Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận kinh tế chính trị HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.6 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

----------

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: “HÀNG HĨA SỨC LAO ĐỘNG VÀ VẤN ĐỀ
TIỀN LƯƠNG, CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.”

Hà Nội, năm 2017


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn chuyển dịch nền kinh tế từ nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường. Đã và đang có rất nhiều thị trường được hình
thành và phát triển mạnh mẽ, song trình độ phát triển so với các nước khác cịn thấp
và mang tính chất tự phát. Một trong những thị trường lớn được hình thành đó
chính là thị trường sức lao động (Thị trường lao động). Trước giai đoạn đổi mới, thị
trường sức lao động vẫn chưa được thừa nhận, và cho đến nay vẫn chưa có một
nhận thức rõ ràng và thống nhất về loại thị trường này. Trước sự tất yếu của việc
thừa nhận thị trường lao động, ngày 23/6/1994 Bộ Luật Lao động đã được ban
hành, tiếp đó là một loạt các nghị định của Chính Phủ hướng dẫn thi hành Bộ luật
Lao động đã có những tác động tích cực đến việc hình thành khuôn khổ pháp lý
cho thị trường này. Sức lao động được xem như là một loại hàng hóa đặc biệt, cịn
tiền lương chính là mức gía trị của sức lao động và được thỏa thuận quyết định bởi


cả hai bên. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ
bản để được đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động. Trước C. Mác, chưa hề
có một nhà kinh tế học nào phân biệt hai phạm trù “lao động và sức lao động”. Và
C. Mác đã trở thành người đầu tiên vạch rõ ranh giới, trình bày quan điểm một cách
đúng đắn khóa học, lý luận về hàng hóa sức lao động. Đỉnh cao của sự phát triển lý
luận đó là trong tác phẩm “Tư Bản”, C. Mác viết: “Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào
mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao
động tự do với tư cách là người bán sức lao động của mình ở trên thị trường. Bây
giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường tận hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là
sức lao động"
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em chọn đề tài nghiên cứu “Hàng hóa sức lao động
và vấn đề tiền lương, cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay.”

3


NỘI DUNG
Chương I. Hàng hóa sức lao động
I.

Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
1)

Khái niệm sức lao động.

Trước khi tìm hiều về hàng hóa sức lao động, chúng ta cần có nhận thức về sức
lao động. Theo C. Mác: “Sức lao động, đó là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong
cơ thể con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm trong hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.”
Như vậy, sức lao động là thứ mà mỗi con người đều có sẵn, sở hữu trong mình.

2)

Những điều kiện biên sức lao động thành hàng hóa

Sức lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình lao động sản xuất trong mọi xã
hội. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá. Thực tiễn lịch sử
cho thấy, sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa, vì bản thân người
nơ lệ thuộc sở hữu của chủ nơ, anh ta khơng có quyền bán sức lao động của mình.
Người thợ thủ cơng tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng
sức lao động của anh ta cũng khơng phải hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để
làm ra sản phẩm ni sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống.
Như vậy, sức lao động chỉ biến thành hàng hố khi có cả hai điều kiện lịch sử
sau:
- Người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao
động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hố,
nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có sức lao
động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động thành hàng
hố địi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
- Người lao động phải bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, không thể
tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc
phải bán sức lao động của mình, vì khơng cịn cách nào khác để sinh sống.
4


Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến
thành hàng hố. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền
biến thành tư bản. Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thơng hàng hóa và
lưu thơng tiền tệ phải phát triển đến một mức nhật định. Dưới chủ nghĩa tư bản, đã
xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách mạng tư sản đã giải phóng người
lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và chúa phong kiến. Mặt khác, do

tác động của quy luật giá trị và các biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã
làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu
sản xuất vào trong tay một số ít người. Việc mua bán sức lao động được thực hiện
dưới hình thức thuê mướn. Trong các hình thái trước tư bản chủ nghĩa (TBCN) chỉ
có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát
triển đến một mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ
thì mới xuất hiện điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Chính sự xuất hiện
của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ
biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại
của chủ nghĩa tư bản.
II.

Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Cũng như mọi hàng hố khác, hàng hố - sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng.
1)

Giá trị hàng hóa sức lao động

Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác được quy định
bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Để sản
xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người 5 cơng nhân phải tiêu dùng một số lượng
tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra, người lao động còn phải thỏa mãn những nhu
cầu của gia đình và con cái anh ta nữa. Chỉ có như vậy thì sức lao động mới được
sản xuất và tái sản xuất liên tục. Vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
5



ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động
được xác định bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao
động. Khác với hàng hố thơng thường, giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của cơng nhân khơng
chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học
hành,…). Nhu cầu đó, cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết
cho công nhân không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau. Nó tùy thuộc hồn
cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt
được của mỗi nước, ngồi ra cịn phụ thuộc vào tập qn, vào điều kiện địa lý và
khí hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp công nhân. Nhưng, đối với một nước
nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy mơ những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định. Do đó, có thể xác định do
những bộ phận sau đây hợp thành:
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao động, duy trì đời sống của bản thân người cơng nhân.
- Phí tổn đào tạo người cơng nhân.
- Giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người công nhân.
Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định,
cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt là sự
tăng nhu cầu trung bình xã hội về hàng hố và dịch vụ, về học tập và trình độ lành
nghề, do đó làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao động
xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại, dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và những điều kiện khác, sự khác
biệt của cơng nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp của lao động và mức độ
sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên. Tất cả những điều kiện đó
khơng thể khơng ảnh hưởng đến các giá trị sức lao động. Không thể không dẫn đến

6



sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng sau đại
lượng trung bình của giá trị sức lao động
2)

Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác
chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là q trình người cơng
nhân tiến hành lao động sản xuất. Nhưng tính chất đặc biệt của hàng hố sức lao
động được thể hiện đó là: hàng hóa thơng thường sau q trình tiêu dùng hay sử
dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng của nó đều biến mất theo thời gian. Tuy nhiên,
q trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại sản xuất ra một loại hàng hóa khác,
đồng thời tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn
hơn đó chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hố sức lao động có thuộc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng
hoá sức lao động so với các hàng hoá khác. Nó là chìa khố để giải quyết mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao
động trở thành hàng hoá. Hơn nữa, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động
vì vậy, việc cung ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh
tế, xã hội của người lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc
vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì
con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung.
Chương II. Tiền lương và các yếu tố ảnh hưởng đến mức lương
I.

Tiền lương
1)

Khái niệm tiền lương


Tiền lương là sự trả cơng hoặc thu nhập mà có thể biểu hiện bằng tiền và
được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc
bằng pháp luật, pháp quy Quốc gia, do người sử dụng lao động phải trả cho người
lao động theo hợp đồng lao động cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực
hiện, hoặc những dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm
7


Tiền lương là bộ phận cơ bản trong thu nhập của người lao động đồng thời là
một trong những yếu tố chi phí đầu vào của sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp. Với ý nghĩa đó, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động ,
là giá của yếu tố sức lao động tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị
trường và pháp luật hiện hành của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường càng ngày càng phát triển và được xã hội hóa cao thì
quan hệ cung cầu và sử dụng sức lao động ngày càng cao hơn, tiền lương trở thành
nguồn thu nhập duy nhất, là mối quan tâm và động lực lớn nhất với mọi đối tượng
cung ứng sức lao động.
Cùng với tên gọi trên, tiền công là một biểu hiện, một tên gọi khác của tiền
lương. Tiền công gắn chặt trực tiếp hơn với các quan hệ thỏa thuận, mua bán sức
lao động và thường được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất kinh doạn, các hợp động
thuê có thời hạn.
Tiền cơng cịn là tiền trả cho một đơn vị thời gian lao động cung ứng, tiền trả
cho khối lượng công việc được thực hiện phổ biến trong những thỏa thuận thuê
công nhân trên thị trường tự do và có thể gọi là giá cơng lao động
2)

Vai trị của tiền lương

Trong bất cứ một doanh nghiệp nào, doanh nghiệp sản xuất cũng như doanh

nghiệp thương mại, tiền lương thực hiện hai chức năng sau:
– Về phương diện xã hội:
Trong bất cứ chế độ xã hội nào, tiền lương cũng thực hiện chức năng kinh tế cơ
bản của nó là đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Tuy nhiên mức độ tái
sản xuất mở rộng cho người lao động và cách tính, cách trả tiền lương trong mỗi
chế độ là khác nhau. Người lao động tái sản xuất sức lao động của mình thơng qua
các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền lương của họ. Để tái sản xuất sức lao
động tiền lương phải đảm bảo tiêu dùng cá nhân người lao động và gia đình họ. Để
thực hiện chính sách này trong cơng tác tiền lương phải:
8


Nhà nước phải định mức lương tối thiểu: mức lương tối thiểu phải đảm bảo ni
sống gia đình và bản thân họ. Mức lương tối thiểu là nền tảng cho chính sách tiền
lương và việc trả lương cho các doanh nghiệp, bởi vậy nó phải được thể chế bằng
pháp luật buộc mọi doanh nghiệp khi sử dụng lao động phải thực hiện. Để xác định
được mức lương tối thiểu đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ các yếu tố hợp thành tiền
lương như nhà ở, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, đi lại, ăn, mặc, ở,… Mức lương
tối thiểu được ấn định theo giá linh hoạt, đảm bảo cho người lao động làm việc đơn
giản nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và
một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và làm căn cứ để tính các mức
lương cho các loại lao động khác.
Mức lương cơ bản khác phải được xác định trên cơ sở mức giá hàng vật phẩm tiêu
dùng trong từng trường hợp một, bởi vậy khi giá cả có biến động, đặc biệt khi tốc
độ lạm phát cao phải điều chỉnh tiền lương phù hợp để đảm bảo đời sống của người
lao động.
– Về phương diện kinh tế:
Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật chất đối với
người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình mình mà lao
động một cách tích cực với chất lượng kết quả ngày càng cao.

Để trở thành đòn bẩy kinh tế, việc trả lương phải gắn liền với kết quả lao động,
tổ chức tiền lương phải nhằm khuyến khích người lao động nâng cao năng xuất,
chất lượng và hiệu quả lao động. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng
làm không hưởng. Bội số của tiền lương phải phản ánh đúng sự khác biệt, trong
tiền lương giữa loại lao động có trình độ thấp nhất và cao nhất được hình thành
trong quá trình lao động.
3)

Phân loại và hình thức trả lương

Tiền công bao gồm tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế

9


- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người cơng nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao
động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền cơng thực tế.
- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu dùng và
dịch vụ mà cơng nhân mua được bằng tiền cơng danh nghĩa của mình. Đối với
người lao động thì mục đích cuối cùng của họ là tiền cơng thực tế vì nó đóng vai
trị quyết định trong tái sản xuất sức lao động.
- Mức lương tối thiểu là mức lương để trả cho người lao động làm công việc đơn
giản nhất với điều kiện lao dộng và mơi trường lao động bình thường. Nó gắn liền
với 3 yếu tố cần thiết là mức sống trung bình của dân cư một nước, chỉ số giá cả
hàng hóa sinh hoạt và loại lao động, điều kiện lao động
Tiền cơng có hai hình thức cơ bản là tiền công theo thời gian và tiền công
theo sản phẩm.
- Tiền cơng tính theo thời gian là hình thức tiền cơng mà số lương của nó ít hay nhiều
tùy theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn. Tiền

cơng ngày hay tuần chưa nói rõ được mức tiền cơng đó là cao hay thấp vì nó cịn
tùy theo thời gian làm trong ngày dài hay ngắn. Do đó muốn đánh giá chính xác
mức tiền cơng khơng chỉ căn cứ vào tiền cơng ngày mà cịn phải căn cứ vào độ dài
của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo
chính xác mức tiền cơng tính theo thời gian. Áp dụng trả cơng theo thời gian thì
đơn giản trong việc thực hiện tả lương nhưng không khuyến khích đương tăng năng
suất lao động.
- Tiền cơng tính theo sản phẩm là hình thức tiền cơng mà số lương của nó phụ thuộc
vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân
đã sản xuất ra hoặc số lượng công việc mà công nhân đã hồn thành.
Mỗi sản phẩm được trả cơng theo một đơn giá nhất định bằng thương số giữa
tiền công trung bình của cơng nhân trong một ngày với số lượng sản phẩm trung
bình mà một cơng nhân sản xuất ra trong một ngày. Do đó, về thực chất, đơn giá
10


tiền công là tiền công trả cho thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế
nên tiền cơng tính theo sản phẩm cũng chỉ là một hình thức biến tướng của tiền
cơng tính theo thời gian.
Trả cơng theo sàn phẩm phản ánh tương đối chính xác lượng lao động thực tế
bỏ ra, đồng thời phân biệt được năng lực giữa những người cùng làm một loại sản
phẩm, gắn chặt thu nhập với kết quả lao động, kích thích nâng cao trình độ mọi
mặt, sử dụng tốt và hợp lý thời gian làm việc và nghỉ ngơi, tăng cường kỷ luật và
cải tiến quản lý kinh doanh. Tuy nhiên trả công theo sản phẩm dễ dẫn đến hiện
tượng chạy theo số lượng mà không quan tâm đến chất lượng, lãng phí ngun vật
liệu, coi nhẹ việc giữ gìn máy móc thiết bị dụng cụ và an tồn lao động, … vì vậy
những cơng việc địi hỏi chất lượng cao thì nên trả cơng theo thời gian.
II.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương.


Các quy định của pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Các luật lệ, điều khoản về tiền lương, tiền công và các khoản phúc lợi được
quy định trong Bộ Luật lao động đòi hỏi các tổ chức phải tuân thủ khi xác định và
đưa ra các mức tiền lương phù hợp. Tìm hiểu và tuân thủ đúng các quy định của
pháp luật về các vấn đề lao động trước khi xây dựng cơ chế trả lương là việc làm
bắt buộc. Doanh nghiệp cần lưu ý đến các vấn đề như mức lương tối thiểu Nhà
nước quy định hợp đồng và lương thử việc, lương thời vụ, lương trong kỳ thai sản,
ốm đau, nghỉ việc…
Yếu tố bên ngồi doanh nghiệp
- Tình hình cung cầu lao động và mức lương trên thị trường lao động.
Cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương. Khi cung về lao động
lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ
hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi cung về lao động
bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc
này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh
11


hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như (năng suất biên của lao động, giá cả
của hàng hoá, dịch vụ …). Tuy nhiên, tiền lương hiện nay chưa thực sự gắn với mối
quan hệ cung cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương chậm trong khi
nhu cầu nhân lực là lớn.
- Chi phí sinh hoạt; giá cả hàng hóa, dịch vụ.
Khi xác định mức lương cần xem xét đến yếu tố biến động của giá cả các mặt
hàng, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người lao động. Khi nền kinh tế quốc
dân vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi và mức lương chung còn thấp, việc xem xét
các nhu cầu cơ bản của con người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tiền công trong
những công việc khác nhau tăng lên và hạ xuống qua thời gian phần lớn là do
những thay đổi về giá cả của những hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ đó. Ví dụ, khi ơtơ thay thế xe ngựa trong nửa đầu của thế kỷ trước, tiền cơng của thợ đúc móng

ngựa và thợ làm n cương sụt giảm nhiều trong khi tiền công của thợ cơ khí ơ-tơ
lại tăng lên.
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Tăng lương hợp lý có thể coi là biện pháp kích cầu lành mạnh để thúc đẩy
sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung thúc đẩy nền kinh tế. Ngược
lại nền kinh tế có tăng trưởng thì tiền lương mới tăng.
Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp.
- Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp.
Sức lao động là yếu tố đầu vào chính yếu của q trình sản xuất kinh doanh cho
dù với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật các công nghệ mới được ra đời
và ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất với mức độ cơ khí hố, tự động hố tối đa
thì vai trị lao động sống vẫn khơng thể phủ nhận mà nó ngày càng thể hiện được
tầm quan trọng của mình thơng qua sức mạnh của trí tuệ trong việc phát minh và
ứng dụng các kỹ thuật vào quá trình sản xuất.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp.
12


Khả năng tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng mạnh tới tiền lương. Với
doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương cho người lao
động sẽ thuận tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính khơng vững thì
tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.
Nhóm yếu tố thuộc bản thân người lao động.
- Trình độ lao động.
Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập cao hơn so với lao động có
trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản
chi phí tương đối cho việc đào tạo đó. Để làm được những cơng việc địi hỏi phải
có hàm lượng kiến thức, trình độ cao mới thực hiện được, đem lại hiệu quả kinh tế
cao cho doanh nghiệp thì việc hưởng lương cao là tất yếu.
- Thâm niên công tác, kinh nghiệm làm việc.

Một người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm, hạn chế
được những rủi ro có thể xảy ra trong cơng việc, nâng cao bản lĩnh trách nhiệm của
mình trước cơng việc đạt năng suất chất lượng cao vì thế mà thu nhập của họ sẽ
ngày càng tăng lên. Ngày nay trong nhiều tổ chức yếu tố thâm niên cơng tác có thể
khơng phải là một yếu tố quyết định cho việc tăng lương. Thâm niên công tác chỉ là
một trong những yếu tố giúp cho đề bạt, thăng thưởng nhân viên.
- Mức độ hồn thành cơng việc.
Thu nhập tiền lương của mỗi người còn phụ thuộc vào mức hồn thành cơng
việc của họ. Cho dù năng lực là như nhau nhưng nếu mức độ hồn thành cơng việc
là khác nhau thì tiền lương phải khác nhau. Đó cũng là sự phản ánh tất yếu của tính
cơng bằng trong chính sách tiền lương.
- Phẩm chất về sức khỏe thể lực, thần kinh tâm lý

13


Chương III. Thực trạng và cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay
1)

Thực trạng tiền lương hiện nay

Trong các thời kỳ phát triển đất nước, Việt Nam đã nhiều lần cải cách chính sách
tiền lương để phù hợp với xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập. Dù đạt được những thành cơng nhất định, song vẫn cịn rất
nhiều hạn chế, nhất là cơ chế tạo nguồn chưa được tháo gỡ dẫn đến việc cải cách
tiền lương bị rơi vào vòng luẩn quẩn.
a, Ưu điểm:
Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng
từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao

động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng
cao chất lượng dịch vụ cơng, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Thứ hai, tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành
chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ cơng; chính sách
tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có cơng, trợ giúp xã hội.
Đó là bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều kiện mới theo định
hướng thị trường.
Thứ ba, chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức
(CBCCVC) với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế
khu vực HCNN, phát triển khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo nhu cầu
phát triển của xã hội. Tuy phải tiến hành dần từng bước nhưng là hướng đi đúng
đắn.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp
lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh
14


thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ
chế tạo nguồn cải cách tiền lương CBCCVC.
Thứ năm, tiền lương danh nghĩa của CBCCVC có xu hướng tăng do nhiều
lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng
kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa, từng bước tiền tệ
hóa các khoản ngồi lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống
của CBCCVC. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung
cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ
210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày
1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn
đồng/tháng. Theo Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ), sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh

lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu - khoảng 3 triệu
đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%.
b, Những tồn tại và bất cập
Thứ nhất, duy trì q lâu một chính sách tiền lương thấp đối với CBCCVC.
Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của NSNN, nên đã
thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với CBCCVC và gắn chặt với tiền
lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% - 70% nhu cầu mức sống tối
thiểu của người lao động). Hơn nữa, chính sách tiền lương thấp này đã lại ngày
càng thấp xa so với khu vực sản xuất kinh doanh, chưa bảo đảm cho CBCCVC
sống chủ yếu bằng tiền lương. Đó là một bất cập, nghịch lý và mâu thuẫn lớn
Thứ hai, quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối đa cũng chưa hợp lý,
nhất là hệ số trung bình quá thấp trong quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình - tối
đa nên khơng cải thiện được đời sống và khuyến khích được CBCCVC có hệ số
lương thấp; tiền lương trả cho CBCCVC được quy định bằng hệ số được tính trên
cơ sở tiền lương tối thiểu chung; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc,
chức danh và hiệu quả cơng tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công.
15


Thứ ba, trong khi tiền lương khơng đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất
cao (phụ thuộc vào vị trí, chức danh cơng việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và
khơng có giới hạn, khơng minh bạch, cũng khơng kiểm sốt được. Trong phần thu
nhập ngồi lương cho đến nay khơng ai có thể thống kê, đánh giá định lượng được,
có thể có phần chính đáng, song chủ yếu là khơng chính đáng do lợi dụng quyền
lực để tham nhũng, tiêu cực trong thi hành công vụ (từ biếu xén, cơ chế xin - cho,
cơ chế ăn chia…). Mức lương tối thiểu của công chức năm nay được nâng lên
1.050.000 đồng, song vẫn là mức quá thấp, không đủ cho chi phí trong cuộc sống
vốn ngày càng đắt đỏ do lạm phát. Chính điều này đã tạo “đất sống” cho tham
nhũng, tiêu cực ngày càng nhức nhối…
Thứ tư, tiền lương Nhà nước quy định trả cho CBCCVC mặc dù còn rất thấp,

nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do NSNN bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá cao trong
tổng chi NSNN, cho nên buộc phải “gọt chân cho vừa giày”. Đó là một trong
những nút thắt khó gỡ nhất trong cải cách chính sách tiền lương đối với CBCCVC
vừa qua.
Thứ năm, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp cơng
cịn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó
khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho CBCCVC. Đối với
các tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… dễ dàng kêu
gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện, nhưng đối với cấp
huyện, nhất là đối với huyện thuộc vùng núi cao, trung du, hải đảo, việc triển khai
thực hiện xã hội hóa rất khó khăn. Đây cũng là một trong những cản trở lớn nhất
của cải cách tiến lương, do chưa tách bạch rõ ràng chính sách tiền lương đối với
công chức khu vực HCNN và viên chức khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ cơng.
Có thể nói rằng, cải cách chính sách tiền lương đối với CBCCVC từ năm
2003 đến nay chưa thành công và vẫn không thốt ra được vịng luẩn quẩn: Đó là
chính sách tiền lương thấp khơng đủ sống, nhưng thu nhập ngồi lương lại rất cao,
16


mỗi lần tăng lương tối thiểu làm cho gánh nặng của NSNN càng tăng. Chính sách
tiền lương dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng
lương phát huy tài năng và cống hiến. Tiền lương thấp khơng kích thích được
CBCCVC gắn bó với Nhà nước, không thu hút được nhân tài; ngược lại, người làm
việc giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra làm việc cho khu vực ngồi nhà
nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có xu hướng tăng. Mặt khác, lương thấp
cũng là nguyên nhân quan trọng của tiêu cực, tham nhũng.
2)

Giải pháp tạo nguồn cải cách tiền lương


Thứ nhất, quản lý chặt và giảm đến mức tối đa đối tượng hưởng lương từ
NSNN. Theo đó, cần xây dựng một nền hành chính và cơng vụ chun nghiệp, hiện
đại trên cơ sở đó xác định rõ từng vị trí làm việc với chức danh tiêu chuẩn rõ ràng
để xác định ai là công chức và phải quản lý cơng chức theo chức danh của vị trí làm
việc. Đồng thời, rà sốt và đánh giá lại cán bộ, cơng chức, thực hiện tinh giảm bộ
máy, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong
đó, chọn lọc, kiểm định chất lượng cán bộ, cơng chức và áp dụng công nghệ thông
tin hiện đại, nối mạng trong tồn bộ hệ thống hành chính (Chính phủ điện tử) là
khâu đột then chốt.
Thứ hai, đột phá vào mở cơ chế để đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp
cung cấp dịch vụ công nhằm giảm dần tỷ trọng chi từ NSNN cho đầu tư cơ sở vật
chất, giảm tối đa viên chức hưởng lương từ NSNN. Khu vực này chia ra làm 3 loại
cơ sở cung cấp dịch vụ công với 3 cơ chế khác nhau: (i) Các cơ sở cung cấp dịch
vụ cơng khơng có nguồn thu thì NSNN trả lương và áp dụng chính sách tiền lương
như cán bộ, công chức; (ii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ cơng có nguồn thu nhưng
chưa tự trang trải được tồn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được Nhà nước
hỗ trợ phần thiếu hụt (Có lộ trình, bước đi thích hợp để giảm dần hỗ trợ từ NSNN
cho trả lương viên chức thuộc loại này); (iii) Các cơ sở cung cấp dịch vụ cơng có
nguồn thu tự trang trải được tồn bộ chi phí hoạt động và tiền lương thì được áp
17


dụng chính sách tiền lương theo cơ chế thị trường. Nhà nước quy định các khoản
thu phí, lệ phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ sát với thị trường, phù hợp
với từng loại dịch vụ và loại hình đơn vị cung cấp dịch vụ (giáo dục, y tế, văn hoá,
khoa học, nghệ thuật…); quy định cơ chế uỷ quyền, đặt hàng cho các đơn vị cung
cấp dịch vụ nhằm thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp công phát triển lành mạnh, nâng
cao chất lượng cung cấp dịch vụ công và tạo nguồn trả lương cho người lao động.
Đồng thời, Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ đối với người nghèo, đối tượng
chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số khi sử dụng dịch vụ.

Bên cạnh đó, cho phép khu vực ngồi nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ
theo quy định và hướng dẫn của Nhà nước, khuyến khích khu vực này cung cấp
dịch vụ cơng khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Đồng thời, cần phải có kế hoạch và
chương trình rà sốt tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công
hiện nay để xếp vào 3 loại trên; xây dựng lộ trình thực hiện cơ chế tiền lương mới
cho các đơn vị này. Nghiên cứu chuyển các cơ sở sự nghiệp cơng lập sang khu vực
ngồi cơng lập (cổ phần hóa các trường học, bệnh viện đủ điều kiện).
Thứ ba, thực hiện nghiêm chủ trương đầu tư vào tiền lương là đầu tư cho
phát triển, từ đó, điều chỉnh mạnh chi tiêu công, cơ cấu lại chi NSNN; trong đó,
tăng huy động các nguồn ngồi NSNN (của doanh nghiệp, trong dân, ODA...) cho
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, giảm tỷ trọng NSNN trong tổng
mức đầu tư toàn xã hội, dành nguồn cho trả lương CBCCVC đảm bảo CBCCVC có
mức tiền lương bình quân trên trung bình của lao động khu vực thị trường (doanh
nghiệp).
Thứ tư, tách dần tổng quỹ lương từ NSNN và Quỹ BHXH, nguồn chi trả chính sách
ưu đãi người có cơng, trợ giúp xã hội theo một cơ chế tạo nguồn và chi trả tương
đối độc lập với NSNN, giảm dần áp lực tăng kinh phí từ NSNN khi thực hiện cải
cách tiền lương CBCCVC. Trong đó, cần tách chính sách BHXH của CBCCVC
hưởng lương từ NSNN và BHXH cho lao động khu vực thị trường.
18


Thứ năm, thiết kế lộ trình cải cách tiền lương CBCCVC phù hợp với khả
năng tạo nguồn, theo hướng tăng dần, tránh những đột biến gây sốc về nguồn và tác
động mạnh tiêu cực đến các quan hệ kinh tế - xã hội vĩ mô. Giai đoạn 2011 - 2015,
tập trung vào nâng tiền lương thấp nhất lên để đảm bảo mức sống của CBCCVC
(tương đương với mức bình quân tiền lương tối thiểu thực trả của khu vực thị
trường); tinh giảm biên chế hành chính và đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp
cơng lập. Giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục thực hiện các giải pháp trên, đồng thời tập
trung vào mở rộng quan hệ tiền lương; điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển; tách

nguồn chi trả BHXH, ưu đãi người có cơng, trợ giúp xã hội...

19


KẾT LUẬN
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng nền kinh tế thị
trường thì thị trường sức lao động đã và đang hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Hàng hóa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, nó khơng chỉ có khả năng tái
sản xuất mà cịn có thể tạo ra giá trị mới. Thực tế nêu trên cho thấy, lý luận hàng
hóa sức lao động của C. Mác khơng chỉ đúng trong chủ nghĩa tư bản mà nó cịn có
ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Vì thế, nghiên cứu và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động và tiền công của C.
Mác vào việc cải cách chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc tạo ra sự đồng bộ trong đổi mới các chính sách kinh tế - xã
hội, để sự phát triển của đất nước ta thực sự do con người và vì con người.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo – Giáo trình Những ngun lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lê nin – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội – Năm 2015
2. Trang thông tin điện tử Bộ Lao động Thương binh và Xã hội – “Thực trạng


giải

pháp


cải

cách

tiền

lương

tại

Việt

Nam”

-

/>3. Tạp chí Cộng sản – “Lý luận hàng hóa sức lao động và tiền cơng của C. Mác
-



sở

quan

trọng

để

cải


cách

chính

sách

tiền

lương”

/>4. Wikipedia Tiếng Việt
/>
21



×