Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra trong bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.26 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MAI XUÂN
KHÓA: 42
MSSV: 1753801011238
GVHD: ThS. LÊ HÀ HUY PHÁT

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MAI XUÂN
KHÓA: 42
MSSV: 1753801011238
GVHD: ThS. LÊ HÀ HUY PHÁT


TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Hà Huy Phát, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
(Ký tên)
Nguyễn Thị Mai Xuân


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BTTH

Bồi thường thiệt hại

BLHS

Bộ luật Hình sự


BLLĐ

Bộ luật Lao động


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA ...........6
1.1

Khái niệm, bản chất..................................................................................... 6

1.1.1

Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ................6

1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân
gây ra ...............................................................................................................18
1.1.3 Các trường hợp không phải bồi thường thiệt ngoại do người của pháp
nhân gây ra .........................................................................................................23
1.2 Đặc điểm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do ngƣời của pháp nhân
gây ra..................................................................................................................... 28
1.2.1

Do con người gây ra, cụ thể là người của pháp nhân ..........................28

1.2.2


Căn cứ phát sinh ...................................................................................28

1.3

Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại ............................................................... 36

1.3.1

Bồi thường toàn bộ và kịp thời .............................................................36

1.3.2 Cho phép giảm mức bồi thường nếu khơng có lỗi hoặc lỗi vô ý và thiệt
hại lớn hơn so với khả năng kinh tế của mình ...................................................38
1.3.3

Thay đổi mức bồi thường khi khơng cịn phù hợp ................................39

1.3.4 Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra ....................................................39
1.3.5 Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại
xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại cho chính mình .....................................................................................41
1.4

Chủ thể có trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại .......................................... 42

Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................45
CHƢƠNG 2: NHỮNG BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA TRONG
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .......46
2.1


Xác định “ngƣời của pháp nhân” ........................................................... 46


2.2 Chủ thể bồi thƣờng khi ngƣời pháp nhân A nhƣng lại đang cho pháp
nhân B mƣợn làm việc cho pháp nhân B........................................................... 50
2.3

Giảm mức hoàn trả cho ngƣời của pháp nhân ....................................... 54

Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................61


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân
sự. Đây là một chế định lớn và tồn tại lâu đời. Chế định này ra đời nhằm mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của các cá nhân, tổ chức; đảm bảo
ổn định trật tự xã hội.
Hiện nay, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ
thể, chi tiết trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 và ngày càng hồn thiện. Theo
đó, chế định này gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con người gây ra và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Những loại trách nhiệm này rất phổ
biến trong cuộc sống. Việc phân tích, khai thác chi tiết chế định này sẽ góp phần chi
tiết hóa các quy định của pháp luật cũng như tìm ra những lỗ hổng của pháp luật

đang hiện hữu khi áp dụng vào thực tiễn.
Chính vì sự phổ biến và phức tạp của nó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được quy định khá cụ thể trong BLDS năm 2015. Những quy định
này giúp người dân có thể tiếp cận và hiểu rõ tình huống mình đang gặp phải trên
thực tế cũng như cách giải quyết, bồi thường như thế nào. Tuy nhiên không phải
quy định pháp luật nào cũng giải quyết triệt để các vấn đề mà quan hệ xã hội đang
phát sinh, thậm chí có những quy định pháp luật khơng rõ ràng, quy định nước đơi
hoặc khơng dự trù hết tình huống xảy ra khiến cơ quan hành pháp bế tắc trong việc
thực thi. Điều này xảy ra hầu hết trong tất cả các bộ luật, các văn bản quy phạm
pháp luật đi kèm và cũng không ngoại trừ Bộ luật Dân sự năm 2015. Một trong
những chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một chế định rất rộng và phổ biến trong cuộc
sống. Chính vì vậy, thơng qua việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu về các vấn đề liên
quan, sẽ góp phần hồn thiện pháp luật; giúp cho các văn bản pháp luật hoàn thành
đúng nhiệm vụ của nó “điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh”.
Việc nghiên cứu và đưa ra những kiến nghị về việc khắc phục một phần bất
cập còn mang lại ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Ngoài việc hoàn thiện pháp luật
như trình bày ở trên, nó cịn tạo ra sự đa chiều trong quan điểm và những góc nhìn
mới, là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp, công ty được thành
lập ngày càng nhiều với mơ hình sản xuất, kinh doanh đa dạng và phong phú. Theo
đó, những vấn đề phát sinh trong quá trình vận hành ngày càng phức tạp. Một trong
những vấn đề hiện nay không những làm cho các nhà làm luật mà cả những người
đứng đầu doanh nghiệp phải suy nghĩ phương án giải quyết đó chính là chế định
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”. Ngoài việc xác
định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có tình huống pháp lý xảy ra,
1


mức bồi thường,… ảnh hưởng lớn đến người gây thiệt hại cũng như pháp nhân quản

lý của người đó. Hiện nay, BLDS năm 2015 có quy định về chế định nêu trên. Tuy
nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật cho thấy có nhiều điểm
bất cập dẫn đến sự lúng túng, không thống nhất giữa các Tịa án cũng như các cấp
xét xử. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người của pháp nhân gây ra” làm đề tài khóa luận cho mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra là vấn đề đã
được nhiều tác giả nghiên cứu, thể hiện thông qua các bài viết đăng trên các tạp chí,
sách chun khảo, khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ, có thể kể đến như sau:
2.1

Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo

Giáo trình “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
của Trường Đại học luật TPHCM. Trong giáo trình này, nêu chi tiết và rõ ràng hai
chế định lớn “Hợp đồng” và “Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng”. Theo đó, giáo
trình cũng đề cập một trong những chế định nhỏ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đồng của pháp nhân gây ra” tại Điều 597 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, tài liệu dừng
lại ở việc phân tích các quy định pháp luật hiện hành, chưa phân tích rõ ràng và cụ
thể cũng như mở rộng vấn đề trong chế định này.
Sách chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
Bộ luật dân sự (năm 2015) và những tình huống thực tế” của tác giả Trương Hồng
Quang. Sách chuyên khảo “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của
tác giả Phùng Trung Tập. Hai tác giả phân tích chi tiết vào các căn cứ pháp sinh,
đặc điểm, các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như các chế
định nhỏ (bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, bồi thường thiệt hại do con người
gây ra,…) và các tình huống thực tế. Tác giả đi vào phân tích các quy định pháp

luật hiện hành, có sự so sánh với BLDS năm 2005 và các tình huống xảy ra, có sự
bình luận, đưa ra những bất cập. Tuy nhiên, do phần phạm vi phân tích rất rộng
(toàn bộ chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) nên hai tác giả vẫn chưa
khai thác triệt để các khía cạnh liên quan đến “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người của pháp nhân gây ra”.
Sách chuyên khảo “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam –
Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại – tài liệu phân tích sâu và kĩ
các vấn đề liên quan đến chế định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của
pháp nhân gây ra. Tác giả phân tích các quy định pháp luật, bình luận các bản án và
có sự so sánh với pháp luật nước ngồi. Theo đó, cuốn sách nêu rõ các bất cập trên
thực tế và hướng hồn thiện cụ thể.
2.2
Nhóm các khóa luận, luận văn

2


Hiện nay, có khá nhiều khóa luận, luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng”. Hầu hết các khóa luận,
luận văn xoay quanh một trong những khía cạnh nhỏ của chế định như khóa luận tốt
nghiệp “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - lý luận, thực trạng
và kiến nghị hoàn thiện pháp luật” của tác giả Phạm Thị Thu Thùy; luận văn thạc sỹ
học “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của bộ luật
dân sự năm 2005” của tác giả Lê Hà Huy Phát,… Tuy nhiên, đây là những chế định
nhỏ thuộc chế định “Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng” chứ chưa phân tích các
vấn đề liên quan đến “Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra”.
2.3

Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí


Bài viết “Lỗi căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác
giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 02(57)/2010.
Bài viết “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành
công vụ gây ra theo quy định của pháp luật dân sự” của tác giả Đồn Thị Ngọc Hải
(2019) đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân
tối cao.
Bài viết “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng” của tác Ngơ Thu Trang (2019) đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện
tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao.
Có thể thấy hiện nay các sách chuyên khảo, cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu
phân tích trên cơ sở lý luận mà chưa đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn, một số vấn đề
còn bỏ ngỏ, chưa có kết luận cụ thể. Hơn nữa, khi bối cảnh kinh tế-xã hội trong
nước và thế giới có nhiều thay đổi thì vấn đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người của pháp nhân gây ra” cần được nhìn nhận, phân tích và đánh giá ở những
góc độ khía cạnh phù hợp hơn. Vậy nên, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài này là cần
thiết.
3.

Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu sâu hơn về chế định, đồng thời đưa ra những bất cập và kiến nghị
hoàn thiện
3.1. Làm rõ được khái niệm, bản chất của bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra
nói riêng. Theo đó, bài nghiên cứu sẽ chia tách các khái niệm, chế định liên quan để
làm rõ vấn đề từ khái quát đến cụ thể.
3.2. Phân tích, nghiên cứu về đặc điểm, căn cứ phát sinh, hậu quả… trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo quy định BLDS năm
2015.


3


3.3. Đưa ra các bất cập khi áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn
cuộc sống. Căn cứ vào thực tiễn áp dụng, những quyết định, bản án đã có, những
quan điểm, lý luận chung,… bài nghiên cứu tìm ra những điểm hạn chế đang tồn tại
cũng như dự trù những tình huống có thể xảy ra để hoàn thiện những quy định của
pháp luật.
3.4. Đưa ra giải pháp hồn thiện quy định pháp luật: Thơng qua việc chỉ ra
những bất cập, bài nghiên cứu sẽ nêu ra những định hướng, những giải pháp để
khắc phục và hoàn thiện pháp luật.
4.
Đối tƣợng nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo quy
định của BLDS năm 2015 là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu các vấn đề xoay quanh Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, cụ thể khái niệm, căn cứ
phát sinh, chủ thể có trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc bồi thường, các trường
hợp không phải bồi thường, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật, những bất cập
trên thực tế, nguyên nhân dẫn tới các bất cập và kiến nghị giải pháp hoàn thiện quy
định pháp luật.
5.

Phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu
sau:
5.1
Các quy định của BLDS năm 2015 về trách nhiệm trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người của pháp nhân gây ra nói riêng.
5.2 Thực tiễn áp dụng và bất cập xảy ra trên thực tế.
5.3
Kiến nghị hoàn thiện những quy định của BLDS năm 2015 liên quan
đến chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra.
6.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra
những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật, bài nghiên cứu đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
6.1
Phương pháp liệt kê: Phương pháp này sử dụng tại chương 1. Bằng
việc chia tách, liệt kê các khái niệm, thuật ngữ pháp lý để đi sâu hơn vào các chế
định pháp luật đang nghiên cứu.
6.2
Phương pháp so sánh: Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên
cứu so sánh trong quá trình đưa ra các quan điểm khác nhau về một khái niệm, thuật
ngữ pháp lý của các tác giá. Bằng việc so sánh giữa các quan điểm đó, tác giả rút ra,
đúc kết một khái niệm chung nhất, đầy đủ nhất. Ngoài ra, tác giả còn so sánh những
4


quy định của pháp luật Việt Nam về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người của pháp nhân gây ra với các quy định của pháp luật nước ngồi. Theo đó, tác
giả phân tích được nét tương đồng và khác biệt; xem xét những bất cập của pháp
luật Việt Nam thơng qua sự so sánh. Từ đó học hỏi kinh nghiệm và đưa ra hướng
hoàn thiện phù hợp với pháp luật hiện hành. Tác giả so sánh BLDS 2005 và BLDS
2015 xem xét các điểm mới cũng như ưu và nhược điểm của từng BLDS ở từng giai
đoạn khác nhau. Hiểu được tinh thần và sự thay đổi của pháp luật cũng như hoàn

cảnh kinh tế xã hội của đất nước. Từ đó, tác giả đề xuất hướng hồn thiện phù hợp.
6.3
Phương pháp bình luận, phân tích: Đây là phương pháp quan trọng và
tác giả sử dụng hầu hết trong bài nghiên cứu. Sử dụng việc bình luận, phân tích các
khái niệm, các quy định của pháp luật nhằm làm rõ, chi tiết hóa chế định đang
nghiên cứu. Hơn nữa việc phân tích và bình luận các bản án trên thực tế sẽ góp phần
giúp tác giả có thể hiểu kĩ, hiểu sâu hơn cũng như thấy được những bất cập của quy
định pháp luật đang hiện hữu. Bình luận, phân tích các quan điểm của các tác giả
khác và pháp luật nước ngoài, làm tài liệu tham khảo cho các đề xuất, hoàn thiện
quy định pháp luật.
6.4
Phương pháp tổng hợp: sau khi tiến hành phân tích, bình luận, chia
nhỏ vấn đề bài nghiên cứu sẽ tiến hành tổng hợp của mỗi tiểu mục để tiện theo dõi
và khái quát hóa vấn đề. Từ cơ sở tổng hợp ý và đưa ra những kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện pháp luật.
7.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng trên thực tế
7.1
Việc nghiên cứu đưa ra cái nhìn tồn diện, đa chiều và sâu sắc về bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người của pháp nhân gây ra. Ngoài việc làm rõ, phân tích các khái niệm, quy định
của pháp luật còn đưa ra những dẫn chứng thực tế cuộc sống cũng như các kiến
nghị hoàn thiện.
7.2
Cung cấp tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, giảng dạy và
nghiên cứu. Từ việc đưa ra góc nhìn, quan điểm cá nhân sẽ làm đa dạng hóa hệ
thống quan điểm, là hướng gợi ý cho các bài nghiên cứu sau phát triển hơn.
7.3
Đưa ra các kiến nghị, giải pháp, hướng hoàn thiện BLDS 2015, điều
chỉnh phù hợp, áp dụng hiệu quả trên thực tế.

8.
Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm
2 chương:
Chương 1: Những vấn đề khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra
Chương 2: Những bất cập về của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra trong Bộ luật dân sự 2015 và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA
1.1

Khái niệm, bản chất

1.1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Về phương diện lý luận pháp luật, thuật ngữ “trách nhiệm” được hiểu là phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi1. Trong thực tiễn, chúng ta chỉ nhắc đến từ “trách
nhiệm” khi ta có nghĩa vụ, bắt buộc phải thực hiện một điều gì đó và gánh chịu
những hậu quả phía sau hành vi, lời nói của mình hoặc của người khác. Cơng việc
đó có thể là lời hứa, là thỏa thuận lời nói và lớn hơn là bằng hình thức bằng văn
bản. Và phần “trách nhiệm” có thể có hoặc khơng được quy ước. Tùy thuộc vào
tình huống, điều kiện cụ thể cũng như những quy định của pháp luật mà giới hạn
trách nhiệm cũng như chủ thể gánh chịu có sự khác nhau.
“Trách nhiệm” có thể được hiểu “sự nghiêm khắc với bản thân” đối với thỏa

thuận hay thậm chí khơng có thỏa thuận nhưng nó phát sinh từ lời nói, hành vi của
mình. Khi làm bất cứ việc gì, cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng về mọi thứ và dự trù cả
hậu quả có thể xảy ra dù muốn dù không; dù bất lợi đến đâu.
Chúng ta bắt gặp thuật ngữ “trách nhiệm” rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực
pháp lý. Và cách hiểu của thuật ngữ này chưa được thống nhất trên thực tế. Tùy
thuộc vào hồn cảnh, tình huống khác nhau mà cách hiểu của “trách nhiệm” không
giống nhau. “Nghĩa thứ nhất được hiểu là nghĩa vụ và nghĩa thứ hai là hậu quả bất
lợi (sự trừng phạt). Trách nhiệm được hiểu theo nghĩa nghĩa vụ là nói đến những
điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và trong tương lai”2. Mặc dù vậy
nhưng cách hiểu phổ biến nhất hiện nay thì “trách nhiệm là nguy cơ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi vì những việc đã làm. Đó là những phản ứng của Nhà nước
đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho xã hội”3.
Khi trách nhiệm được hiểu dưới góc độ pháp lý sẽ mang tên gọi là trách
nhiệm pháp lý. Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật chỉ ra rằng, trách nhiệm
pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy
định vì hành vi vi phạm pháp luật của mình (hoặc của người mà mình bảo lãnh hoặc
giám hộ). Khác với các loại hình trách nhiệm khác, trách nhiệm pháp lý ln gắn
liền với sự cưỡng chế nhà nước, với việc áp dụng chế tài do pháp luật quy định.
1

Trường Đại học Luật TPHCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.374.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB. Công an nhân dân,
Hà Nội, tr.473.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (2), tr.473.

6



Dựa trên cách phân loại phổ biến hiện nay, trách nhiệm pháp lý bao gồm các
loại sau: một là trách nhiệm hình sự: loại trách nhiệm nghiêm khắc nhất do toà án
áp dụng đối với người phạm tội; hai là trách nhiệm dân sự: loại trách nhiệm pháp lý
do toà án áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự; ba
là trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà
nước áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật hành chính; bốn là trách nhiệm
pháp lý kỉ luật là loại trách nhiệm do thủ trưởng cơ quan, tổ chức áp dụng đối với
cán bộ, công chức, viên chức, công nhân của cơ quan, tổ chức mình khi họ vi phạm
kỉ luật lao động.
Theo đó, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm nghĩa
vụ dân sự phải gánh chịu. Trong bất kì một thời điểm ở bất kì xã hội nào thì việc
xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, gây thiệt hại cho các chủ thể khác là rất phổ biến và
ngày càng có nhiều tình tiết phức tạp và cách để đưa lại sự cơng bằng đó chính là áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Đó là trách nhiệm và là hậu quả pháp lý mà người
thực hiện hành vi gây thiệt hại phải chịu. Một hành vi có thể phải gánh chịu nhiều
loại trách nhiệm pháp lý khác nhau, tùy thuộc vào mức độ, tính chất, mối quan hệ
xã hội bị xâm phạm.
Ví dụ: A cố ý gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 20%. Như vậy,
ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 134 BLHS năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017; thì A cịn phải chịu trách nhiệm dân sự, cụ thể là trách
nhiệm bồi thường thiệt do hành vi của mình gây ra.
Ta có thể thấy được, pháp luật sẽ là khuôn mẫu cho việc áp dụng “trách
nhiệm” khi loại trách nhiệm đó là “trách nhiệm pháp lý”. Và đối với giới hạn nghiên
cứu, là trách nhiệm bồi thương thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân
sự. Sẽ phát sinh khi có quan hệ xã hội xâm phạm tới các quy định của ngành luật
dân sự.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc
bên có hành vỉ gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn
thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.

Có thể thấy trách nhiệm là mang tính “đương nhiên”. Người gây thiệt hại
phải bồi thường. Cuộc sống thường nhật đang diễn ra nhưng có ai đó bước vào làm
xáo trộn sự bình thường đó, gây thiệt hại vật chất lẫn tinh thần thì phải có trách
nhiệm bồi thường và đưa chúng về sự vẹn nguyên ban đầu. Tất nhiên, luật pháp
khơng q tuyệt đối hóa giá trị bồi thường. Vì có những thứ bị thiệt hại, chủ thể gây
ra có thể bồi thường nguyên vẹn. Nhưng có những thứ lại khơng thể để nó vẹn
ngun và trả lại như cũ.
Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
7


được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”4 và
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm”5.
Theo đó, cơng dân được bảo hộ về sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm,... Bất kì chủ thể nào xâm phạm đến những giá trị được pháp luật bảo vệ thì
phải gánh chịu hậu quả tương ứng theo quy định của pháp luật, đây là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo nghĩa khách quan là một
chế định của Luật Dân sự. Trong chế định BTTH cịn có hai tiểu chế định là BTTH
do vi phạm hợp đồng và BTTH ngoài hợp đồng. Bản chất của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại suy cho cùng cũng để bù đắp lại những thiệt hại đã xảy ra cho bên
bị thiệt hại chứ không hẳn là một chế tài đơn thuần6.
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Minh Oanh – giảng viên khoa pháp luật
Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của
mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra”7.
Mỗi cá nhân sống trong xã hội đều phải tôn trọng các quy tắc xử sự chung

của xã hội, khơng thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong xã hội, lợi ích của Nhà nước, Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định trách
nhiệm BTTH với tư cách là một chế định độc lập nhằm khơi phục lợi ích bị xâm
phạm và bù đắp những thiệt hại xảy ra cho người bị thiệt hại. Căn cứ vào nguồn gốc
phát sinh, trách nhiệm BTTH thường được phân thành trách nhiệm BTTH theo hợp
đồng và trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng. Như vậy, có thể nói, trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng là một dạng phổ biến của trách nhiệm BTTH.
Đối với BTTH ngoài hợp đồng, hiện nay BLDS năm 2015 không đưa ra khái
niệm cụ thể và thống nhất về vấn đề này.
Theo tác giả Đỗ Chinh: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm

4

Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp 2013
Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp 2013
6
Lê Hà Huy Phát (2015), Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của bộ luật dân sự 2005, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật Dân sự – Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.26.
7
Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ
gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân
dân tối cao.
5

8


nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp

pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”8.
Quan điểm khác lại cho rằng: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe, thân thể, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ
thể khác. Trong đó, bên vi phạm và gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp tồn bộ thiệt
hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu”9.
Khác với trách nhiệm BTTH theo hợp đồng có căn cứ phát sinh trên cơ sở
một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
trách nhiệm dân sự mà khi người nào đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ ngoài hợp
đồng do pháp luật quy định, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác thì phải BTTH do mình gây ra.10
Đối với mức bồi thường hay trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên
trong hợp đồng đã được ấn định từ trước. Theo đó, nếu các bên vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng thì bên vi phạm phải tuân thủ mức bồi thường đã thỏa thuận. Mặc dù,
BLDS năm 2015 tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên nhưng sự thỏa thuận này phải
tôn trọng các nguyên tắc cơ bản BLDS năm 2015 và các quy định của pháp luật
chuyên ngành khác11.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác nhau cơ bản ở “hợp đồng”. Một
bên có hợp đồng và một bên khơng. Cuộc sống rất đa dạng, các tình huống xảy ra
chúng ta không thể lường trước được. Đối với những quan hệ pháp luật có hợp đồng
làm kim chỉ nam thì hai bên an tâm trong vấn đề bồi thường, quy kết trách nhiệm.
Tuy nhiên pháp luật đã đặt ra một giả định khác, đó là một bên xâm phạm đến lợi
8

Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng do người thi hành cơng vụ
gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tịa án nhân
dân tối cao.
9
Đồn Thị Ngọc Hải (2019), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người thi hành công vụ
gây ra theo quy định của pháp luật dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân

dân tối cao.
10
Phạm Thị Hương (2014), Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe theo pháp luật Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.13.
11
Xem Điều 3 BLDS năm 2015
“Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp
luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện
chí, trung thực.
4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự khơng được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân
tộc, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
dân sự”.

9


ích của đối phương nhưng giữa hai bên không tồn tại hợp đồng hoặc có quan hệ hợp
đồng nhưng hai bên chưa dự liệu tình huống xảy ra. Điều đó sẽ gây khó khăn trong
việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức bồi thường vì giữa các bên
khơng có hợp đồng để định hướng, quy định vấn đề đó. Để nhanh chóng xử lý
những tình huống trên, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời. Nó đã
giải quyết khơng ít những trường hợp nêu trên. Theo đó, nhà nước là chủ thể đưa ra
nguyên tắc bồi thường thiệt hại, quy kết trách nhiệm cho chủ thể cụ thể,… tất cả
mọi khía cạnh liên quan đến chế định ngoài hợp đồng.

Đối với những quan hệ BTTH ngồi hợp đồng thì việc xác định trách nhiệm
sẽ khá phức tạp. Theo đó, khi trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng phát sinh, cơ quan
nhà nước phải tiến hành nhiều bước kiểm tra, thẩm định để đưa ra mức bồi thường
thiệt hại tương ứng với thiệt hại xảy ra trên thực tế và làm sao cho mức bồi thường
hợp tình, hợp lý, khách quan, cơng bằng với cả hai bên.
Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể bất kì mà trước đó khơng có
quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không
xuất phát từ thực hiện hợp đồng12.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng gồm các loại trách nhiệm
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra;
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra; trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra,…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tồn tại một số đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, sau khi bên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại thực hiện xong
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thì đương nhiên chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa hai
bên và không phụ thuộc vào sự thỏa thuận.
Vốn dĩ, khi áp dụng chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều đó có
thể hiểu là giữa các bên khơng tồn tại hợp đồng hoặc hợp đồng không thể điều
chỉnh trường hợp đang xảy ra trên thực tế nên phải áp dụng các quy định của pháp
luật. Mục đích cuối cùng mà trong quan hệ bồi thường thiệt hại là người gây thiệt
hại phải chịu trách nhiệm và người bị thiệt hại nhận được mức bồi thường “xứng
đáng” so với thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Một khi các bên đã khơng có hợp đồng để ấn định việc bồi thường theo đúng
thỏa thuận hoặc không thể sử dụng hợp đồng làm kim chỉ nam giải quyết vấn đề thì
bắt buộc phải tuân thủ các chế định của pháp luật. Có thể nói, quan hệ pháp luật dân
sự là quan hệ pháp luật đề cao tính tự do thỏa thuận giữa các bên nhất – đó cũng là
12


Trường Đại học Luật TPHCM, tlđd (1), tr.374 – tr.375.

10


một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định cụ thể, rõ ràng tại BLDS năm
2015. Tuy nhiên, sự thỏa thuận tự do đó chỉ được pháp luật cơng nhận khi không đi
ngược với chuẩn mực xã hội, đạo đức, không mâu thuẫn với các quy định pháp
luật… hay cịn gọi là “tự do trong khn khổ” pháp luật. Chính vì vậy, khi hai bên
thỏa thuận hợp pháp các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì
pháp luật hồn tồn cho phép họ thi hành, áp dụng. Trường hợp thỏa thuận đó trái
với quy định pháp luật hoặc khơng thỏa thuận được thì họ mới sử dụng tới quy định
pháp luật. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai bên, thuận tình vừa ý thì họ mới giao
kết. Tại đó, họ thấy được sự cơng bằng về quyền và nghĩa vụ. Và đôi khi những quy
định của pháp luật có thể khơng cho họ điều đấy. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ,
đương nhiên chế tài đã thỏa thuận từ trước sẽ được áp dụng. Đặt trường hợp họ
chưa thỏa thuận hoặc thỏa thuận rồi nhưng khơng hợp pháp thì thỏa thuận đó coi
như khơng thể giải quyết mâu thuẫn hiện tại và bắt buộc sử dụng lại pháp luật. Và
một khi sử dụng các chế định về bồi thường thiệt lại được pháp luật quy định thì
đương nhiên khơng được sử dụng những thỏa thuận trong hợp đồng. Khi pháp luật
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, đã có sự cân nhắc rất
kĩ về tính hợp tình, hợp lý và công bằng cho cả hai bên nếu các bên áp dụng. Nếu
bên vi phạm phải bồi thường hai mức bồi thường: cả trong thỏa thuận và theo quy
định của pháp luật ở cùng một chế tài thì chưa thật sự thỏa đáng.
Chính vì vậy, một khi bên vi phạm đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại thì đương nhiên họ chấm dứt quan hệ nghĩa vụ. Lúc này, bên vi phạm đã
phải hứng chịu hậu quả tương ứng cho hành vi của mình và bên bị thiệt hại cũng đã
được “hoàn trả xứng đáng” do hành vi của đối phương gây ra.
Thứ hai, người gây thiệt hại có thể bồi thường cả thiệt hại về vật chất lẫn tinh
thần xảy ra trên thực tế.

Nếu xét theo cách phân loại phổ biến thì có bốn loại thiệt hại: thiệt hại về thể
chất, thiệt hại vật chất, thiệt hại về tinh thần; thiệt hại tính mạng. Trong đó:
Thiệt hại thể chất là thiệt hại liên quan đến sức khỏe, được đo tính bằng %
thương tật trên cơ thể. Sức khỏe của con người khó có thể xác định bằng một khoản
tiền. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về sức khỏe thực chất có ý nghĩa đền bù một phần
thiệt hại, tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục khó khăn do tai nạn
gây nên và trong có ý nghĩa là một trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân.
Xác định thiệt hại về sức khỏe bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt
hại (tiền thuốc, tiền viện phí và các dịch vụ chữa bệnh, tiền bồi dưỡng, tiền tàu xe đi
viện, tiền thay thế các bộ phận giả nếu có). Nếu do yêu cầu chăm sóc nạn nhân thì
chi phí trực tiếp cho người phải chăm sóc nạn nhân theo yêu cầu của cơ sở chữa
bệnh; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập
thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng
11


mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu
người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm
sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; và
các thiệt hại khác do luật quy định, cụ thể: thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch
giữa thu nhập trước khi xảy ra tai nạn và sau khi điều trị. Những thu nhập này phải
là những thu nhập thường xuyên, hợp pháp thực tế của họ; Tổn thất về tinh thần mà
nạn nhân phải gánh chịu. Đây là khái niệm trừu tượng và khơng thể tính được thành
tiền một cách chính xác. Việc xác định tổn thất tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm
phụ thuộc vào từng cá nhân của người bị thiệt hại (tình trạng gia đình, độ tuổi, nghề
nghiệp, mức độ thiệt hại và tùy thuộc vào bộ phận nào của cơ thể bị thiệt hại,…)13.
Về mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần pháp luật cho phép các bên
tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe

xâm phạm khơng q 50 lần mức tháng lương cơ sở do nhà nước quy định.
Thiệt hại vật chất hay còn gọi thiệt hại tài sản: Điều 589 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định về thiệt hại do tài sản bị xâm hại được bồi thường bao gồm tài
sản:“bị mất, bị huỷ hoại hoặc hư hỏng”, “lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác
tài sản bị mất, bị giảm sút”, “chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục
thiệt hại”.
Như vậy, thiệt hại về tài sản bao gồm thiệt hại trực tiếp nhằm phục hồi tình
trạng tài sản ban đầu của người bị thiệt hại và thiệt hại gián tiếp liên quan đến việc
khai thác và sử dụng tài sản trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi
thường.
Thiệt hại về tài sản có thể tính tốn được thành một số tiền nhất định bao
gồm các khoản sau14:
Thiệt hại trực tiếp bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị mất (có tính đến tình trạng
tài sản, thời giá thị trường tại thời điểm tài sản bị mất); Tài sản bị huỷ hoại là những
tài sản không thể phục hồi chức năng ban đầu; tài sản bị hư hỏng là những chi phí
hợp lý, cần thiết để phục hồi tài sản, bảo đảm tính năng sử dụng ban đầu như trước
khi bị thiệt hại; Những chi phí phải bỏ ra bao gồm chi phí để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại hoặc khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại gián tiếp bao gồm: Lợi ích gắn liền với việc khai thác tài sản
(khơng thể khai thác tài sản trong suốt thời gian sửa chữa, khắc phục thiệt hại);
những hoa lợi, lợi tức chắc chắn thu được nếu khơng có thiệt hại xảy ra và những
chi phí cần thiết để hạn chế thiệt hại.

13
14

Xem thêm Điều 590 BLDS năm 2015
Xem thêm Điều 589 BLDS năm 2015

12



BLDS năm 2015 cũng bổ sung thêm quy định về “thiệt hại khác do luật
định”. Quy định này cũng hợp lý, bởi vì khi tài sản xâm phạm có thể chủ thể sẽ mất
đi những lợi ích mà lẽ ra họ được hưởng. Ví dụ: con trâu đang mang thai tới tháng
thứ 9 thì bị ơ tơ lao tới và đâm chết. nếu theo quy định của BLDS năm 2005 thì
“con nghé sắp được sinh” sẽ khơng tính đến giá trị của nó. Nhưng theo quy định
BLDS năm 2015 thì giá trị của con nghé có thể được xác định là những thiệt hại
khác do pháp luật quy định15.
Thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là loại thiệt hại không
thể xác định cụ thể. Xét về mặt bản chất của loại thiệt hại này là việc xác định
những tổn thất về vật chất do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm
phạm... nhằm phục hồi tình trạng ban đầu của người bị xâm hại16.
Trong khi thiệt hại vật chất là yếu tố khách quan có thể dễ dàng nhận biết và
đo lường thì thiệt hại về tinh thần lại thiên về mặt chủ quan, trừu tượng, rất khó xác
định và quy đổi thành giá trị kinh tế. Ngoài quy định tại BLDS năm 2015 thì Nghị
quyết số 03/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng ngày 08 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn Tòa án cần xem xét đến các tình
tiết cụ thể chẳng hạn như mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm, mức độ
giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm, thời gian chịu đựng tổn
thất, mức độ đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm17.
Những chi phí đó bao gồm: chi phí phải bỏ ra và thu nhập bị mất (thu nhập
chứng cứ, thời gian phải bỏ ra để khiếu nại, đăng báo cải chính...); người xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp tổn thất về tinh thần mà người bị xâm phạm phải gánh chịu. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức
tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm khơng q 10 lần
mức tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định.


15

Trương Hồng Quang (2018), Trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự năm 2015
và những tình huống thực tế, NXB Chính trị Quốc gia (Hà Nội), tr.48 – tr 49.
16
Xem Điều 592 BLDS năm 2015
“Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm
phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất
về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu
không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá
mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
17
Ngô Thu Trang (2019), “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp
chí Tịa án nhân dân điện tử – Cơ quan của Tòa án nhân dân tối cao.

13


Tính mạng của con người là vơ giá khơng thể tính thành tiền. Vì vậy, bồi
thường thiệt hại về tính mạng thực chất là bồi thường vật chất phải bỏ ra liên quan
đến cái chết của người bị thiệt hại18.
Những chi phí phải bỏ ra bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng, chăm sóc nạn nhân trước khi chết, chi phí hợp lý cho việc mai táng phù hợp
với phong tục, tập quán; Tiền cấp dưỡng cho những người mà người chết có nghĩa
vụ phải cấp dưỡng (con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao

động...); Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân
thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu khơng có những người
này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu
không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm
không quá 100 lần mức tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Theo đó, ta có thể thấy một hành vi gây thiệt hại của chủ thể có thể xâm
phạm, gây thiệt hại đến nhiều khía cạnh khác nhau. Và trên ngun tắc bồi thường
tồn bộ, thì chủ thể gây thiệt hại phải bồi thường tất cả các thiệt hại xảy ra trên thực
tế một cách tương ứng, phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ ba, các căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (xét trong
trường hợp thiệt hại do người gây ra). Đây là đặc điểm dễ nhận biết nhất. Nếu một
tình huống xảy ra trên thực tế và thỏa mãn các căn cứ phát sinh dưới đây thì sẽ áp
dụng chế định này.
Một là, có thiệt hại xảy ra trên thực tế.
BLDS năm 2015 không tồn tại định nghĩa về thiệt hại. Trong khoa học pháp
lý, có ý kiến cho rằng “thiệt hại” được hiểu là sự thay đổi biến thiên theo chiều xấu
đi của tài sản, của các giá trị nhân thân do pháp luật bảo vệ19.
Thiệt hại trong trường hợp này có thể là thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần.
Đây là điều kiện tiên quyết để pháp sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng: có thiệt hại, có bồi thường. Như phân tích ngay từ đầu, sở dĩ chế định này
không tồn tại hợp đồng hoặc hợp đồng không thể điều chỉnh chúng nên mới áp
dụng các quy định của pháp luật. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho chủ thể bị thiệt hại,
pháp luật quy định các ngun tắc bồi thường. Chính vì vậy, chỉ khi có thiệt hại xảy
ra trên thực tế thì mới có thể bồi thường, mới mang lại sự cơng bằng cho chủ thể bị
thiệt hại được, mới khôi phục lại tình trạng ban đầu được.
18

Xem Điều 591 BLDS năm 2015

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, NXB. Đại học
quốc gia, tr.471.
19

14


Hai là, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao ngày 08/7/2006 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định
của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì khái niệm
“hành vi trái pháp được hiểu là những xử sự của con người thông qua dạng hành
động hoặc không hành động và trái với các quy định của pháp luật”20.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể được thể hiện thông qua hành
động hoặc không hành động, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khác. Đó là những xử sự của con người trái quy định của pháp luật, xâm phạm
tới các quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Thông thường những hành vi gây thiệt
hại trên thực tế thường thể hiện dưới dạng hành động.
Tuy nhiên, pháp luật quy định một số hành vi mặc dù gây thiệt hại nhưng
vẫn được xem là hành vi hợp pháp. Nhưng điều đó khơng đồng nghĩa là có thiệt hại
xảy ra do hành vi hợp pháp sẽ không được bồi thường, cụ thể là:21
Hành vi gây thiệt hại trong giới hạn phịng vệ chính đáng
Phịng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính
đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà
chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích mà
pháp luật bảo vệ. Bản chất phịng vệ chính đáng là nhằm bảo vệ các lợi ích hợp
pháp đồng thời ngăn chặn hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho người có
hành vi tấn cơng. Chính do mục đích của phịng vệ chính đáng là bảo vệ lợi ích hợp
pháp nên mặc dù người có hành vi phịng vệ gây nên nó được xem là hành vi hợp
pháp.

Tuy nhiên khơng phải hành vi nào cũng được xem là phòng vệ chính đáng,
nó phải thỏa mãn các điều kiện luật định:
Hành vi tấn cơng xâm hại lợi ích hợp pháp – cơ sở làm phát sinh quyền
phịng vệ chính đáng: lợi ích hợp pháp là những quyền của Nhà nước, tổ chức và
công dân được pháp luật quy định như quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm…những hành vi chống trả để bảo vệ lợi ích bất hợp pháp khơng được
coi là phịng vệ chính đáng.
Hành vi tấn cơng phải có thật và đang diễn ra chứ khơng phải do suy đốn
tưởng tượng. Phịng vệ chính đáng phải gây ra thiệt hại cho chính người đang có
hành vi tấn cơng: vì có như vậy nguồn gốc làm phát sinh hành vi tấn cơng xâm
phạm lợi ích hợp pháp mới bị loại trừ tận gốc. Hành vi của người phòng vệ chỉ được
20

Mục I. Điểm 1.2 Nghị quyết 03/3006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
21
Trường Đại học Luật TPHCM, tlđd (1), tr.377 – 378.

15


chống trả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người có hành vi tấn cơng. Giữa
hành vi phịng vệ và hành vi tấn cơng phải có sự tương xứng. Sự tương xứng khơng
có nghĩa là sự ngang bằng theo nghĩa cơ học, người tấn công sử dụng công cụ
phương tiện gì thì người phịng vệ cũng sử dụng cơng cụ phương tiện đó hoặc hành
vi tấn cơng gây thiệt hại đến mức nào thì người phịng vệ cũng được gây thiệt hại
đến mức độ đó. Sự tương xứng ở đây được hiểu là sự tương xứng về tính chất và
mức độ được xác định dựa vào các yếu tố chủ quan và khách quan.
Trường hợp hành vi gây thiệt hại vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng thì
người thực hiện hành vi và gây thiệt hại đó phải có trách nhiệm bồi thường22.

Hành vi gây thiệt hại phù hợp với yêu cầu của tình thế cấp thiết:
BLDS năm 2015 không đưa ra cách hiểu cụ thể về tình thế “Tình thế cấp
thiết là tình thể của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà
khơng cịn cách nào khác là phải gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa”23.
Tình thế cấp thiết địi hỏi có các dấu hiệu sau: phải có sự nguy hiểm thực tế đang
gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho những lợi ích được pháp
luật bảo vệ. Sự nguy hiểm đó có thể bắt nguồn từ người, từ con vật, từ sức mạnh tự
nhiên, từ những sự cố kĩ thuật,… Việc gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc
phục sự nguy hiểm vì trong tình thế đó khơng cịn cách nào khác; thiệt hại gây ra
phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Với việc xác định hành vi gây thiệt hại trong
tình thế cấp thiết không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. BLDS năm 2015
cho phép và sự khuyến khích cơng dân cần biết lựa chọn và chấp nhận việc gây ra
thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ các lợi ích chính đáng lớn hơn trong những trường hợp
cần thiết.
Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, người thực hiện hành vi gây
thiệt hại trong tình thế cấp thiết có thể thỏa mãn được các điều kiện do luật định.
Chính vì vậy, pháp luật cũng quy định trường hợp nếu người thực hiện hành vi gây
thiệt hại mà vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì phải bồi thường phần vượt
quá. Và người gây ra tình thế cấp thiết cũng có nghĩa vụ phải bồi thường24.
Hành vi gây thiệt hại có sự đồng ý hợp pháp của người bị thiệt hại: như vậy,
khi thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người bị thiệt hại đồng ý và chấp nhận hậu
22

Xem Điều 594 BLDS năm 2015
“Điều 594. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Người gây thiệt hại trong trường hợp phịng vệ chính đáng khơng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
23
Xem Điều 23 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

24
Xem Điều 595 BLDS năm 2015
“Điều 595. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
1. Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi
thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
2. Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”

16


quả xảy ra trên thực tế. Chúng ta có thể ngầm xem đó là sự thỏa thuận giữa hai bên
thì người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp này. Tuy
nhiên, sự thỏa thuận này cần phù hợp với các quy định và nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam.
Hành vi gây thiệt hại khi thi hành công vụ hoặc thực hiện chức trách nghề
nghiệp phù hợp với điều kiện do pháp luật quy định. Theo đó, cá nhân bắt buộc phải
thực hiện các quy định, chức trách phù hợp do pháp luật quy định. Như vậy, việc họ
thực hiện hành vi gây thiệt hại không thể quy kết trách nhiệm cho họ được.
Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại
và thiệt hại trên thực tế: có nghĩa là “Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của
hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra
thiệt hại”25. Có thể thấy được, đó là mối quan hệ trực tiếp, nội tại.
Ta thấy được, nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép duy
vật biện chứng, “dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai phạm trù giữa cái
“nguyên nhân” là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó với “kết quả”
là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó phản ánh mối quan hệ hình
thành các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan”26.
Dưới góc độ triết học: “Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý

nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu các trường hợp riêng biệt ấy trong
mối quan hệ chung của nó với tồn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với
nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó
nguyên nhân và kết quả ln thay đổi vị trí cho nhau”27.
Và trong khoa học pháp lý, người ta vận dụng cặp phạm trù “ngẫu nhiên và
tất nhiên” để làm tiêu chuẩn xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại đã xảy ra28.
Ta thấy được “Mối quan hệ nhân quả có chức năng gắn kết giữa hai yếu tố
cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Quan hệ nhân quả là một diễn biến

25

Mục I. Điểm 1.3 Nghị quyết 03/2006 của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
26
B.Ratxen (1957), Sự nhận thức của con người, NXB. Tiến bộ Mát-xcơ-va, tr.362.
27
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà
Nội, tr.107.
28
Lê Hà Huy Phát, tlđd (6), tr.27.

17


trong quá trình thuộc về một khoảng thời gian cụ thể. Do vậy, hành vi được coi là
nguyên nhân phải diễn ra trước kết quả”29.
1.1.2 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân
gây ra

Trước hết, chúng ta bàn về khái niệm “pháp nhân”. Hiện nay, BLDS năm
2015 nói riêng và các văn bản pháp luật khác nói chung khơng có định nghĩa cụ thể
về pháp nhân. Hầu hết các văn bản pháp luật được đề cập ở dạng mô tả các dấu hiệu
của pháp nhân. Dựa vào các dấu hiệu mơ tả đó thì pháp nhân được hiểu là một tổ
chức độc lập, thống nhất, thành lập hợp pháp; có tài sản riêng và chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một
cách độc lập.
Điều kiện để trở thành pháp nhân được BLDS quy định như sau:30
“Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
Điều 74 BLDS năm 2015 đã xác định rõ ràng và chính xác hơn so với Điều
84 BLDS năm 200531 những điều kiện để một tổ chức được công nhận là pháp nhân
theo đúng bản chất của chủ thể này. Việc thành lập và đăng kí pháp nhân theo
BLDS năm 2015 được điều chỉnh tại Điều 8232, qua đó ghi nhận sự tồn tại của pháp
29

Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe, tính mạng, NXB. Hà
Nội, tr73.
30
Xem điều 74 BLDS năm 2015
31
Xem Điều 84 BLDS năm 2005
“Điều 84. Pháp nhân
Một tổ chức được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;
2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;

3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
32
Xem Điều 82 BLDS NĂM 2015
“Điều 82. Thành lập, đăng ký pháp nhân
1. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
2. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp
luật.
3. Việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai”.

18


nhân và tư cách pháp nhân của chủ thể đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được pháp luật cơng nhận.33
Pháp nhân có thể được hiểu là một tổ chức được thành lập phù hợp với các
quy định của pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ, chức năng và lĩnh vực hoạt động
của nó được pháp luật cho phép thành lập.
Chúng ta có thể lấy ví dụ để làm rõ vấn đề này: Cơng ty cổ phần, Công ty
TNHH là một pháp nhân được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; Hợp
tác xã là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập và hoạt động theo Luật hợp
tác xã,…
Như vậy đối với những tổ chức có tư cách pháp nhân thì khi người của họ
gây thiệt hại nằm trong những điều kiện của pháp luật quy định thì chế định này sẽ
được áp dụng. Đối với trường hợp, người của một tổ chức nào đó khơng có tư cách
pháp nhân, ví dụ như doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù thỏa mãn các điều kiện khác,
cũng là người của tổ chức, cũng là bồi thường ngồi hợp đồng,… nhưng vì tổ chức
này khơng có tư cách pháp nhân nên chế định này sẽ khơng được áp dụng mà nó sẽ
được áp dụng qua trường hợp khác là “bồi thường thiệt hại do người làm cơng gây

ra”. Ta có thể thấy được, việc xác định tư cách pháp nhân trong trường hợp này là
vơ cùng quan trọng.
Có cơ cấu và tổ chức chặt chẽ34. Điều này có nghĩa là pháp nhân phải có cơ
quan điều hành. Bao gồm các bộ phận, phịng ban được phân chia cụ thể, phân công
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ
ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Ngồi ra, pháp nhân phải có điều lệ hoạt động rõ ràng. Điều lệ của pháp nhân
do các sáng lập viên xây dựng, nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập
chuẩn y.
Pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình. Theo đó, “Tài sản của pháp nhân bao gồm vốn
góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khác mà
pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này, luật khác có

33

Trần Tuấn Vũ (2017), “Những điểm mới của chế định pháp nhân trong bộ luật dân sự 2015 và những vấn
đề liên quan”, Tạp chí khoa học Việt Nam số 01(104)/2017, tr 34 – 40.
[ (truy cập ngày 05/6/2021)
34
Xem Điều 83 BLDS năm 2015
“Điều 83. Cơ cấu tổ chức của pháp nhân
1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp
nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”.

19



×