Chính sách quản trị RRTCV:
Ba nhóm chính sách cơ bản liên quan đến quản trị RRTCV là: Các chính sách
nhằm giới hạn hoặc giảm thiểu RRTCV; các chính sách liên quan đến phân loại
nợ; và chính sách liên quan đến trích lập dự phòng rủi ro (hay tổn thất) để bù đắp
cho các rủi ro dự kiến.

a. Xây dựng các giới hạn cho vay nhằm giảm RRTCV
Chính sách này được xây dựng đề cập vào ba giới hạn cơ bản đó là: Giới hạn dư
nợ cho vay khách hàng lớn; Giới hạn dư nợ cho vay nhóm khách hàng có liên
quan; Giới hạn dư nợ theo ngành, lĩnh vực hay khu vực địa lý.
 Giới hạn cho vay một khách hàng lớn:
Luật pháp các nước đều đưa ra qui định rõ về giới hạn này nhằm ngăn chặn các
NHTM tập trung quá lớn vào một khách hàng. Giới hạn này được thiết lập trên cơ
sở vốn của ngân hàng, thông thường mức dư nợ cho vay vào một khách hàng
không quá 10 –25% vốn của NHTM. Thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, NHTM thường thiết lập mức thấp hơn so qui định của pháp luật.
 Giới hạn cho vay nhóm khách hàng có liên quan:
Theo thông lệ chung thì giới hạn cho vay vào nhóm khách hàng có liên quan
không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng và 60% nếu tính cả số dư bảo lãnh;
hoặc ở mức khống chế chặt đối với nhóm khách hàng có liên quan đều do hội
đồng quản trị xem xét, quyết định.
 Giới hạn cho vay theo ngành hoặc lĩnh vực:
Chính sách này nhằm khống chế dư nợ tối đa cho vay vào một ngành kinh doanh
hay lĩnh vực, thậm chí theo khu vực địa lý (vùng, quốc gia). Chính sách nhằm
ngăn chặn tổn thất cho vay do hàng loạt khách hàng gặp khó khăn với cùng một lý
do, ví dụ lĩnh vực kinh doanh bất động sản với rủi ro lớn khi thị trường đóng băng,
17
có thể dẫn tới loạt khách hàng vay vốn kinh doanh trong lĩnh vực này phá sản,
không trả được nợ ngân hàng.
b. Chính sách phân loại nợ
Chính sách phân loại nợ là chính sách mà các NHTM đưa ra các tiêu chí xếp hạng
các khoản dư nợ hiện tại theo tiêu chuẩn cụ thể vào các nhóm nợ để từ đó thực
hiện trích lập dự phòng rủi ro bù đắp rủi ro trong hoạt động cho vay theo tỷ lệ
tương ứng cho mỗi nhóm nợ, nhằm chủ động bù đắp tổn thất cho vay khi có rủi ro
xảy ra. Đây là chính sách cốt lõi của công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho
vay. Về nguyên tắc phân loại phải được tiến hành ngay khi cấp cho vay và thông

thường được đánh giá lại vài lần trong năm.
c. Trích lập dự phòng RRTCV
Việc trích lập dự phòng bù đắp rủi ro là nhằm giúp ngân hàng chủ động đối phó
với các tổn thất dự kiến. Phân loại nợ là cơ sở cho chính sách trích lập dự phòng
rủi ro, bên cạnh đó các yếu tố như kinh nghiệm thu hồi nợ vay trong quá khứ, mức
tăng trưởng cho vay, sự thay đổi của các điều kiện kinh tế... cũng cần được cập
nhật trong khi xây dựng chính sách trích lập dự phòng tổn thất cho vay.
1.2.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức thực hiện đánh giá RRTCV:
Bộ máy tổ chức thực hiện đánh giá RRTCV phải được thực hiện theo hướng phân
tách rõ rệt giữa các chức năng tiếp xúc khách hàng, thẩm định, ra quyết định và
theo dõi kiểm soát khoản vay. Trong đó vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ và
quản lý tín dụng là rất quan trong trong việc nhận diện, kiểm soát và phòng ngừa
khắc phục rủi ro.
1.2.4. Phương pháp đánh giá hoạt động quản trị RRTCV
Nếu như quản trị RRTCV đóng vai trò sống còn đối với ngân hàng, thì việc đánh
giá được hiệu quả trong hoạt động quản trị RRTCV của một ngân hàng còn là vấn
đề quan trọng hơn. Ngân hàng không chỉ nhận thức vai trò của quản trị RRTCV,
mà còn phải biết cách xây dựng một hệ thống quản trị RRTCV đáp ứng được các
mục tiêu đề ra.
18
Basel (2000) chú trọng đến quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay và đã đưa ra 17
nguyên tắc cho hoạt động quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay ngân hàng gồm:
(i) xây dựng và thường xuyên đánh giá chiến lược quản lý rủi ro trong hoạt động
cho vay; (ii) xây dựng chính sách và quản lý rủi ro ở tất cả các sản phẩm và hoạt
động; (iii)xác định và quản lý rủi ro ở tất cả sản phẩm và hoạt động; (iv) xây dựng
một hệ thống tiêu chuẩn cấp cho vay rõ ràng; (v) xây dựng các hạn mức chung và
cho các cấp; (vi) thủ tục phê duyệt cho vay rõ ràng; (vii) việc mở rộng cho vay
phải nằm trong tầm kiểm soát; (viii) phải có cơ chế quản lý thường xuyên danh
mục rủi ro; (ix) có hệ thống quản lý các khoản cho vay cụ thể; (x) xây dựng hệ
thống xếp loại rủi ro nội bộ; (xi) có hệ thống thông tin thích hợp và hiệu quả; (xii)

có hệ thống quản lý chất lượng danh mục dư nợ; (xiii) đánh giá được các xu
hướng của nền kinh tế; (xiv) có hệ thống đánh giá chất lượng quản lý Rủi ro trong
hoạt động cho vay một cách độc lập; (xv) duy trì mức độ rủi ro ở mức phù hợp với
tiêu chuẩn nội bộ; (xvi) có hệ thống cảnh báo sớm và thực hiện các biện pháp
trong tình trạng có thể xảy ra rủi ro trong hoạt động cho vay; (xvii) phải có hệ
thống kiểm soát hoạt động hiệu quả.
Mặc dù số lượng, trọng tâm sử dụng các chỉ tiêu có khác nhau, tùy thuộc vào mục
đích, mức độ phát triển của ngân hàng được đánh giá; nhưng phương pháp đánh
giá cơ bản dựa vào 4 trụ cột: 3 trụ cột liên quan đến các yếu tố thuộc chủ quan của
ngân hàng (xây dựng môi trường quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay; thực
hành quy trình cấp cho vay lành mạnh, duy trì hoạt động theo dõi, đo lường rủi ro)
và một trụ cột liên quan đến vai trò của cơ quan giám sát và/hoặc cơ quan kiểm
toán bên ngoài.
1.2.4.1. Môi trường quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
Môi trường được hiểu là quan điểm, văn hoá, chiến luợc cũng như nguyên tắc ứng
xử về rủi ro trong hoạt động cho vay mà một ngân hàng xây dựng và áp dụng
trong toàn hệ thống của mình. Các yếu tố này tạo một môi trường để mọi bộ phận,
19
cán bộ ngân hàng triển khai hoạt động quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay một
cách cụ thể. Một môi trường được coi là hợp lý khi đảm bảo được các yếu tố sau:
 Xây dựng được chiến lược rõ ràng về rủi ro trong hoạt động cho vay và
chiến lược này được đánh giá lại một cách thường xuyên, ít nhất là 1 năm 1
lần.
 Xác định và phân định rõ trách nhiệm, trong đó Hội đồng Quản trị nhận thức
được rõ trách nhiệm cuối cùng và vai trò phê duyệt chiến lược, chính sách
rủi ro trong hoạt động cho vay, Ban điều hành/quản lý chịu trách nhiệm triển
khai.
1.2.4.2. Chính sách cho vay và quy trình:
Đây là việc thiết lập các giới hạn, tiêu thức, điều kiện rõ ràng và việc tuân thủ chặt
chẽ các giới hạn, tiêu thức đó trong cấp cho vay. Một ngân hàng được coi là hoạt

động trong quy trình lành mạnh khi xây dựng các yếu tố:
 Thiết lập các tiêu chí cụ thể cho cấp cho vay, từ việc cấp cho vay lần đầu
đến việc gia hạn nợ, mở rộng nhằm đảm bảo mọi khoản cho vay đều được
giám sát, quản lý chặt chẽ, đặc biệt là đối với khách hàng có quan hệ với
ngân hàng.
 Xây dựng các giới hạn rủi ro cho từng khách hàng, nhóm khách hàng liên
quan, cả đối với các giao dịch nội bảng cũng như ngoại bảng; giới hạn theo
cấp thẩm quyền.
1.2.4.3. Kiểm soát, theo dõi đo lường
Đây là các biện pháp giám sát, quản lý cho vay. Cần đạt được các yếu tố:
 Có hệ thống thông tin, dữ liệu cho phép theo dõi thường xuyên, chính xác và
đầy đủ mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay, cả nội bảng và ngoại bảng;
cập nhật thông tin về xu hướng thị trường, phát triển kinh tế.
 Xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng rủi ro nội bộ.
 Có hệ thống kiểm soát nội bộ để giám sát quá trình quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay.
20
 Có kế hoạch hành động trong các trường hợp khẩn cấp, nghiêm trọng về rủi
ro trong hoạt động cho vay.
Vai trò của cơ quan giám sát/kiểm toán bên ngoài. Ba trụ cột trên là rất quan trọng
và là điều kiện tiên quyết, song chưa đủ để đảm bảo cho ngân hàng có được một
cơ chế quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay hiệu quả. Cơ quan giám sát/kiểm
toán bên ngoài đóng vai trò khách quan đánh giá và buộc các ngân hàng phải thiết
lập được các trụ cột này. Để đảm bảo hiệu quả, cơ quan giám sát/kiểm toán bên
ngoài cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
 Đặt ra các yêu cầu buộc các ngân hàng phải xây dựng và áp dụng một hệ
thống quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay hiệu quả; các cơ quan này
cũng phải có bộ phận đánh giá định kỳ hoạt động của hệ thống này.
 Thiết lập các giới hạn rủi ro đối với một khách hàng, nhóm khách hàng cho
các Ngân hàng; cũng như các báo cáo bắt buộc để theo dõi tình hình.

21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT
NAM
2.1. Tổng quan hoạt động cho vay tại Techcombank
2.1.1.Giới thiệu về Techcombank:
Techcombank được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước
đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng. Trụ sở
chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Năm 1998
trụ sở chính được chuyển sang Toà nhà Techcombank 15 Đào Duy Từ, Hà Nội và
năm 2008, trụ sở chính đặt tại 72 Bà Triệu, Hà Nội.
Sứ mệnh:Techcombank là ngân hàng thương mại đô thị đa năng ở Việt nam, cung
cấp sản phẩm dịch vụ tài chính đồng bộ, đa dạng và có tính cạnh tranh cao cho dân
cư và doanh nghiệp nhằm các mục đích thoả mãn khách hàng, tạo giá trị gia tăng cho
cổ đông, lợi ích và phát triển cho nhân viên và đóng góp vào sự phát triển của cộng
đồng.
Tầm nhìn 2010:Techcombank phấn đấu thuộc nhóm ngân hàng đô thị hàng đầu về
độ tin cậy, chất lượng và hiệu quả.
Các cột mốc lịch sử:
1995 - Tăng vốn điều lệ lên 51,495 tỷ đồng.
1999 - Tăng vốn điều lệ lên 80,020 tỷ đồng.
2002 - Tăng vốn điều lệ lên 104,435 tỷ đồng.
2003 - Tăng vốn điều lệ lên 180 tỷ đồng.
2004 - Tăng vốn điều lệ lên 412 tỷ đồng.
2006 - Tăng vốn điều lệ lên 1.500 tỷ đồng.
22
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu tài chính cơ bản của Techcombank

Đơn vị: Tỷ VND
STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007
1 Tổng doanh thu 905 1.398 2.653
2 Tổng tài sản 10.666 17.326 39.542
3 Vốn điều lệ 617 1.500 2.521
4 Vốn tự có 1.009 1.761 3.573
5 Lợi nhuận trước thuế 286 356 709
6 ROA (%) 2,6 1,89 1,99
7 ROE (%) 45,19 26,76 22,98
(Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank 2005,2006,2007)
2.1.2.Hoạt động cho vay tại Techcombank
Bảng 2.2: Chi tiết dư nợ của Techcombank giai đoạn 2005-2007
Đơn vị: Tỷ VND
STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007
1 Tổng dư nợ 5,383 8,813 18,700
2 Tổng tài sản 10,666 17,326 39,542
3 Dư nợ tín dụng cá nhân 1,561 2,820 7,480
4 Dư nợ tín dụng doanh nghiệp 3,822 5,993 11,220
(Nguồn: Báo cáo thường niên Techcombank 2005,2006,2007)
a. Hoạt động cho vay của Techcombank năm 2005:
Năm 2005, hoạt động cho vay đạt mức tăng trưởng khá. Tổng dư nợ cho vay đạt
5.383 tỷ đồng tăng 55% so với năm 2004. Tỷ lệ nợ loại 3-5 chiếm khoảng 3,53%
tổng dư nợ, chất lượng cho vay của Techcombank được duy trì và kiểm soát chặt
chẽ, lượng dự phòng rủi ro cho vay cũng được kiểm soát thường xuyên đảm bảo
an toàn cho hoạt động của Ngân hàng. Năm 2005, tổng dư nợ cho vay từ khu vực
23
khách hàng cá nhân đạt 1.561 tỷ đồng tăng 66% so với năm 2004 và chiếm 29%
trên tổng dư nợ. Để có thể tăng nhanh dư nợ bán lẻ Techcombank đã nghiên cứu
cải tiến quy trình cho vay các gói sản phẩm hiện có như Nhà mới, Ô tô xịn… đồng
thời phát triển thêm các sản phẩm cho vay cá nhân mới. Dư nợ cho vay tại khu vực

khách hàng doanh nghiệp tăng 51% (3.819 tỷ đồng năm 2005 so với 2.525 tỷ đồng
năm 2004). Đối tượng cho vay chủ yếu vẫn tập trung tại khối doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) chiếm 59% tổng dư nợ. Năm 2005 cũng ghi nhận những nỗ lực đáng
kể của Techcombank trong việc cải tiến các quy trình cấp cho vay cho các khách
hàng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu các ngành kinh tế cũng được
tiến hành thường xuyên theo định kỳ nhằm phát hiện và tận dụng xu hướng tăng
trưởng và các ngành nghề tiềm năng, phục vụ hoạt động hiệu quả của Ngân hàng.
b. Hoạt động cho vay của Techcombank năm 2006:
Năm 2006, hoạt động cho vay vẫn theo đà tăng trưởng tốt. Tổng dư nợ cho vay đạt
8.813 tỷ đồng bằng 163% so với năm 2005. Tỷ lệ nợ loại 3-5 là 3,11% giảm
0,42% so với năm 2005. Các biện pháp quản trị RRTCV đang dần được hoàn
thiện, tỷ lệ trích dự phòng rủi ro được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định trong
nghị định 493/NĐ- CP về trích lập dự phòng rủi ro. Năm 2006, dư nợ cho vay bán
lẻ của Ngân hàng tiếp tục có sự tăng trưởng đáng kể. Tổng dư nợ cho vay đối với
khách hàng dân cư đạt 2.817 tỷ đồng, tăng 80,5% so với năm 2005. Các sản phẩm
bán lẻ có dư nợ lớn là Nhà mới 37,9% tổng dư nợ kinh doanh bán lẻ, Ô tô xịn, Cho
vay hộ kinh doanh cá thể và các hình thức cho vay tiêu dùng khác. Các sản phẩm
này đều được phát triển trên một nên công nghệ hiện đại, phù hợp với phong cách
sống năng động và hiện đại của khách hàng. Sự ra mắt của 02 sản phẩm cho vay
thấu chi tài khoản F@st Advanced F1 và F@st Advanced F2 cho phép chủ tài
khoản có thể chi vượt quá số dư một khoản tiền nhất định trong thời gian tối đa là
12 tháng đã đáp ứng được nhu cầu của rất nhiều khách hàng cá nhân cần sử dụng
vốn trong một khoảng thời gian ngắn để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong chi tiêu.
Hệ thống tính lãi vay tự động và báo số dư tài khoản sau mỗi giao dịch được thực
hiện trên điện thoại cho phép khách hàng tự động kiểm tra và điều chỉnh mức trả
24
nợ hợp lý của mình. Cũng trong năm 2006, lần đầu tiên Techcombank liên kết với
Bảo Việt nhân thọ cho ra đời sản phẩm bảo hiểm cho vay Bancassurance cho
những khoản vay theo gói sản phẩm Nhà mới và Ô tô xịn. Sản phẩm này bảo vệ
quyền lợi của cả khách hàng và Ngân hàng đem đến sự an tâm cho các khách hàng

đến vay vốn tại Techcombank. Năm 2006, số lượng khách hàng là tổ chức kinh tế
tăng 31,6% - từ 1.575 khách hàng trong năm 2006 lên 2.073 năm 2006 khách
hàng, trong đó khách hàng vừa và nhỏ (SME) vẫn tiếp tục là nhóm khách hàng
quan trọng. Tổng số dư nợ hàng doanh nghiệp năm 2006 đạt 5.993 tỷ đồng tăng
57% so với năm 2005 và chiếm 68% tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng. Trong
năm 2006 Techcombank triển khai nhiều sản phẩm mới phục vụ phân nhóm khách
hàng doanh nghiệp như Sản phẩm kho vận trọn gói trên cơ sở liên kết với các
công ty kho vận Vinafco, Vinalink, Germandept…và các sản phẩm thanh toán
quốc tế của các khách hàng doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức cho vay doanh nghiệp
chuyển đổi theo hướng hỗ trợ hoạt động bán, tiến hành thẩm định tập trung tại Hội
sở với bộ phận cho vay của chi nhánh hoạt động dưới sự điều hành của khối khách
hàng doanh nghiệp.
c. Hoạt động cho vay của Techcombank năm 2007:
Năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc trong hoạt động cho vay của
Techcombank. Tổng dư nợ đạt 18.703 tỷ đồng tăng 11.148 tỷ đồng so với năm
2006. Tỷ lệ nợ loại 3-5 giảm từ 3,11% xuống còn 1,38% trong năm 2007. Với hệ
thống công nghệ hiện tại của Techcombank việc phân loại tuổi nợ được tự động
hóa hoàn toàn. Một số khoản nợ quá hạn lâu năm vẫn để trong báo cáo nhằm tăng
cường ý thức trách nhiệm của các cán bộ trong việc thu hồi những khoản nợ này
cũng như kiểm soát tốt hơn tỷ lệ thu hồi nợ xấu. Năm 2007 dư nợ cho vay bán lẻ
đạt 7.480 tỷ đồng, chiếm 40% tổng dư nợ cho vay trong đó dư nợ cho vay mua nhà
đạt 4.199 tỷ đồng tăng 400% so với năm 2006 và dư nợ cho vay tiêu dùng tín chấp
đạt 1.506 tỷ đồng, tăng 111% so với năm 2006. Tháng 9/2007, Techcombank đã
xây dựng thành công mô hình quản lý tập trung khối dịch vụ tài chính và ngân
hàng cá nhân cùng với sự tư vấn và điều hành của các chuyên gia Ngân hàng
HSBC. Mô hình hướng các phòng giao dịch vào việc tập trung tối đa bán hàng và
25

×