Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH mối QUAN hệ GIỮA đối NGOẠI và bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.73 KB, 22 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI NGOẠI VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Mối quan hệ giữa công tác đối ngoại và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là mối quan
hệ mật thiết gắn bó chặt chẽ, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau thì yêu cầu, nội dung và sự thể hiện mối quan hệ này có sự khác nhau.
Trong công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam, quan hệ giữa công tác đối ngoại
và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc càng trở nên chặt chẽ khăng khít, đối ngoại ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia,
trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên nền tảng tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ
quốc trong thời kỳ đổi mới.
1. Những vấn đề chung về đối ngoại và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
1.1. Quan điểm đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Đối ngoại là toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm,
phương hướng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức,
đoàn thể chính trị - xã hội, của toàn dân và của cả cá nhân khi tham gia hoạt động
quốc tế nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao
vị thế của quốc gia dân tộc mình trên trường quốc tế.
Trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
gắn với đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và những bài học rút ra từ kinh
nghiệm thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn sáng suốt đề ra chiến lược, sách
lược đối ngoại cụ thể và đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần to lớn vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới, khu vực và trong
nước có sự biến động to lớn, Đảng ta đã có sự chuyển biến căn bản về nhận thức
1


trên các lĩnh vực, trong đó có đổi mới tư duy đối ngoại với cách tiếp cận toàn diện
hơn, coi thế giới như môi trường tồn tại, phát triển của đất nước. Cũng từ đó, gắn với


các nhiệm kỳ Đại hội Đảng, tư duy đối ngoại của Đảng ta không ngừng phát triển gắn
với quá trình vận động của thế giới và vị thế của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, tư duy đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục
được Đại hội XI khẳng định đó là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” 1. Như
vậy, về quan điểm đối ngoại trong các văn kiện này vừa có sự kế thừa đường lối
đối ngoại của 25 năm đổi mới, vừa thể hiện rõ nét tư tưởng ngoại giao Hồ Chí
Minh, nắm chắc ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy thế mạnh đặc thù của các binh chủng đối
ngoại, làm nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ mới.
Về mục tiêu đối ngoại: Cương lĩnh và Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng
đã nêu rõ mục tiêu đối ngoại là “vì lợi ích quốc gia dân tộc” và “vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau và là
mục tiêu cao nhất mà mọi hoạt động đối ngoại phải hướng tới thực hiện. Bảo đảm
lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với
lợi ích quốc gia, dân tộc và là điều kiện để thực hiện các lợi ích đó. Mục tiêu hoạt
động đối ngoại trên còn thể hiện tính trách nhiệm cao của Đảng trước dân tộc, bởi
vì đường lối đó cho thấy Đảng ta luôn đại diện cho quyền lợi dân tộc, hành động vì
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr 83 – 84.

2



quyền lợi dân tộc, và luôn gắn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Đồng thời còn
thể hiện tính trách nhiệm cao trước sự nghiệp cách mạng thế giới vì các mục tiêu
cao cả của nhân loại hướng tới hòa bình, phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội.
Về nhiệm vụ của công tác đối ngoại:
Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là
giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” 2. Điểm mới về nhiệm vụ của công tác đối ngoại
trong Văn kiện Đại hội XI so nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong văn kiện Đại hội X
là xác định nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới là
phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và “nâng cao vị thế đất nước”. Nhiệm vụ đối
ngoại này cho thấy rõ yêu cầu đối với công tác đối ngoại trước hết phải là phải phấn
đấu cho sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, nó
đáp ứng những phát triển mới của tình hình đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế
toàn diện và sâu rộng, với những thuận lợi và những khó khăn thách thức mới. Đồng
thời khẳng định vai trò quan trọng của công tác đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và góp phần nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối ngoại phải xuất phát từ lợi ích tối cao của dân
tộc là vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh và ngày càng có ảnh hưởng
rộng rãi trên thế giới.
Các nguyên tắc hoạt động đối ngoại:
Nhằm tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục
đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu, ổn định và bền vững, Đại hội XI khẳng
định các nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt đối với toàn bộ hoạt động đối ngoại của
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr .236.
3



Đảng và Nhà nước ta là phải “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ,
vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc”;đó là: tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua
thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Bên cạnh những nguyên tắc cơ bản, nhất quán này, Văn kiện Đại hội XI, phần
định hướng đối ngoại về giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới
trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết các vấn
đề tồn tại trên cơ sở các “Nguyên tắc ứng xử của khu vực - DOC”3. Đây là sự bổ sung
mới của Đảng ta trước những diễn biến mới của tình hình khu vực, và khẳng định sự tuân
thủ nghiêm túc các nguyên tắc ứng xử chung của khu vực.
Về phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại
Trên cơ sở kiên trì bốn phương châm xử lý các vấn đề đối ngoại được Hội
nghị Trung ương 3 khóa VII vạch ra; điểm mới trong phương châm đối ngoại của
các văn kiện Đại hội XI nêu lên là: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; “và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Có thể hiểu phương châm “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”; “và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” của Đảng trên những nội dung
cơ bản sau:
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế: đây là mốc đánh dấu bước chuyển
mới trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng. Nếu như ở Đại hội IX, Đảng ta
mới đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”4, thì ở Đại
hội X, chủ trương đó đã được bổ sung ở mức độ khẩn trương hơn, qui mô rộng
hơn, đó là “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
3
4


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr 237.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr 43.
4


tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”5. Trước bối cảnh mới của tình hình quốc tế, Đại
hội XI đã phát triển chủ trương này thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế”. Với chủ trương này, nội hàm của hội nhập quốc tế không còn bó hẹp ở lĩnh
vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng - an ninh...
Là thành viên có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế
Từ đường lối đối ngoại mở cửa ban đầu là “Việt Nam muốn là bạn với tất cả
các nước trên thế giới” (Ðại hội Ðảng lần thứ VII, lần thứ VIII), đến Đại hội IX,
phương châm của Đảng đã chuyển sang tư thế chủ động hơn là “Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Trạng thái
“sẵn sàng” đó đã được chuyển sang việc khẳng định chắc chắn trên cơ sở thế và
lực mới của đất nước ở Đại hội X là Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực. Đến Đại hội XI, quan điểm đó được phát triển thêm một bước mới, khẳng
định việc Việt Nam không chỉ tham gia tích cực mà còn đóng vai trò là thành viên
có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình và phát triển bền
vững. Đây là sự hoàn chỉnh và bổ sung góp phần củng cố hơn nữa lòng tin cho các
đối tác nước ngoài khi thiết lập quan hệ và triển khai hợp tác với các nước trên tất cả
các lĩnh vực, cũng như trước cộng đồng quốc tế. Đồng thời thể hiện bước trưởng
thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có
trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và
toàn cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương.
Là thành viên có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn luôn sẵn
sàng, tích cực phát huy vai trò và chủ động tham gia mọi hoạt động của cộng đồng quốc

5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006, tr 112.

5


tế với tinh thần, ý thức cao nhất, thể hiện khả năng đóng góp đầy trách nhiệm của Việt
Nam trong việc giải quyết các vấn đề an ninh - chính trị quốc tế quan trọng.
Quan điểm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đại hội XI thể hiện
sự khẳng định toàn diện theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường. Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ
hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Hội nhập
toàn diện vào đời sống quốc tế sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức
tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất
nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng
cao trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh
tế quốc tế chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực đặt ra cho nước ta
những thách thức mới, những bất ổn mới không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh,
chính trị, xã hội từ bên ngoài tác động tới nước ta và có thể làm phương hại đến
an ninh quốc gia, từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị - xã hội… Hội nhập
quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội
vừa không ít thách thức, do đó lộ trình và bước đi của hội nhập quốc tế cần phải
được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước; tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt
trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường hợp,
thời điểm cụ thể; chống phải tư tưởng trì trệ, thụ động hoặc giản đơn, nôn nóng.
Tựu trung, phải kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, vận dụng sáng
tạo phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến,

ứng vạn biến” nhằm mục đích quan hệ đôi bên cùng có lợi, cùng phát triển.

6


Về phương hướng hoạt động đối ngoại là: “Triển khai đồng bộ, toàn diện
hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả các
hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu”6.
1.2. Tư duy mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa
Cũng như đối ngoại và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tư duy về bảo
vệ Tổ quốc của Đảng ta cũng từng bước được hoàn thiện. Đặc biệt sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, cục
diện thế giới đã có những biến đổi cực kỳ sâu sắc, phong phú, phức tạp, mau lẹ và
khó lường. Đối tác, đối tượng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
chúng ta cũng có những đặc điểm mới, biến động mới, khác trước. Cùng với quá
trình đổi mới đi vào chiều sâu và phát triển toàn diện, tình hình trong nước cũng
xuất hiện nhiều đặc điểm mới với cả thời cơ lớn và những thách thức gay gắt, nguy
cơ mới.
Nhận thức kịp thời và sâu sắc những vấn đề trên, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 (Khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã khẳng
định một hệ thống quan điểm mới của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc với 6 nội dung
không tách rời nhau: “Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ; Hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; Ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước; Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; Năm là, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; Sáu là, giữ vững ổn định chính trị và môi
trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Để đạt được mục tiêu của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Nghị quyết nhấn mạnh cần phải thực hiện tốt 6 nhiệm vụ cơ bản:


6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr 235
7


Một là, giữ vững hoà bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ
Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn
với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá;
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ
xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết
các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh
thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân,
trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế ưu tiên phát
triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và
trung tâm lớn.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI chỉ rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm,
nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ Tổ quốc, trong đó:
Về mục tiêu: cơ bản không thay đổi so với trung ương 8 khóa IX là: Bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm

8


mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta. Đó là mục tiêu lâu dài.
Về quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, nhận thức và giải quyết tốt vấn đề đối tác và đối tượng. Trung ương
đặc biệt nhấn mạnh: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền của ta là đối tác. Những
ai chống phá ta đều là đối tượng đấu tranh. Trung ương chỉ rõ: Cần có cách nhìn
biện chứng trong xử lý các tình huống. Bởi vì, trong đối tác có mặt là đối tượng;
trong đối tượng có mặt là đối tác. Trung ương nhấn mạnh tính mềm dẻo linh hoạt,
thực hiện đúng lời dạy của Bác: “cái gì có lợi cho dân thì làm, cái gì có hại cho dân
thì tránh”.
Thứ hai, nhân tố bên trong là quyết định, nhân tố bên ngoài là quan trọng; để
giữ vững hòa bình, cần cảnh giác cao, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, bảo
vệ Tổ quốc từ xa, từ trong khi đất nước chưa lâm nguy, trong thời bình. Bởi vì, có
giữ vững môi trường hòa bình thì chúng ta mới phát triển kinh tế, xây dựng đất nước
thuận lợi. Đó cũng là phương cách sẵn sàng đánh bại sự xâm lăng của địch trong
mọi tình huống.
Về phương châm chỉ đạo: Nguyên tắc là phải giữ vững hòa bình, khi có bất
trắc xảy ra thì cương quyết xử lý hiệu quả; song sách lược là mềm dẻo, linh hoạt,
uyển chuyển; không để lây lan, kết hợp giáo dục với nghiêm khắc xử lý đối tượng
chủ mưu.
Như vậy, quan niệm trên là một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng
về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sự phát triển mới thể hiện ở những điểm sau:
Trước đây, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta thường chú trọng đến bảo vệ

độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Tư duy
mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay gắn mục tiêu trên với nhiệm vụ bảo vệ
Đảng, nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình mới, nhằm bảo
đảm vững chắc an ninh sinh tồn và an ninh phát triển của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
9


Đảng ta khẳng định, không chỉ bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, mà còn là bảo vệ nhân
dân, giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng; chống kẻ thù
xâm lược từ bên ngoài và bọn phản động bên trong cấu kết với nhau; “diễn biến hòa
bình” của chủ nghĩa đế quốc, chống “tự diễn biến” trong nội bộ ta.
Trong hoàn cảnh mới, điều kiện rất mới của quốc tế và trong nước, một mặt
phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình, sẵn sàng
đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống;
mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các
biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn
chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối
ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới. Chúng ta nhận thức về đối tượng
và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy
rõ vai trò quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng với an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa
quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện,
sâu sắc, biện chứng hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối
cảnh mới. Đó là một thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
Khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy việc giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.

Xác định nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng. Kế thừa truyền
thống giữ nước của cha ông là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước”, sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, phát triển kinh
tế là trung tâm, là một trong những nhân tố quan trọng bảo vệ Tổ quốc bảo đảm an
10


ninh, kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đặt
vấn đề an ninh trong mối quan hệ tổng thể và toàn diện, không tách rời an ninh,
quốc phòng với các lĩnh vực khác.
Kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa, sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước.
Phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc.
Nội dung trên cho thấy sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng an ninh - đối ngoại với kinh tế vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa. Trong
đó, vai trò quan trọng của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa được thể hiện ở chỗ, góp phần quan trọng vào việc giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho xây dựng, phát triển đất nước thông qua
hoạt động ngoại giao song phương và đa phương, trong đó có đấu tranh đối ngoại
và thực hiện công tác biên giới, lãnh thổ. Đối ngoại góp phần đưa quan hệ của
nước ta với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng và các nước lớn từng
bước đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững; tạo “thế” trong quan hệ giữa ta với các
nước và các tổ chức trong khu vực và quốc tế, phát huy vai trò, nâng cao vị thế
quốc tế của Việt Nam, tăng cường quan hệ hiểu biết, đoàn kết, hữu nghị giữa Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm mục tiêu tăng cường nội
lực cho quốc phòng, an ninh. Đấu tranh đối ngoại của chúng ta phải góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi các âm mưu và hành động lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của ta nhằm thực hiện “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

2. Mối quan hệ giữa đối ngoại và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiên nay.

11


2.1. Đối ngoại là nhân tố quan trọng trong sức mạnh tổng hợp quốc gia,
sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm sức mạnh tổng hợp là quan điểm cơ bản của Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng ta coi sức mạnh tổng hợp quốc gia là
"Sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại"; đồng thời xác định: “Sức mạnh bên trong của đất nước, sức
mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc là nhân tố quyết định”7.
Quan điểm sức mạnh tổng hợp đó của Đảng hiện nay thể hiện trên những vấn
đề cơ bản là: Thứ nhất, đó là sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam, sức mạnh
của cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống
và hiện đại. Thứ hai, đó là sức mạnh tổng hợp của các nhân tố chính trị, kinh tế,
khoa học công nghệ, văn hóa, quân sự, đối ngoại, biểu hiện trong sức mạnh vật
chất, tinh thần của cộng đồng người Việt Nam trong nước và người Việt Nam sinh
sống ở nước ngoài. Thứ ba, sức mạnh tổng hợp là sự kết hợp sức mạnh của dân tộc
và sức mạnh của thời đại, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, trong đó
sức mạnh bên trong là quyết định.
Trong sức mạnh tổng hợp quốc gia, đối ngoại là nhân tố quan trọng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: "Ngoại giao ai thuận lợi hơn thì thắng" 8. Người nói: "Vì
ta khéo lợi dụng điều kiện quốc tế ở ngoài, vì ta khéo đoàn kết và khéo tổng động
viên trong nước, cho nên ta đã đổi thế yếu thành thế mạnh" 9. Người cũng cho rằng:
“Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập"10. Tầm quan trọng của đối ngoại trong sức mạnh
tổng hợp quốc gia biểu hiện ở chỗ, nó không những là bộ phận cấu thành quan

7

Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 46.
8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập.3, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 518, 527; 514.
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 81-82.
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 522.
12


trọng, mà còn góp phần làm phát huy các nguồn sức mạnh khác, làm gia tăng sức
mạnh bên trong, hợp nên tính tổng thể của sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, đối ngoại
và công tác đối ngoại càng trở nên quan trọng. Sức mạnh tổng hợp quốc gia sẽ
không được đầy đủ, đất nước sẽ không thể tạo nên được sức mạnh tổng hợp lớn
nhất nếu như đối ngoại không thực sự mạnh, không đáp ứng yêu cầu.
Công tác đối ngoại là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển sức
mạnh tổng hợp quốc gia. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nêu rõ "muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực
lực". Người cho rằng, ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau; nếu mình có
một chương trình về kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể giúp mình.
Chiến lược phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia là chiến lược phát triển toàn
diện đất nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại trong chỉnh thể thống nhất, tạo nên sự phát triển nhịp nhàng trên các lĩnh
vực, các mặt; các lĩnh vực, các nguồn sức mạnh lại thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng
phát triển trong sức mạnh tổng hợp quốc gia. Điều đó có nghĩa là, sự phát triển
từng lĩnh vực, từng nguồn sức mạnh phải góp phần thực tế vào việc củng cố, gia

tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Vì thế, trong chiến lược phát triển sức mạnh
tổng hợp quốc gia, việc đẩy mạnh hoạt động đối ngoại để gia tăng sức mạnh tổng
hợp quốc gia; đồng thời tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi thế cho sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Trong tình hình mới, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đối ngoại
trong chiến lược phát triển sức mạnh tổng hợp quốc gia, đối với sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đối ngoại,
đề ra quan điểm, chính sách đối ngoại đúng đắn, phù hợp, nhằm phát huy cao nhất
vai trò của công tác đối ngoại trong chiến lược phát triển sức mạnh tổng hợp quốc
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
13


độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) xác định rõ đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị tế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đó là
quan điểm nhất quán phản ánh phương hướng, mục tiêu và cách thức trong quá
trình hội nhập quốc tế của nước ta; thể hiện phương hướng, mục tiêu của công tác
đối ngoại đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai
đoạn mới.
2.2. Mối quan hệ giữa mục tiêu đối ngoại với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Đây là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó,
đối ngoại bao giờ cũng là một bộ phận của đường lối đối nội và phục vụ cho đường lối
đối nội; đường lối đối nội quy định và đặt ra mục tiêu, yêu cầu, nội đung cho đường lối
đối ngoại. Vì thế, thực chất mối quan hệ giữa mục tiêu đối ngoại với nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại

và đường lối đối nội trong chỉnh thể thống nhất. Theo đó, mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
chịu sự quy định và nhằm phục vụ thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đối nội, phục vụ thắng
lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, mục tiêu, nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lại quy định, chi phối mục tiêu, nhiệm vụ của công tác
đối ngoại.
Mối quan hệ giữa mục tiêu đối ngoại với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
là thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc tách ra giữa mục tiêu đối ngoại
với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là chỉ có ý nghĩa tương đối bởi sự gắn
kết không thể tách rời giữa vấn đề đối nội và vấn đề đối ngoại trong chiến lược
phát triển của đất nước, cũng như trong chiến lược phát triển sức mạnh tổng hợp
14


quốc gia. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu đối ngoại bao giờ cũng được xác
định một cách rõ ràng, nhất quán, là một lĩnh vực hoạt động của cách mạng, không
tách rời với mục tiêu đối nội. Theo Người, muốn làm gì cũng phải "vì lợi ích dân
tộc mà làm"; mục tiêu đối ngoại là nhằm bảo đảm các quyền cơ bản cho đất nước,
lợi ích quốc gia dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, đối
ngoại vì hoà bình.
Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa quy định và đặt ra mục tiêu,
nhiệm vụ của công tác đối ngoại của nước ta trong tình hình mới. Trên cơ sở nhận thức
rõ mối quan hệ giữa mục tiêu đối ngoại với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
năm 1991 xác định: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”11. Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và chỉ
rõ: "Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi
cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực

vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới"12.
Nhiệm vụ công tác đối ngoại ấy trực tiếp phục vụ mục tiêu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới: "Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn
định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
11
12

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 326.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 236.
15


nghiệp cách mạng của nhân dân ta"13. Môi trường hòa bình, thuận lợi; nâng cao vị
thế đất nước; góp phần vào cuộc đấu tranh trên thế giới, mà công tác đối ngoại
thực hiện và mang lại sẽ trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Công tác đối ngoại, rõ ràng không chỉ phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước; mà còn phục vụ trực tiếp, có hiệu quả
cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, đối ngoại ngày càng được kết hợp chặt chẽ
với quốc phòng, an ninh và với kinh tế, văn hóa trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta.
Trong tình hình mới, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, tình hình
chính trị quân sự trên thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường. Đông Nam
Á trở thành địa bàn cạnh tranh quyết liệt về thị trường và tài nguyên; tranh chấp
lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp. Đã xuất hiện một số loại hình
chiến tranh kiểu mới, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, sử dụng sức
mạnh mềm thông qua các hoạt động kinh tế, ngoại giao, văn hóa kết hợp với “diễn

biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ… hết sức nguy hiểm. Ở trong nước, sự nghiệp đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh kết quả, thành tựu đã đạt được, vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, làm xuất hiện những vấn đề phức tạp mới ảnh hưởng
tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong điều diện đó, Chúng ta phải
nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”;
“giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nghĩa là, làm sao cho kinh tế phải vững, quốc
phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn
định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”14.
Như vậy, trong tình hình mới vấn đề làm thế nào để thực hiện được tư tưởng
chỉ đạo “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy
13

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 81-82.
Phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khóa XI
ngày 09/10/2013, Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 10/10/2013, tr. 4.
14

16


cơ chiến tranh, xung đột "từ sớm, từ xa" đã trở thành vấn đề đặc biệt quan trọng
đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Vấn đề đó đặt ra cho công tác
đối ngoại phải vươn lên đủ sức đáp ứng yêu cầu, đồng thời quy định rõ mục tiêu,
nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong bối cảnh lịch sử mới theo tư duy mới về bảo
vệ Tổ quốc của Đảng nhằm góp phần phục vụ những yêu cầu, đòi hỏi về "ngăn
ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh", thực hiện bảo vệ Tổ quốc "từ sớm, từ xa".
2.3. Đổi mới nội dung và phương thức đối ngoại trong bối cảnh hội nhập
quốc tế để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia hiện nay.
Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước tiếp tục có những diến biến phức tạp.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Những nguy cơ chiến tranh, xung đột còn
chưa được loại bỏ trên thế giới như bạo lực ở Trung Đông, Bắc Phi, ở Sirya và
những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên. Đông Nam Á còn gặp nhiều
khó khăn thách thức; Biển Đông vẫn chưa lặng sóng vì những tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ... chỉ cần một hành vi thiếu trách nhiệm sẽ có thể dẫn tới xung đột,
thậm chí dẫn tới chiến tranh. Vấn đề đảm bảo độc lập, chủ quyền quốc gia, thể chế
chính trị đất nước, sự lãnh đạo của Đảng gặp nhiều khó khăn, thách thức to lớn. Để
bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay,
công tác đối ngoại cần thực hiện nhiều nội dung, hình thức đồng bộ, trước hết cần
đổi mới và thực hiện tốt những nội dung cơ bản và chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh”15. Thực hiện tốt phương châm “chủ động, tích cực” trong hội
nhập quốc tế; góp phần “điều chỉnh” những nội dung, định chế, thúc đẩy phương

15

Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG, H 2011, tr. 235-236.
17


hướng, mục tiêu hoạt động của tổ chức khu vực và quốc tế theo hướng có lợi nhất
cho độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia dân tộc.
Hai là, đẩy mạnh công tác đối ngoại kiến tạo và củng cố môi trường hòa bình,
thuận lợi cho bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tạo môi trường hòa bình, ổn định và lợi
thế cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt nhiệm vụ “giữ
vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị

thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”16. Công tác đối ngoại phải cùng với các
quốc gia và các dân tộc trên thế giới ngăn chặn bàn tay chết chóc của chiến tranh,
của khủng bố, của bạo lực, và nếu không ngăn chặn thì cũng “đừng tiếp tay”,
“đừng làm ngơ”. Quảng bá cho thế giới hiểu rõ và có tình cảm tốt đẹp về Việt
Nam, "góp phần tạo ra thế và lực mới cho đất nước” 17. Làm cho thế giới hiểu rõ
những gì Việt Nam đã và đang làm đều hướng tới lòng nhân văn, nhân đạo cho xã
hội, cho cộng đồng; Việt Nam từng chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh nên thấu
hiểu chiến tranh đem đến điều gì cho nhân loại nên chắc chắn rằng, Việt Nam
không bao giờ ủng hộ chiến tranh hay bất kỳ hành động nào đem lại đau khổ cho
cuộc sống con người. Quan tâm "Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền,
vùng trời, vùng biển và hải đảo. Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước"18.
Đối với Biển Đông, công tác đối ngoại phải thể hiện rõ quan điểm: trước sau
như một nhất quán chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình đồng thời vì lợi ích chung, phù hợp với luật pháp
quốc tế, công ước luật biển 1982, tuân thủ Tuyên bố ứng xử của các bên trên Biển
16

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 236.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 156.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 137.
17

18


Đông (DOC), các thỏa thuận khu vực và sớm tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển

Đông (COC).
Ba là, xử lý tốt vấn đề đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh. Tiếp tục
quán triệt và thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đảng về đối tượng và đối tác
trong thời kỳ mới tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám khoá IX và
đã cụ thể, phát triển thêm trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám
khoá XI: Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cũng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của
chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh...
Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối tác, có thể
có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta... Đồng thời, thực hiện tốt phương
châm đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương, đa dạng, thêm bạn bớt thù,
kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược.
Công tác đối ngoại cần hướng mạnh vào thực hiện tư tưởng chỉ đạo quan
trọng của Đảng: "Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đều quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa
bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh"19. Trong quá trình hội nhập quốc tế, dù nước ta có phải thực hiện
sự điều chỉnh nào đó “sao cho phù hợp với quy định chung theo cam kết khi hội
nhập”20, nhưng phải kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ. Có giữ vững được độc
lập, tự chủ thì mới củng cố và phát huy được vai trò của mình trong hội nhập, trong
19

Thông báo Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày
10/10/2013, tr. 5.
20
Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 63.

19


các tổ chức và thiết chế khu vực, quốc tế mà nước ta tham gia, tiếng nói của quốc
gia mới trở nên “có trọng lượng” trong các quan hệ quốc tế.
2.4. Công tác đối ngoại phải góp phần thực hiện tốt tư tưởng bảo vệ Tổ
quốc "từ sớm, từ xa".
Bảo vệ Tổ quốc từ xa là khái niệm chỉ toàn bộ nội dung, cách thức hoạt động
của Nhà nước và nhân dân để ngăn ngừa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta từ bên ngoài, từ nơi phát sinh ra âm mưu, thủ đoạn đó. Nếu như
một tổ chức, quốc gia nào đó chuẩn bị ra chính sách chống Việt Nam, thì nhiệm vụ
đối ngoại bảo vệ Tổ quốc từ xa là phải cố gắng đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao
Nhà nước và cá nhân, các tổ chức phi chính phủ nhằm không đưa những nội dung
chống phá, thù địch vào chính sách; nếu không đạt được điều đó thì cố gắng hạn chế
tính chất thù địch đến mức thấp nhất những nội dung được chuyển tải vào chính
sách. Ở đây, vấn đề phát hiện âm mưu gây chiến với nước ta, tìm mọi cách dập tắt
âm mưu đó khi còn manh nha là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong tình hình đó, bảo vệ Tổ quốc từ xa thực chất là tiến công nhằm dập tắt
những mưu toan gây chiến tranh xâm lược Việt Nam từ xa, từ bên nước đối
phương, từ nơi xuất phát âm mưu đó. Không thể thụ động để cho âm mưu xâm
lược nước ta trở thành quyết tâm cụ thể, thành kế hoạch và hành động xâm lược.
Đương nhiên, đây là vấn đề hết sức phức tạp, không dễ dàng thực hiện, nhưng
trong bối cảnh của tình hình mới và với những điều kiện, vị thế mới của Việt Nam,
công tác đối ngoại có thể làm được và cần đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả.
Để có thể tiến công từ xa, phải biết cách sử dụng tổng hợp các hình thức, biện
pháp đấu tranh ngoại giao, trong đó đấu tranh bằng con đường chính phủ vẫn giữ vai
trò chủ đạo, song đấu tranh bằng các hình thức phi chính phủ cũng có vai trò rất
quan trọng, không thể xem nhẹ. Cần tranh thủ, tận dụng tốt các tổ chức và diễn đàn
quốc tế, nhất là Liên hợp quốc, nhằm nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam, ngăn chặn
những âm mưu phá hoại cách mạng nước ta. Tận dụng những nhân tố tích cực có lợi

20


cho cách mạng tại bên đối phương, tại các nước đồng minh của đối phương, của cả
cộng đồng quốc tế, những nhóm cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, cộng
đồng xã hội tiến bộ ủng hộ Việt Nam, những nhân sĩ, các giới, nghị sĩ có thiện cảm
với nước ta. Tận dụng hoạt động của các “tổ chức xã hội độc lập”, các lực lượng
“vận động hành lang” của các cá nhân và tổ chức phi chính phủ bên nước đối
phương nhằm tạo áp lực đối với chính phủ đế quốc từ bỏ âm mưu gây chiến, hoặc từ
bỏ việc ra chính sách chống phá cách mạng Việt Nam.
Trong tình hình mới, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ xa cần đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả đối ngoại quốc phòng, sẵn sàng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình
của Liên hợp quốc. Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc là một
hoạt động đối ngoại quan trọng, khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam là
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, sẵn sàng đóng góp một cách tích cực, có trách
nhiệm vào các công việc chung của cộng đồng quốc tế, ủng hộ các mục tiêu cao cả
của Liên hợp quốc.

KẾT LUẬN

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng việt Nam, là vấn đề có quy luật trong tiến trình cách
mạng được rút ra từ truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc.
Trong tình hình mới, đặc điểm thế giới, khu vực có nhiều biến chuyển mau
lẹ, phức tạp, khó lường, thế và lực của đất nước ngày càng được nâng lên; Chính
điều kiện mới đã tác động sâu sắc đến quan điểm, tư duy về bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong đó, giải quyết mối quan hệ giữa đối ngoại
với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có vai trò hết sức quan trọng.
21



Thực chất giải quyết mối quan hệ giữa đối ngoại với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc là giải quyết mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa đường lối đối nội và đường lối
đối ngoại; Nắm vững và thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại là cơ sở để tạo ra
môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, muốn
bảo vệ vững chắc Tổ quốc không thể không giải quyết tốt mối quan hệ bên trong
và bên ngoài; đây còn là quan điểm chỉ đạo và là chủ trương nhất quán trong tư
duy bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta hiện nay.
Gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là
yêu cầu khách quan trong tình hình mới, phù hợp với xu thế thời đại và đặc điểm,
điều kiện của đất nước hiện nay. Để đạt được chất lượng hiệu quả kết hợp đối
ngoại với quốc phòng, an ninh cần phải có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn, của cả
hệ thống chính trị và nhân dân, trên hết là đội ngũ cán bộ có trách nhiệm trong hệ
thống chính trị các cấp về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về
hoạt động quốc phòng, an ninh và đối ngoại, về vai trò, nội dung, phương thức và
các giải pháp cơ bản kết hợp đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Đây là cơ sở để tổ
chức, triển khai sự gắn kết trong hoạt động đối ngoại, quốc phòng, an ninh chủ
động, có kế hoạch, có chất lượng và hiệu quả cao.

22



×