Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.16 KB, 20 trang )

Lời mở đầu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một
trong những vấn đề đang hết sức được quan tâm hiện nay, trong bối cảnh
vấn đề môi trường đang là vấn đề nóng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn
thế giới, hàng loạt các vụ án về môi trường được phanh phui, hành loạt các
hành vi làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại nghiêm trọng được phát giác
thì vấn đề trách bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường lại càng trở
nên nóng bỏng hơn bao giờ hết, vì vậy em quyết định lựa chọn đề tài “
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường” qua đó mong
có được một cái nhìn chính xác nhất về một trong những vấn đề mang tính
chất thời sự nhất hiện nay.
I. Khái niệm về môi trường và hành vi làm ô
nhiễm môi trường
Trước khi đi vào phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường, ta cần phải xác định lại một số khái niệm có liên quan
đó chính là khái niệm môi trường và hành vi làm ô nhiễm môi trường
1. Khái niệm môi trường
Môi trường là khái niệm có nội hàm tương đối rộng, theo từ điển
tiếng Việt, môi trường được hiểu là “toàn bộ nói chung những điều kiện tự
nhiên và xã hội trong đó con người hay sinh vật tồn tại, phát triển trong mối
quan hệ với con người hay sinh vật ấy” Khái niệm môi trường được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong phạm vi bài viết này, về vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, khái niệm môi
trường được xác định theo định nghĩa trong Luật bảo vệ môi trường 2005:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường: “Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật”. Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 3, Luật Bảo vệ
1
môi trường thì:“Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi
trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái


và các hình thái vật chất khác”.
2. Hành vi gây ô nhiễm môi trường
Hành vi gây ô nhiễm môi trường là hành vi gây ra sự biến đổi nhất
định về bản chất của môi trường sống và phát triển tự nhiên của muôn loài.
Hành vi gây ô nhiễm môi trường có thể là hành vi cố ý thức hoặc vô thức
của con người, nhưng hậu quả của hành vi đó đã gây ra những thiệt hại nào
đó cho con người, xác định được ở thời điểm hiện tại và tương lai. Như
vậy, có thể hiểu hành vi làm ô nhiễm môi trường được hiểu là những hành
vi tác động đến các yếu tố của môi trường và gây ô nhiễm các yếu tố đó
làm tổn hại đến các yếu tốt nguyên thủy của môi trường dẫn đến thiệt hại
về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Cũng theo giải thích thuật
ngữ tại các của Điều 3 Luật bảo vệ môi trường, thì các hành vi sau đây của
con người là nhân tố gây ra ô nhiễm môi trường: Trong quá trình sản xuất,
kinh doanh, sinh hoạt cá nhân, tổ chức đã thải các chất thải ở dạng rắn, khí,
lỏng hoặc các dạng khác mà các chất đó là những nhân tố làm cho môi
trường trở thành độc hại. Hành vi gây ô nhiễm môi trường là hành vi làm
thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong sinh hoạt, hành vi của con người đã
làm ô nhiễm môi trường dẫn đến suy thoái môi trường, làm thay đổi chất
lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời
sống của con người và thiên nhiên. Theo quy định tại Điều 7 Luật bảo vệ
môi trường năm 2005 thì Hành vi gây ô nhiễm môi trường bao gồm các
hành vi sau:
“1. Phá hoại, khai thác trái phép rừng, các nguồn tài nguyên
thiên nhiên khác.
2
2. Khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương
tiện, công cụ, phương pháp huỷ diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo
quy định của pháp luật.
3. Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loài thực vật, động vật

hoang dã quý hiếm thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định.
4. Chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác
không đúng nơi quy định và quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường.
5. Thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất
độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước.
6. Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát
tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hoá vượt quá tiêu chuẩn môi trường cho
phép.
7. Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
8. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn
môi trường.
9. Nhập khẩu, quá cảnh chất thải dưới mọi hình thức.
10. Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi
sinh vật ngoài danh mục cho phép.
11. Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh
vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa
yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
12. Xâm hại di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên.
13. Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo
vệ môi trường.
14. Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về
môi trường đối với sức khỏe và tính mạng con người.
3
15. Che giấu hành vi huỷ hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ
môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi
trường.
16. Các hành vi bị nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo quy
định của pháp luật.”

Người gây ô nhiễm môi trường ngoài bồi thường thiệt hại theo trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự
trong trường hợp gây ô nhiễm về không khí, ô nhiễm về nguồn nước, ô
nhiễm đất đai theo các quy định tại các Điều 182, Điều 183, Điều 184 Bộ
luật Hình sự 1999.
- Hành vi gây ô nhiễm không khí phổ biến là thải vào không khí các
loại khói, bụi, chất độc hoặc các yếu tố độc hại khác; phát bức xạ, phóng xạ
quá tiêu chuẩn cho phép.
- Hành vi gây ô nhiễm nguồn nước như thải dầu mỡ, hóa chất độc
hại, chất phóng xạ quá tiêu chuẩn cho phép, các chất thải, xác động vật,
thực vật, vi khuẩn, ký sinh trùng độc hại gây ra dịch bệnh cho người và gia
súc hoặc các yếu tố độc hại khác.
- Hành vi gây ô nhiễm đất như chôn vùi hoặc thải vào đất các chất
độc hại quá tiêu chuẩn cho phép.
Ngoài những hành vi làm ô nhiễm đất, không khí, nước thì hành vi
gây ô nhiễm môi trường còn bao gồm những hành vi:
- Hành vi nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các
chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. Các hành vi phổ biến
như nhập khẩu, cho phép nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, các chế
phẩm sinh học, chế phẩm hóa học khác, các chất độc hại, chất phóng xạ
hoặc phế thải không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
- Hành vi làm lây lan bệnh nguy hiểm cho người thông qua vận
chuyển động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác
có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người. Hành vi đưa hoặc cho
4
phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực
vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho
người, lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người. Người có hành vi làm ô
nhiễm môi trường không những gây nguy hiểm cho người mà còn lây lan
dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật gây thiệt hại cho con người và

động vật.
- Hành vi sử dụng chất độc, chất nổ, các hóa chất khác, dòng điện
hoặc các phương tiện ngư cụ bị cấm để khai thác thủy sản hoặc làm hủy
hoại nguồn lợi thủy sản. Khai thác nguồn thủy sản quý hiếm, phá hoại môi
trường sống của các loại thủy sản quý hiếm đã gây thiệt hại về môi trường
sinh thái.
- Phá hoại rừng bằng các hành vi đốt, phá rừng trái pháp luật; vi
phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm bằng các hành vi
săn bắt, giết, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoang dã quý hiếm
mà pháp luật đã cấm vận chuyển, buôn bán trái phép các loại sản phẩm của
động vật đó như thịt, da, lông, xương, sừng…
- Hành vi thực hiện vi phạm hoặc không tuân theo chế độ bảo vệ đặc
biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên vì lợi ích của mình hoặc cơ quan mình
trái với quy chế bảo vệ đặc biệt khu bảo tồn đó.
II. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
gây ô nhiễm môi trường.
1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tuy nhiên, với những
nét đặc thù của mình, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi gây ô nhiễm môi trường có những nét riêng.
5
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
cần có đủ ba điều kiện:
- Thứ nhất: phải có hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hành vi đó đã
tác động đến các yếu tố của môi trường gây ô nhiễm
- Thứ hai: hành vi gây ô nhiễm môi trường có mối quan hệ nhân quả
với môi trường bị gây ô nhiễm xác định được và thiệt hại do ô nhiễm môi
trường gây ra.

- Thứ ba: những thiệt hại về môi trường do hành vi xâm phạm môi
trường gây ra xác định được dựa trên những thiệt hại đã xảy ra và thiệt hại
chắc chắn xảy ra cho môi trường; môi trường bị gây thiệt hại là cầu nối dẫn
đến thiệt hại khác.
Thỏa mãn các điều kiện trên, người có hành vi xâm phạm môi
trường phải bồi thường thiệt hại.
Xét về yếu tố lỗi của hành vi làm ô nhiễm môi trường, Điều 624
BLDS đã quy định: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm
môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể
cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”. Như vậy, yếu
tố lỗi không phải là yếu tố điều kiện quyết định đến việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường chủ yếu được xác
định dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường
và thiệt hại xảy ra.
2. Chủ thể bồi thường thiệt hại
Căn cứ vào điều 624 BLDS 2005: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật…” và khoản 5 Điều 4 Luật bảo vệ môi trường năm
2005: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có
trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác
theo quy định của pháp luật.” chúng ta có thể hiểu chủ thể chịu trách
6
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại.
Các tổ chức từ khi thành lập đã có năng lực pháp luật, có năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Các tổ chức khi tham gia vào các
quan hệ pháp luật môi trường mà có hành vi làm ô nhiễm môi trường dẫn
tới gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản
của mình. Các tổ chức có thể là pháp nhân (chẳng hạn, doanh nghiệp Nhà

nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, các viện
nghiên cứu…) hoặc tổ chức khác không phải là pháp nhân (hộ gia đình, tổ
hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh…)
Đối với cá nhân, những người đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi
đầy đủ thì tự mình phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp người từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của
mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của họ. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha
mẹ thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại toàn bộ. Nếu tài sản của cha mẹ
không đủ để bồi thường mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản riêng đó để
bồi thường phần còn thiếu cho người bị hại.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt
hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ thì cá nhân đó được dùng tài sản của
người được giám hộ để bồi thường. Nếu người được giám hộ không có tài
sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường
bằng tài sản của mình. Nhưng người giám hộ chứng minh được mình
không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi
thường.
Trong thực tế đời sống, các chủ thể gây ô nhiễm môi trường chủ yếu
là các doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình do
không có thiết bị xử lý chất thải, hoặc không tuân thủ các quy định khác về
bảo vệ môi trường… các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã làm suy thoái môi
7
trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường gây thiệt hại cho tổ chức, cá
nhân khác. Như vậy, chủ thể “tiềm tàng” chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, trước hết là các cơ sở kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế.
Trên thực tế, những thiệt hại về môi trường có thể do hành vi có lỗi,
có thể do hành vi không có lỗi gây ra và có thể do một sự biến pháp lý
tương đối gây ra. Môi trường có thể bị ô nhiễm do những sự cố nhật định

nào đó gây ra như sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển
khoáng sản, rò rỉ phóng xạ, sự cố từ hoạt động của lò phản ứng hạt nhân…
Xét ở một khía cạnh trách nhiệm của chủ thể bồi thường thiệt hại, thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong một số lĩnh
vực cũng là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước. Nếu thiệt
hại đó là do tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước, là đối tượng đang
được khai thác những lợi ích vật chất và tinh thần đã mang những lợi ích
cho nhà nước thì nhà nước phải bồi thường thiệt hại do những sự cố trong
việc quản lí, sử dụng, khai thác, thăm dò những loại tài sản đó mà chúng
gây ô nhiễm môi trường, là nguy cơ gây thiệt hại cho người khác.
3. Xác định thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra có những đặc
điểm đặc thù, không giống như cách xác định thiệt hại như những hành vi
gây thiệt hại khác, cụ thể:
Thứ nhất, người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã thực hiện
các hành vi trái pháp luật hoặc hành vi trong sản xuất kinh doanh, làm dịch
vụ hợp pháp nhưng đã gây ô nhiễm môi trường, gây thiệt hại cho cho chính
môi trường và gây thiệt hại cho người khác. Hành vi gây thiệt hại về môi
trường là hành vi làm biến dạng sinh thái vốn có tự nhiên của môi trường,
đã gây những khó khăn cho người khác trong sinh hoạt, trong sản xuất kinh
doanh hoặc gây cho nguồn không khí một không gian nhất định bị nhiễm
8

×