HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA
TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN
ĐẾN TRUYỆN TRUYỀN KỲ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Phạm Văn Hóa1
Tóm tắt: Thông qua khảo sát hệ thống nhân vật yêu ma trong truyện cổ dân gian
người Việt ở Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi sưu tầm & biên soạn),
và truyện truyền kỳ ở các tập Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kỳ mạn lục
(Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), bài viết bước đầu cho thấy biểu hiện
cụ thể của sự kế thừa văn học dân gian ở các mặt yếu tố cội nguồn văn hoá, nội dung
phản ánh, cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật yêu ma. Bài viết cũng nhấn mạnh
những bước tiến nhảy vọt của tác phẩm truyền kỳ trong việc xây dựng nhân vật yêu ma ở
xu hướng nội dung thế tục hóa và tính thời đại. Với hình tượng nhân vật yêu ma, truyện
truyền kỳ thể hiện nổi bật bước chuyển biến trong tư duy nghệ thuật và phát huy ưu thế
phản ánh cuộc sống của văn học. Bài viết góp phần cho thấy cống hiến của truyện truyền
kỳ đối với sự phát triển của văn xi tự sự trung đại Việt Nam.
Từ khố: Việt Nam, Truyện cổ tích, Truyện truyền kỳ, Yêu ma, Kế thừa, Bước tiến.
1. Đặt vấn đề
Tác phẩm truyền kỳ không chỉ tiêu biểu cho tư tưởng nghệ thuật của truyện chữ
Hán mà còn mở đầu cho trào lưu sáng tác truyện ngắn trung đại Việt Nam. Nhiều nhà
nghiên cứu đã khẳng định truyện truyền kỳ tiếp nhận ảnh hưởng của truyện truyền kỳ
Trung Quốc (truyện truyền kỳ Đường Tống). Nhưng như nhà nghiên cứu người Đài
Loan Trần Ích Nguyên khi khảo sát mối quan hệ giữa Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ)
với Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu) trên các phương diện nội dung tình tiết, kết cấu và
ngơn ngữ nghệ thuật đã khẳng định: “Tác giả truyền kỳ Việt Nam không đơn giản chỉ
học hỏi kinh nghiệm nghệ thuật truyền kỳ Trung Quốc mà còn sáng tạo và đổi mới trên
cơ sở kế tục truyền thống văn học dân tộc Việt Nam” (Trần Ích Ngun, 2000, tr. 48).
Thơng qua khảo sát hệ thống nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích ở Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi sưu tầm & biên soạn), và truyện truyền kỳ ở các tập
Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), Truyền kỳ tân
phả (Đoàn Thị Điểm)2, bài viết bước đầu cho thấy biểu hiện cụ thể của sự kế thừa văn
học dân gian và những bước tiến nhảy vọt của tác phẩm truyền kỳ. Có thể nói, bước tiến
này để lại cho hậu thế một kho tàng kinh nghiệm nghệ thuật quý báu, tạo đà cho truyện
ngắn hiện đại phát triển.
2. Yếu tố truyền thừa của hình tượng nhân vật u ma từ truyện cổ tích đến
truyện truyền kỳ
1. TS, Trường Đại học Đà Lạt
2. Trong bài viết, Thuật ngữ viết tắt: Truyện cổ tích: TrCT; Truyện truyền kỳ: TrTK. Tập truyện viết tắt:
Thánh Tông di thảo: TTDT; Truyền kỳ mạn lục: TKML; Truyền kỳ tân phả: TKTP
28
PHẠM VĂN HĨA
2.1. Một số yếu tố văn hóa cội nguồn chi phối việc xây dựng hình tượng nhân vật
yêu ma
Việc phân loại thế giới nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ có
nguồn gốc sâu xa từ văn hóa3. Mỗi loại nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích và truyện truyền
kỳ đều có cơ sở hình thành và hàm ý văn hóa khác nhau. Theo diễn trình tư duy nghệ thuật
của con người thì nhân vật yêu ma được hình thành sớm nhất từ hệ thống quan niệm tín
ngưỡng dân gian “vạn vật hữu linh”. Bên cạnh đó, hình tượng nhân vật u ma cịn phản ánh
đời sống tơn giáo của người Việt xưa. Sự phát triển của loại nhân vật này từ thần linh đến ma
quỷ trong lịch sử văn hoá là một q trình “con người hóa” thế giới chung quanh. Phật giáo,
Nho giáo và Đạo giáo là những hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu đậm thế giới quan, chi phối
nhân sinh quan của con người thời kỳ phong kiến. Vì vậy, cùng với các hình tượng nhân vật
khác, yêu ma khơng thể khơng phản ánh đời sống văn hóa tơn giáo của con người Việt Nam
thời kỳ này. Đó là tư tưởng “thiên mệnh”, “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân cảm ứng” của
Nho giáo. Tư tưởng này cho rằng, thiên tử thống trị thiên hạ, nên thiên tử/quân tử phải có
“đạo đức”, phải biết “tu thân”, đồng thời, gắn với ý nguyện nhân dân. Yêu ma là hiện tượng
dị thường trong đời sống hiện thế, nhà nho cho rằng sự xuất hiện này liên quan đến “đức
hạnh” của vua. “Thiên tai” là do trời khiển trách, “tai hoạ bất thường” là do trời biểu thị uy
phong. Xuất hiện cảnh báo từ trời mà con người không thay đổi hành vi, khơng hối cải thì
sẽ lấy u ma để đe dọa trừng trị. Sự xuất hiện của yêu ma trong cổ tích và truyện truyền kỳ
đều liên quan tình trạng xã hội rối loạn, không hợp ý trời (Hai ông tướng Đá Rãi, Cứu vật
vật trả ân cứu nhân nhân trả oán,Con ma báo thù-TrCT,Truyện yêu nữ Mai Châu, Bữa tiệc
đêm ở Đà Giang, Lý tướng quân-TrTK,...). Hình tượng nhân vật yêu ma trong truyện truyền
kỳ còn đậm đặc sắc màu nhân quả báo ứng, nghĩa lý đạo Phật (Chuyện Lý tướng quân,
Chuyện người con gái Nam Xương - TKML), là thiện ác ở đời, là trừng phạt kẻ ác (Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên, Chuyện tướng Dạ Xoa - TKML), là chuyện duyên phận (Chuyện
Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, Chuyện gã trà đồng giáng sinh - TKML4),... Người Việt
Nam từ xưa đã tin vào sự khác biệt giữa giàu nghèo, sang hèn và quan hệ giữa kẻ áp bức
với kẻ bị áp bức là kết quả làm phúc hay gây nghiệp của kiếp trước. Các truyện trên như lời
yêu cầu con người phải tu nhân tích đức, thành kính hướng đến Phật, từ đó nhận được sự an
ủi về tinh thần và tâm lí. Đạo giáo cũng cho thấy tác động trong việc xây dựng hình tượng
yêu ma truyện cổ tích và truyền kỳ, trước hết và dễ thấy nhất là việc xem “tinh vật” chính là
yêu ma. Rất nhiều truyện cổ tích và truyện truyền kỳ kể về những yêu ma vốn là động thực
vật sau một thời gian dài tiếp nhận linh khí của trời đất núi sơng mà dần hóa thành tinh (Tiêu
diệt mãng xà, Rắn báo oán, Người câu cá nghèo khổ-TrCT; Duyên lạ ở Hoa quốc, Chuyện
lạ nhà thuyền chài, Truyện tinh chuột-TrTK,...). Những yêu ma dạng này thường biến đổi
về hình dạng, có bùa chú hay phép thuật thần thơng, có thể biến thành người có dung mạo
đẹp để mê hoặc nhân thế... Đạo giáo quan niệm vũ trụ có 3 giới, thượng – trung – hạ, thượng
3. Chúng tôi chia nhân vật yêu ma thành bốn loại: yêu ma là hồn người chết, yêu ma là người chết hóa
thành, yêu ma là nhân vật siêu nhiên đầu thai, yêu ma là động thực vật hay vật vô sinh.
4. Chúng tôi viết tắt Truyện cổ tích thành TrCT; Truyện truyền kỳ thành TrTK; Thánh Tông di thảo
thành TTDT, Truyền kỳ mạn lục thành TKML, Truyền kỳ tân phả thành TKTP.
29
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH...
giới là nơi tiên ở, trung giới là nơi người ở, hạ giới là nơi quỷ ở. Con người sống thiện thì
trở thành tiên, tiên có thể bị giáng làm người, người ác thành quỷ. Tiên, người, quỷ tồn tại
trong không gian khác nhau, giữa chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau “tuần hồn qua lại”.
Trong truyện cổ tích và truyền kỳ, nhiều yêu ma vốn là người, vì vi phạm một số điều trong
tu dưỡng bản thân mà thành yêu ma. Hình tượng u ma cổ tích và truyền kỳ còn là sự dung
hợp nhận thức về yêu ma của các thời kỳ khác nhau trong lịch sử. Tất cả góp phần giới định
hình tượng u ma trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ. Điều này cũng khiến cho nội
hàm của hình tượng u ma được đa dạng hóa.
2.2. Hình tượng nhân vật u ma góp phần phản ánh hiện thực xã hội phong kiến
Như chúng tơi đã nói, việc xây dựng hình tượng yêu ma trong truyện cổ tích và truyền
kỳ có thể chịu hai luồng ảnh hưởng: Thực tiễn đời sống phong tục và tôn giáo của nhân dân
và đặc biệt là khơng khí xã hội phong kiến có phần ảm đạm, bi thương cuối XVI. Nhân vật
yêu ma không chỉ phản ánh sức mạnh và sự bí ẩn của tự nhiên mà cịn phản ánh đặc tính
xã hội, lịch sử và văn hố. Nhân vật này trong cổ tích và truyền kỳ thường được xây dựng
có tính chất khái qt cao, điển hình cho một loại người nào đó trong xã hội. Khi trần gian
khơng có công lý hoặc công lý nằm trong tay kẻ bạc ác, quyền thế; khi dân nghèo bị coi
khinh, vua quan thì độc ác, bạo ngược, bất nhân; khi cương thường đạo lý bị đảo lộn cộng
với sự thống trị hà khắc của các lực lượng phong kiến, tất cả đẩy con người nhỏ bé vào tình
thế tuyệt vọng với một tương lai ảm đạm. Hầu hết yêu ma đều mang dáng hình của người
dân tội nghiệp, đáng thương: Cơ gái nghèo bị phụ tình hoặc bị ép buộc hơn nhân, tự tử, hồn
ma cô gái được ở cõi âm để báo thù (Con kiến kiện củ khoai, Người cưới ma-TrCT); Người
vợ cả chết sớm, người vợ vì uất ức bị chồng ruồng bỏ, lại bán cho người khác (Người dì ghẻ
ác nghiệt hay là sự tích con dế-TrCT, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện người
con gái Nam Xương, Chuyện nghiệp oan của Đào thị-TrTK), Người con mồ côi (Truyện
nghiệp oan của Đào thị-TrTK, Bính và Đinh-TrTK,...)... Những con người bị áp bức về mặt
chính trị, bị bóc lột về mặt kinh tế và bị bóp nghẹt, kiềm toả về mặt tinh thần đến với thế giới
yêu ma để tìm giải pháp cải thiện hiện thực. Họ chỉ có thể tìm đến một cuộc sống no đủ, tươi
đẹp, cũng như một tình u lứa đơi hạnh phúc ở thế giới khác. Đáng chú ý, hình tượng yêu
ma trong sáng tác dân gian lẫn truyện truyền kỳ thể hiện sự dung hợp của quan niệm yêu ma
từ các thời kỳ khác nhau trong văn hoá Việt Nam và đều hướng đến thế giới con người, lấy
cuộc sống con người làm nền tảng xây dựng hình tượng.
2.3. Mơ hình cốt truyện - nhân vật u ma
Mơ hình cốt truyện – nhân vật giàu chất folklore là một yếu tố nghệ thuật truyền thừa
của hình tượng nhân vật yêu ma từ truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ. Đây cũng là dấu hiệu
để chúng ta giải mã hình tượng yêu ma trong các tác phẩm truyền kỳ của nhà nho thế kỷ
XVI - XVII. Một vấn đề đặt ra là tại sao ngay từ khi mới xuất hiện, văn học viết, mà cụ thể
là truyện truyền kỳ lại có nhu cầu sử dụng folklore nhiều đến vậy. Không riêng ở Việt Nam
mà ngay cả với văn học lãng mạn Tây Âu thời trung cổ và nhiều khu vực văn học khác cũng
thường xuyên xuất hiện điều này. Trong bảng chỉ mục các motif văn học dân gian của Stith
Thompson có tựa đề Bảng phân loại các yếu tố tự sự trong truyện cổ tích, ballad, huyền
30
PHẠM VĂN HĨA
thoại, truyện ngụ ngơn, văn học trung đại, tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết exempla, truyện
thơ tiếu lâm, truyện cười và truyền thuyết địa phương”5, một điều chúng ta có thể dễ dàng
nhận ra rằng, trong cơng trình tra cứu kinh điển này của folklore, đặt bên cạnh các thể loại
rõ ràng là của văn học dân gian là sự xuất hiện của truyện lãng mạn thời trung cổ (medieval
romances). Các nhà nghiên cứu folklore theo trường phái so sánh loại hình và so sánh lịch
sử Mỹ đã nhóm các câu chuyện này, là sản phẩm của nền văn học thành văn vào bảng tra
các motif của văn học dân gian. Đó là sự thừa nhận về tình trạng thừa hưởng, tái tạo và biến
đổi các chất liệu dân gian của văn học viết thời kỳ đầu ở Tây Âu. Và như chúng tơi đã nói,
điều tương tự cũng xảy ra ở Việt Nam với truyện truyền kỳ.
Cốt truyện và nhân vật gắn bó với nhau như hình với bóng, chúng khơng thể tách rời
cũng khơng thể hợp nhất. Nhân vật nói chung khơng thể thốt ly khỏi cốt truyện, ngược lại
cốt truyện bao giờ cũng là cốt truyện của nhân vật. Khơng khó để ta nhận ra sự ảnh hưởng
của văn học dân gian đến tác phẩm truyền kỳ qua hình tượng nhân vật yêu ma. Rất nhiều
motif quen thuộc có gốc gác từ truyện cổ tích được sử dụng trong truyện truyền kỳ, như:
Người lấy yêu ma, yêu ma độ trì con người, yêu ma báo oán, yêu ma dọa nạt, yêu ma thử
lòng người,… Motif người lấy yêu ma trong: Truyện chồng dê, Duyên lạ xứ Hoa (TTDT),
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (TKML), Cây gạo (TKML),... Motif u ma độ trì con người có
trong: Truyện hai thần hiếu đễ, Người trần ở thuỷ phủ (TTDT), Chuyện người nghĩa phụ
Khoái Châu, Chuyện gã trà đồng giáng sinh (TKML),... Motif u ma báo ốn có thể thấy
trong các truyện: Chuyện Lý tướng quân, Chuyện yêu quái ở Xương Giang (TKML),... Motif
yêu ma dọa nạt, thử thách con người có trong: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Chuyện
đối tụng ở Long cung (TKML), Tinh chuột (TTDT),... Nhan đề của các truyện truyền kỳ trên
cũng khiến ta nhớ đến các kiểu truyện quen thuộc trong cổ tích thần kỳ người Việt. Những
motif nhân vật này xuất hiện trong sáng tác truyền kỳ, là cơ sở đánh dấu ảnh hưởng của
truyện cổ tích lên thể loại này, cũng như cho thấy q trình chín muồi của nghệ thuật tự sự
nước nhà. Cùng với sự trưởng thành trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật yêu ma,
truyện truyền kỳ có bước đột phá về trình độ, ý thức vận dụng ngơn ngữ, hình ảnh,... Việc
tiếp thu kỹ thuật tạo dựng motif từ folklore một mặt mang tính vơ thức xuất phát từ văn hóa,
mơi trường sống và nền giáo dục mà nhà nho được thụ hưởng. Một mặt, đó là sản phẩm của
sự tự ý thức về mặt kĩ thuật viết trong tác phẩm văn học có yếu tố kỳ ảo. Điều này đánh dấu
quá trình chuyển tiếp của yếu tố kỳ ảo trong folklore như một đặc trưng về mặt tư duy, sang
đến truyền kỳ đã phát triển thành một đặc tính về mặt nghệ thuật.
Khảo sát mơ hình cốt truyện – nhân vật u ma trong truyện truyền kỳ, chúng tôi
mạnh dạn chia thành các kiểu như sau: Kiểu cốt truyện – nhân vật “duyên kỳ ngộ” - nhân
vật yêu ma gặp người trần, khi con người “đi lạc” vào thế giới siêu nhiên (15/30 truyện):
Chuyện lạ nhà thuyền chài, Duyên lạ xứ Hoa quốc, Chồng dê (TTDT), Chuyện cây gạo,
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, (TKML), Bích Câu kỳ ngộ (TKTP),... Kiểu cốt truyện – nhân
vật yêu ma dụ dỗ, mê hoặc con người có khi là để kết duyên, có khi là để làm hại (10/30
5. Dẫn theo Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif - Những khả thủ
và bất cập”, Nghiên cứu Văn học, số 7, tr. 98.
31
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH...
truyện): Tinh chuột, Chồng dê (TTDT) Chuyện cây gạo, Bữa tiệc đêm ở Đà Giang (TKML),
Vân Cát thần nữ, Bích Câu kỳ ngộ (TKTP),... Kiểu cốt truyện – nhân vật yêu ma hiện về
trong giấc mơ của con người (10/30 truyện): Truyện hai thần hiếu đễ, Duyên lạ ở Hoa quốc,
Truyện một giấc mộng (TTDT), Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (TKML),... Kiểu cốt
truyện – nhân vật con người đến với thế giới u ma để địi cơng bằng, giải nỗi oan trái, bất
hạnh trên trần gian (10/30 truyện): Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu, Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện nàng Lệ nương, Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên (TKML),... Kiểu cốt truyện – nhân vật yêu ma từ vật thành tinh,
biến hóa, tiếp xúc với con người (15/30 truyện): Truyện tinh chuột, Truyện một giấc mộng,
Truyện chồng dê, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Duyên lạ ở Hoa quốc (TTDT), Chuyện yêu
quái ở Xương Giang, Chuyện đối tụng ở Long cung, Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông
Triều, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Chuyện kỳ ngộ
ở trại Tây (TKML), Hải khẩu linh từ, Long hổ đấu kỳ (TKTP),... Theo đó, trong mỗi truyện
khơng chỉ có một kiểu cốt truyện – nhân vật duy nhất, độc lập. Các kiểu xuất hiện nhân vật
yêu ma như trên có sự tương đồng với mơ hình cốt truyện dân gian. Nhân vật yêu ma xuất
hiện trong các tình tiết truyện truyền kỳ và truyện cổ dân gian đều diễn biến theo trình tự
tuyến tính khá đơn giản, sự việc trước kể trước, sự việc sau kể sau.
Chúng tôi cũng nhận thấy nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích và truyền kỳ thường
xuất hiện theo cơng thức cốt truyện chung sau: Giới thiệu nhân vật yêu ma – các biến cố, sự
kiện diễn ra với mâu thuẫn, xung đột – kết thúc, mâu thuẫn được giải quyết. Theo đó, diễn
biến những sự việc theo nhân vật và kết thúc. Phần lớn nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích
và truyền kỳ có tính cách nhất qn, một chiều. Tính cách của nhân vật chủ yếu được bộc
lộ qua lời giới thiệu của tác giả và hành động của nhân vật. Tác giả truyền kỳ thường giới
thiệu trước tính cách nhân vật yêu ma, sau đó bằng lời thoại cùng hành động, thái độ của
nhân vật yêu ma trước diễn biến sự việc được kể mà người đọc thấy được tính cách, phẩm
chất nhân vật như tác giả đã giới thiệu (26/30 truyện). Có 4/30 truyện truyền kỳ tác giả chỉ
giới thiệu về lai lịch nhân vật yêu ma, khơng giới thiệu tính cách mà để người đọc tự nhận
ra tính cách qua hành động, ngơn ngữ của nhân vật đó. Hầu như khơng thấy nhân vật u
ma có mâu thuẫn nội tâm cũng như khơng có tính cách phức tạp, hai mặt vừa thiện vừa ác,
vừa tốt đẹp vừa xấu xa như nhân vật trong sáng tác văn học hiện đại. Rõ ràng giữa sáng tác
của nhà nho với dân gian trong cách thức xây dựng nhân vật yêu ma có những nét gần gũi.
Nguyên nhân được cho là khuynh hướng tư tưởng của họ gần nhau nên nguyên tắc miêu tả
cuộc sống cũng giống nhau. Hình ảnh nhân vật yêu ma trong truyện truyền kỳ có yếu tố gần
gũi với dân gian, thô sơ mà khoẻ khoắn, bóc trần con người vì tả thực, gắn liền với đời sống
hàng ngày của nhân dân lao động. Có thể lấy hầu hết các truyện truyền kỳ để chứng minh
cho công thức cốt truyện và nghệ thuật miêu tả nhân vật yêu ma như trên, từ Truyện tinh
chuột, Duyên lạ xứ Hoa, Truyện yêu nữ Mai Châu, Chuyện lạ nhà thuyền chài (TTDT), đến
Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa, Chuyện cây gạo, Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Chuyện kỳ
ngộ ở trại Tây, Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu (TKML), Hải khẩu linh từ, Bích Câu
kỳ ngộ, Long hổ đấu kỳ (TKTP),... Kết thúc truyện thường là sự chiến thắng của con người
trước thế lực yêu quỷ. Điều này như một dấu ấn cho thấy nhân vật yêu ma chính là một trong
32
PHẠM VĂN HÓA
những cầu nối giữa truyện truyền kỳ với cổ tích dân gian. Và nhân vật này đóng vai trò quan
trọng trong việc xây dựng kết cấu cốt truyện của truyện truyền kỳ. Đó là một minh chứng
phần nào cho thấy mối quan hệ, sự tiếp biến những truyền thống dân gian trong sáng tác
truyền kỳ. Từ đó, giúp thể loại này giữ vị trí quan trọng trong tiến trình văn học Việt Nam.
Tóm lại, trên phương diện cốt truyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật yêu ma nói riêng, tác
phẩm truyền kỳ có dấu tích của sự kế tục và phát triển từ truyện cổ dân gian. Tuy nhiên, khi
nói đến vai trị là chiếc cầu nối của nhân vật yêu ma giữa hai bộ phận văn học, hai loại hình
sáng tác, chúng ta khơng chỉ nói ảnh hưởng của truyện cổ dân gian lên tác phẩm truyền kỳ
mà cịn nói đến sự sáng tạo của các nhà nho khi tiếp nhận những ảnh hưởng ấy, cụ thể ở đây
là trong cách xây dựng nhân vật yêu ma.
3. Bước tiến mới của hình tượng nhân vật yêu ma trong truyện truyền kỳ
Tuy đã tiếp thu dân gian nhưng hình tượng u ma trong truyện truyền kỳ khơng phải
là một sự sao chép nguyên xi từ truyện cổ tích, mà dám phá vỡ những lối mịn, để trở thành
một phương tiện nghệ thuật hồn thiện hơn, góp phần nâng cao vị trí và giá trị nghệ thuật
của truyện truyền kỳ nói chung.
3.1. Nội dung thế tục hố của hình tượng nhân vật yêu ma
Thế kỷ XV – XVII, xã hội phong kiến Việt Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng,
nội chiến liên miên, đẫm máu. Điều nhà nho nhìn và nghe thấy rõ nhất là thân phận con
người rơi vào thảm cảnh vợ chồng li biệt, nhà tan cửa nát,... Tác phẩm truyền kỳ đã đụng
chạm đến một vấn đề cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: Vấn đề thân phận con
người. Vũ Thanh khẳng định: “Với các tác phẩm truyền kỳ, lần đầu tiên, con người xuất
hiện trong văn học với tư cách là đối tượng phản ánh. Đó là số phận con người bình thường
trong xã hội, những phận đời bé mọn, những kiếp người bất hạnh. Nhà nho hiểu và thông
cảm cho những khát vọng chân chính của con người” (Vũ Thanh, 2018, tr. 774). Tác giả
truyền kỳ đặc biệt gửi gắm qua ý hướng phê phán tình trạng xã hội phong kiến với tầng lớp
thượng tầng nhiều rối ren với chiến tranh liên miên. Cùng với tình trạng phân biệt đẳng cấp
ngày càng trầm trọng, vua quan khơng làm trịn trách nhiệm phụ mẫu của dân, nam quyền
bất công, thân phận người phụ nữ bị rẻ rúng, mất quyền sống làm người chân chính, khơng
có quyền tự định đoạt hạnh phúc của bản thân, là người dân tồn tại phổ biến tâm lí hoang
mang, bi quan, cảm giác bất an trước cuộc sống hiện tại, mờ mịt về cuộc sống tương lai,...
Thông qua nhân vật yêu ma, các tác giả cũng đưa hương vị của đời sống thị dân thông tục
vào truyện truyền kỳ với nhiều tệ nạn làm lòng người rối ren: Cờ bạc, trộm cắp hoành hành,
tật dịch tràn lan, chuyện trai gái phóng đãng, trật tự lễ giáo luân thường bị đảo lộn,... Nhân
vật yêu ma trong truyện truyền kỳ được xây dựng như là tấm gương soi hình bóng nhân tính
của con người, đồng thời cũng mang sắc thái thẩm mỹ thời đại. Nhà nho cho nhân vật yêu
ma lộng hành trong trật tự Nho giáo để làm nổi bật sự tha hóa của nhân thế, sự thối nát của
các tổ chức xã hội do con người tạo dựng đã khiến nhân dân mất lòng tin sâu sắc vào con
người và xã hội loài người. Nhà nho lại xây dựng một thế giới yêu ma tốt đẹp hơn thế giới
nhân gian. Ở thế giới bên kia, yêu ma vốn là người kia có một cuộc sống tốt đẹp hơn, được
bảo vệ và yêu thương, thông cảm. Đó phải chăng là cách bày tỏ sự “giải thiêng” của nhà nho
33
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH...
đối với diễn ngơn chính thống, thể hiện sự kháng cự của những người thuộc tầng lớp tinh
hoa với thế giới quan, nhân sinh quan Nho giáo, đồng thời phô bày một sự khủng hoảng bản
sắc mạnh mẽ của những trí thức được đào tạo bởi cửa Khổng sân Trình. Thực tế đời sống
nhân dân trong thời kỳ cuối XVI – XVIII hết sức bất an vì nạn binh lửa phong kiến và xã hội
rối ren, giai cấp phong kiến cầm quyền khơng tìm ra được cách thức giải quyết những vấn
đề xã hội. Nguyễn Đức Sự khẳng định: “Thời kỳ này không những giới nho sĩ mà cả đông
đảo những người bình dân cũng tin vào số trời, thần thánh và những lực lượng siêu nhiên
khác. Trong thời loạn, Nho giáo khơng giúp con người giải thích được mọi hiện tượng phức
tạp trong xã hội, không tạo được niềm tin và thoả mãn được đời sống tinh thần của họ. Vì
thế, Phật giáo, Đạo giáo lại có dịp phục hưng và phát triển bên cạnh sự sa sút của Nho giáo”
(Nguyễn Đức Sự, 2006, tr. 34). Việc xây dựng hình tượng yêu ma của truyện truyền kỳ chịu
tác động mạnh mẽ của bối cảnh văn hóa xã hội đương thời. Và bối cảnh thời đại cũng là một
nguyên nhân truyện về nhân vật yêu ma chiếm tỉ lệ đa số trong thể loại truyền kỳ trung đại
Việt Nam.
Truyện truyền kỳ đưa nhân vật yêu ma về với đời thường, ứng xử theo tiêu chuẩn
của cuộc sống thực tế. Người là tiền thân của ma, ma là người đã chịu khổ đau mà rời bỏ
nhân gian nhưng vẫn quyến luyến nhân thế. Người và yêu ma không tồn tại biệt lập ở hai
thế giới, hình như khơng có ranh giới nào, hơn nữa giữa người và u ma cịn tương thơng,
tương liên, tương tri với nhau. Trong truyện truyền kỳ, 20/30 cốt truyện có đề tài tình u
giữa người với u ma, hay tình cảm vợ chồng giữa người với yêu ma. Trong khi đó, số
truyện cổ tích có cốt truyện tình yêu giữa người với yêu ma chỉ là 6/47 truyện có nhân vật
yêu ma. Các tác giả cấp cho thế giới yêu ma tình cảm con người, yêu ma cũng có tình cảm
bình thường nảy sinh trong đời sống nam nữ, khơng chỉ u đương mà cịn có thể kết hôn
(Duyên lạ ở Hoa quốc (TTDT), Chuyện cây gạo, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Chuyện lạ nhà
thuyền chài (TKML)...) Tình yêu ở đây cũng trong sáng, cũng khao khát, cũng ghen tng
nghi kị, cũng ích kỷ, vơ cảm, cũng thuỷ chung, đợi chờ và gắn bó với nhau cả thể xác lẫn
tâm hồn như con người. Không chỉ con người mà yêu ma cũng biết suy nghĩ về thân phận,
lo lắng về tương lai. Trong truyện truyền kỳ, tình yêu giữa con người với yêu ma được miêu
tả nồng nàn, mãnh liệt, đầy vấn vương và phóng khống, tình yêu tự do thay thế “môn đăng
hộ đối” (Chuyện yêu nữ ở Mai Châu, Chuyện lạ nhà thuyền chài, Chuyện người con gái
Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (TKML), Truyện chồng dê, Duyên lạ ở
Hoa quốc (TTDT)...). Phải chăng, điều này thể hiện sự chuyển đổi lớn của quan niệm nhân
sinh. Truyền thống thi thư lễ nhạc không thể làm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần của
người bình dân. Với tình yêu giữa ma với người, đời sống tình cảm trường kỳ cấm đốn
của lễ giáo phong kiến được giải toả. Việc xây dựng cốt truyện – nhân vật tình u lứa đơi
giữa người và yêu ma, truyện truyền kỳ muốn nói lên khát vọng hạnh phúc ở nhân gian của
người bình dân. Hơn nữa, hình tượng này cịn làm nổi bật lên tinh thần phóng khống, muốn
thốt khỏi ràng buộc của văn chương phong kiến. Truyện truyền kỳ, chuyện tình người với
yêu ma mà còn mang hàm ý phê phán hành vi sai lạc, sự tha hóa nhân cách của con người
(Truyện yêu quái ở Xương Giang (TKML), Chuyện nghiệp oan của Đào thị (TKML), Cây
gạo (TKML),...). Miêu tả sự đáng sợ của tình yêu người và yêu ma và sự đe doạ của thế giới
34
PHẠM VĂN HÓA
yêu ma với cuộc sống con người, nhà nho bày tỏ nhận thức mâu thuẫn trong xã hội hiện thực
cũng như là thái độ ngờ vực với cuộc sống hiện tại.
3.2. Bước tiến trong xây dựng hình tượng nhân vật nghệ thuật
Khảo sát ba tập truyện truyền kỳ Thánh Tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Truyền kỳ
tân phả, chúng tơi nhận thấy số truyện có nhân vật yêu ma chiếm một tỉ lệ khá cao (30/43
truyện, chiếm 70 %). Ngược lại, liên quan đến đề tài người và thần tiên giao lưu qua lại
trong Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tơng) chỉ có 7/19 truyện, Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn
Dữ) chỉ có 4/20 truyện, Truyền kỳ tân phả (Đồn Thị Điểm) chỉ có 2/4 truyện. Điều này cho
thấy truyện truyền kỳ có ý thức làm yếu hóa đề tài truyền thống người thần giao lưu qua lại.
Trong các truyện trên, cuộc sống thần tiên không mang màu sắc của chốn cực lạc, thong
dong tự tại, an nhàn hạnh phúc. Thần tiên khơng có năng lực vạn năng, lại càng khơng có
những cuộc tình diễm lệ với người. Thế giới yêu ma trong truyện truyền kỳ cũng không như
truyện chí qi Trung Quốc với nhiều phép thần thơng biến hóa, mưu ma chước quỷ khủng
bố nhân gian. Cịn so với truyện cổ tích, đặc điểm và tính cách nhân vật yêu ma truyện
truyền kỳ cũng được thể hiện rõ rệt, sống động hơn, cá tính hố cao độ. Tác giả có nhiều sự
dụng cơng hơn trong việc dựng lên những đoạn đối thoại của nhân vật người với yêu ma,
từ đó chân dung nhân vật hiện lên thuyết phục hơn. Bên cạnh lời nói và hành động, yêu ma
truyện truyền kỳ cịn có tình cảm, tâm trạng - dấu hiệu của sự vận động và phát triển tính
cách. Khác với nhân vật yêu ma trong truyện cổ tích thường hành động một cách bản năng,
yêu ma truyền kỳ vừa hành động vừa suy nghĩ, hành động thường đi liền với suy nghĩ. Diễn
biến tâm lý của nhân vật yêu ma tuy chưa phức tạp nhưng đã có một quá trình vận động
hướng đến đời sống nội tâm sống động. Không chỉ sinh tồn trong cùng một không gian,
người và u ma cịn có thể trở thành tri âm, trao cho nhau tình cảm của con người. Nội tâm
nhân vật được miêu tả một cách trực diện và mang tâm trạng có màu sắc bi kịch. Mặc dù,
rất nhiều truyện có tính tái tạo lại câu chuyện dân gian, nhưng nhân vật yêu ma trong truyện
truyền kỳ được đặt trong bối cảnh xã hội phức tạp hơn, cuộc đời có diễn biến khó lường
hơn, nghệ thuật xây dựng nhân vật yêu ma, sắp xếp tình tiết trở nên đa dạng và sáng tạo hơn.
Con người trong truyện truyền kỳ tiếp xúc với những cảnh phi phàm của thế giới yêu ma,
địa ngục lại thường được bố trí hồn tồn trong trạng thái mơ màng. Chính trạng thái này
của nhân vật con người đã phản ánh nhận thức của tác giả về những không gian huyền thoại
gắn với yêu ma trong tác phẩm. Cảnh địa ngục, cảnh gắn với thế giới yêu ma được tác giả
dồn rất nhiều công phu, chiếm một dung lượng khá lớn trong tác phẩm (20 tác phẩm chiếm
½ khơng gian truyện, 10 truyện chiếm 2/3 khơng gian truyện). Lý do là tác giả mượn hình
tượng của tôn giáo để gột rửa những ảo tưởng về xã hội hiện thực của nhà nho. Cơ hồ tác giả
truyền kỳ muốn làm nh đi tính xác thực của khơng gian địa lý, không gian cụ thể, tạo nên
ảo giác về một không gian huyền thoại, một thế giới trong đó có các yếu tố siêu nhiên, kì ảo
có thể xuất hiện một cách thuận lợi. Trong cái thế giới như vậy, sự xuất hiện của yêu ma, quỷ
quái mới khơng thành đột xuất (thậm chí cịn cần đến sự hiện diện của chúng).
Nhân vật yêu ma truyền kỳ giữ một vai trò quan trọng đối với nội dung phản ánh, kết
cấu cốt truyện và sự tiến triển, vận động của câu chuyện. Nhật vật yêu ma truyền kỳ có giới
35
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH...
tính rõ ràng và tỉ lệ giới tính nam nữ tương đương nhau (nam giới 26/51 nhân vật, chiếm
51%; nữ giới 21/51 nhân vật, chiếm 43,1%, 03 nhân vật khơng có giới tính rõ ràng). Ngồi
Diêm vương, u ma nam giới chủ yếu là nhà nho, yêu nữ là hồn ma cô gái ngoan hiền hoặc
biến thành cô gái xinh đẹp, quyến rũ. Người phụ nữ đức hạnh bất hạnh thành ma, người con
gái nhan sắc thành ma thì đáng sợ, hãm hại, cản trở nhà nho. Nhân vật yêu ma trong truyền
kỳ được miêu tả như những con người trần thế, với tất cả khổ đau và sung sướng, lo sợ và
hy vọng. Hình ảnh nam nữ gần gũi tình tự, vuốt ve nhau, thiếu nữ tắm khoả thân đùa giỡn
hay cảnh trai gái tủm tỉm quàng vai nhau,... dưới con mắt của tác giả truyền kỳ không bị
xem là dung tục, suồng sã, tầm thường. 26/43 truyện truyền kỳ chú trọng miêu tả đời sống
tình cảm người và yêu ma. Yêu ma trong truyện truyền kỳ chịu ảnh hưởng của vẻ đẹp xác
thịt, vật chất. Nguyễn Phạm Hùng đã nhận xét: “Truyện truyền kỳ là những sáng tác văn học
viết mở đầu một cách đích thực cho phong cách nghệ thuật phản ánh những cái bình thường
thơng tục, phản ánh con người trần thế, có tính hiện thực” (Nguyễn Phạm Hùng, 2001, tr.
67). Nhân vật yêu ma đã thực sự trở thành nhân vật văn học. Các nhân vật yêu ma đã cùng
con người nhân nghĩa và hiếu hạnh “liên minh” với nhau, tạo thành một lực lượng duy trì và
bảo vệ đạo lý ở đời. Điều này giải thích vì sao trong truyện truyền kỳ, nhân vật u ma tồn
tại với hai khuynh hướng: Khẳng định và phủ định. Có khi hình tượng này nhằm lên án đạo
đức phong kiến cùng những phương diện của cơ chế xã hội đang suy đồi. Lúc này, yêu ma
luôn đứng về phía những người lương thiện để chống lại cái ác, cái vơ đạo đức. Có khi u
ma là hiện thân của xã hội rối ren, đạo đức suy đồi, sự tác động tiêu cực của đồng tiền và lối
sống phóng khống vơ đạo của tầng lớp thị dân. Điều này đúng như nhận định của Nguyễn
Thị Kim Ngân: “Có thể nhận thấy truyện truyền kỳ lúc này đã cố gắng cung cấp một hệ
thống tình tiết phức tạp liên quan đến sự xuất hiện của hồn ma mà ở đó bối cảnh đã được
trao truyền lý tính cao hơn nhằm giải thích cho những sự kiện vốn khơng thể nào giải thích
trong folklore” (Nguyễn Thị Kim Ngân, 2017, tr. 57). Nhân vật này trong truyện truyền kỳ
là hình ảnh của mặt trái trong tư tưởng xã hội và khát vọng sống hạnh phúc. Hình tượng thể
hiện tính nhân đạo tích cực của văn học, văn học vì con người, đặt con người lên trên hết.
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, ngoại trừ Diêm Vương, hầu hết nhân
vật yêu ma trong truyện cổ tích thuộc tầng lớp thấp cổ bé họng, bị coi khinh trong xã hội. Rất
ít nhân vật yêu ma nào hành động với chức năng trợ giúp nhân vật chính. Trong số 64 nhân
vật yêu ma trong truyện cổ tích, chỉ có 12 nhân vật đóng vai trị trợ giúp con người vượt qua
thử thách, khó khăn, chiếm 19%. Khác với nhân vật yêu ma truyện cổ tích thường đóng vai
trị cản trở, thử thách nhân vật chính với tính cách độc ác, biểu tượng của chết chóc và địa
ngục, hiểm họa và tai nạn của con người, nhân vật yêu ma thuộc tuyến thiện trong truyền
kỳ chiếm tỉ lệ khá cao (30 trong 51 nhân vật yêu ma, chiếm 59%), chỉ có 17 trong 52 nhân
vật yêu ma trong 9 truyện truyền kỳ có hành động gây hại cho con người. Đưa thế giới xấu
xa viết lại thành “đẹp đẽ”, sau đó đem cái “đẹp” đó đối sánh với cái “xấu” của thế giới nhân
gian, làm rõ khác biệt giữa hai thế giới, nhà nho muốn bày tỏ thái độ căm ghét thế giới hiện
thực xấu xa đáng ghét. Điều này khác với nhân vật yêu ma trong cổ tích và kể cả văn học Lý
Trần. Tuy đa số có hồn cảnh gia đình bất hạnh, hoặc bị oan khuất, không toại nguyện khi
làm người, nhưng nhân vật yêu ma truyền kỳ thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội
36
PHẠM VĂN HĨA
(Tích Thiên (Gã trà đồng giáng sinh – TKML), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang
– TKML), Ngoạ Vân (Chuyện lạ nhà thuyền chài - TTDT),...) và hồn ma có một số lượng
khá lớn (42/51 nhân vật yêu ma – 82,4%). Trong truyện cổ tích, loại yêu ma này rất ít (26/64
nhân vật yêu ma – 41%) mà chủ yếu là những sự vật lâu năm thành tinh. Nhân vật yêu ma
truyền kỳ không phục vụ cho nhu cầu nhận thức tơn giáo, tín ngưỡng mà chủ yếu phục vụ
cho nhu cầu nhận thức cuộc sống hiện thực của con người. Yêu ma chủ yếu là phương tiện
nghệ thuật chứ khơng cịn là mục đích miêu tả. Các nhà nho thời kỳ này từ sớm đã bỏ quan
trường, mượn ngòi bút phản ánh hiện thực cuộc sống, mượn hình thức truyền kỳ bày tỏ suy
nghĩ của bản thân về cuộc sống, thưởng thức hương vị cuộc đời. Họ đã gần gũi với quần
chúng nhân dân trong việc mượn thế lực siêu nhiên để đả kích xã hội hủ bại nhưng lí tưởng
thẩm mỹ và hồn cảnh sống thì khác quần chúng.
Tóm lại, ngồi ngun nhân là diễn biến phát triển của nội bộ chủ đề, là nhu cầu, sự
lựa chọn cố ý để phản ánh hiện thực. Rõ ràng việc các nhà nho không ngưỡng mộ thần tiên
mà chọn nhân vật yêu ma – đó là sự bế tắc cùng cực của họ về vấn đề con người trong xã hội
đó. Cuộc đời hiện tại, thế giới hiện thế này không thể gặp nhau, niềm hy vọng đó sẽ được
gửi gắm vào cuộc đời tương lai, thế giới kiếp sau. Chuyện yêu ma trở nên phù hợp với sự
bất lực của con người với hiện thế và niềm ngóng trơng tương lai. Nhưng những câu chuyện
về u ma trong truyện truyền kỳ mở ra một vùng đất mới của lĩnh vực đề tài văn xuôi trung
đại Việt Nam.
4. Kết luận
Người Việt Nam từ xưa thông thường chỉ quan tâm đến “sinh”, rất ít tác phẩm văn
chương nói đến vấn đề cái chết. Và cho dù có bàn đến cái chết cũng là vì con người làm thế
nào mà “sinh”, đó chính tinh thần truyền thống của văn hóa Việt Nam. Những vấn đề liên
quan đến hệ thống ý niệm của con người thời kỳ phong kiến về thế giới bên kia, thế giới
khác mặt đất vốn là nơi thể hiện sự âu lo về cái chết hay những gì xảy ra sau cái chết thực
chất là thể hiện khát vọng muốn vượt qua sự băng hoại của đời sống hiện thực đương đại và
vượt qua sức mạnh khủng khiếp của cái chết của con người. Đây cũng là hành trình của nhân
vật yêu ma từ truyện cổ tích đến truyện truyền kỳ. Đương nhiên, tiến lên một bước, nhân vật
yêu ma trong truyện truyền kỳ so với truyện cổ tích đã chứa đầy những vấn đề xã hội đương
thời. Với truyện truyền kỳ, hình tượng nhân vật yêu ma đã trở thành một hình tượng văn học
thể hiện nổi bật bước chuyển biến trong tư duy nghệ thuật và phát huy nhiều ưu thế trong
phản ánh cuộc sống của văn học. Đó chính là cống hiến của truyện truyền kỳ đối với sự phát
triển của văn xuôi tự sự trung đại. Nhìn vào quá trình phát triển của văn học trung đại Việt
Nam, chúng ta nhận thấy, các nhà nho thế kỷ XVI có được may mắn, vì so với thế hệ trước
họ được tiếp nhận một di sản văn học dân tộc phong phú và giàu có.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị An (2008), “Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif – Những
khả thủ và bất cập”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (7), 13 – 24.
37
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT U MA TỪ TRUYỆN CỔ TÍCH...
[2] Nguyễn Đổng Chi (sưu tầm & biên soạn) (1957), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Đồn Thị Điểm (1997), Truyền kỳ tân phả (Ngơ Lập Chi-Trần Văn Giáp dịch), Nxb
Thế giới, Hà Nội.
[4] Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
[5] Nguyễn Đức Sự (2006), “Mấy vấn đề nho giáo ở Việt Nam thế kỷ XVI và XVII”,
Tạp chí Triết học (9), 32 – 39.
[6] Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Folklore và văn học viết – Nghiên cứu từ góc độ
“dịch chuyển khơng gian” trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[7] Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn
lục (Phạm Tú Châu-Trần Thị Băng Thanh-Nguyện Thị Ngân dịch), Nxb Văn học,
Hà Nội.
[8] Lê Thánh Tông (2008), Thánh Tơng di thảo (Nguyễn Bích Ngơ dịch), Nxb Văn học,
Hà Nội.
[9] Vũ Thanh (2018), “Thể loại truyện kỳ ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy
sinh và phát triển đến đỉnh điểm”, Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX: những vấn đề
lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[10] Phạm Văn Thắm (1997), “Truyền kỳ mạn lục - giới thiệu văn bản”, Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1 (Trần Nghĩa chủ biên), Nxb Thế giới, Hà Nội.
IMAGES OF MONSTER CHARACTERS FROM VIETNAMESE FAIRY
TALES TO VIETNAMESE MEDIEVAL LEGENDARY TALES
PHAM VAN HOA
Da Lat University
Abstract: Through surveying the system of monster characters in the Vietnamese folktales in the Treasures of Vietnamese Fairy Tales (collected and compiled by Nguyen Dong
Chi), and legendary tales of the Thanh Tong’s Posthumous Manuscript (Le Thanh Tong),
Collection of Strange Tales (Nguyen Du), and New Collection of Legendary Tales (Doan
Thi Diem), the article initially shows specific manifestations inherited from folk literature in
terms of cultural origins, reflective contents, plots and arts of creating monster characters.
The article also highlights the leaps and bounds of legendary tales in creating monster
characters in the tendency of secularisation and epochalism. With the image of monster
characters, legendary tales show a step forward in artistic thinking and promotes the lifereflecting advantage of literature. The article also indicates the contribution of legendary
tales to the development of Vietnamese medieval narrative prose.
Keywords: Vietnam, Fairy tales, Legendary tales, Monsters, Inherited, Step forward.
38